Các Trang

Thứ Năm, 25 tháng 11, 2010

Tạm Biệt Cha Tường


Đôi lời tiễn biệt trước ngày thân xác Lm. Dũng Lạc Cao Tường

trở về với lòng Đất Mẹ, 26.11.2010


TẠM BIỆT CHA

Cha về nơi Sáng-Vô-Cùng,

Con còn dưới đất, cũng chung con đường.

Hẹn ngày hội ngộ tương phùng.

*




Bài viết về Lm.Dũng Lạc Cao Tường:

LINH MỤC TRẦN CAO TƯỜNG LÀ MỘT GIÁO SĨ CÔNG GIÁO

Trên Thông Tấn Xã Công Giáo Việt Nam, Vietcatholic News, 17 giờ 03, ngày 21 tháng 11 năm 2010, người ta đọc được một bản tin vắn do linh mục Trần Công Nghị phổ biến : « Linh mục Anrê Dũng Lạc Trần Cao Tường đã qua đời lúc 11 giờ 56 phút (giờ new Orleans) ngày Chúa Nhật 21.11.2010 ».

Liên tiếp trong mấy ngày sau, nhiều nhà văn nhà thơ nhà nghiên cứu đã gởi lời chia buồn, tiễn biệt, tưởng niệm, phổ biến trên nhiều mạng lưới công giáo việt nam. Nhiều người đã đặt câu hỏi linh mục TRẦN CAO TƯỜNG là ai ?

Trong tất cả các danh hiệu mà người ta có thể dành cho linh mục Trần Cao Tường, danh hiệu giáo sĩ có một bản chất chính tông và chuyên nghiệp, vì chính ông đã ý thức chọn bậc sống này, học tập, rèn luyện, theo đuổi, đã được phong chức và đã thực hành sứ mệnh này trong 35 năm, từ 1975 đến 2010.


Sinh ngày 15 tháng 8 năm 1946 trong một gia đình công giáo đạo đức gồm bảy anh em của vùng công giáo kỳ cựu và nổi tiếng là Phát Diệm, năm lên 13 tuổi, ngày 01.09.1959, cậu Tường được nhận vào Tiểu Chủng Viện Phát Diệm, Phú Nhuận. Dưới sự chỉ dẫn tu đức của cha Linh hướng Nguyễn Minh Nhật, sau này làm giám mục địa phận Xuân Lộc, Trần Cao Tường là một trong những tiểu chủng sinh thấm nhuần sâu xa tinh thần truyền giáo Tông Đồ Nhỏ. Học xong tú tài ở tiểu chủng viện một cách xuất sắc, thầy Tường được Đức cha Nguyễn Khắc Ngữ, giám mục địa phận Long Xuyên, gửi đi du học Rôma, trong Trường Truyền Giáo. Học xong triết học và thần học tại đây, năm 1973 thầy trở về Việt Nam, chịu Chức Phó Tế và giúp xứ tại Phú Quốc. Sau hai năm giúp xứ, ngày 6 tháng 4 năm 1975, thầy được Đức Giám Mục Long Xuyên truyền chức Linh mục.


Tân linh mục Trần Cao Tường trở về Phú Quốc làm lễ mở tay. Ngày 30.04.1975, ông bị kẹt lại ở đây. Cùng với hai em gái, cha Tường đã di tản và tới được Hoa Kỳ. Tháng 9 năm 1975 cha Tường cùng với 11 gia đình Việt Nam khác đã chọn miền nắng ấm, lập thành Cộng Đồng Versailles, New Orleans, Lousiana, mà cha quản nhiệm từ 1975 đến 1991.

Trong thời gian 16 năm này, để tạo thêm khả năng tu đức và mục vụ, cha Tường đã ghi tên học thêm hai khóa trình : Trong hai năm 1977-1979, về Tôn giáo học tại Đại Học Loyola New Orleans ; và trong niên khóa 1985-1986 về tu đức học tại Trường Linh Hướng Thánh Linh Pecos, New Mexico.

Nhờ những khóa trình này, công việc mục vụ của cha phát triển và rõ rệt đa dạng hơn. Cha đi giảng các khóa canh tân giáo xứ, giúp tĩnh tâm nhiều dòng tu, làm linh hướng cho các phong trào Linh Thao, Cursillo, Lời Chúa, Thánh Linh.


Từ tháng hai năm 1991, cha Tường được chuyển tới một cộng đoàn nhỏ bé Miền Tây Ngạn để làm Quản Nhiệm Cộng Đoàn Đức Mẹ Lên Trời. Cha làm mục vụ ở đây cho đến ngày Chúa gọi về Núi Thánh ngày 21.11.2010.


Trong thời gian 19 năm này, không kể những công việc mục vụ bình thường của một linh mục quản xứ, cha Tường học thêm bằng chuyên nghiệp về chụp hình ở New York Institute of Photography năm 1996 và năm năm sau đã lập Phòng Ảnh Nghệ Thuật / Chiêm Niệm Tniền, trong đó cha trình bày nhiều ảnh nghệ thuật, phụ họa bằng thơ.

Đồng thời phát triển công việc mục vụ bằng những hoạt động văn hóa. Trước nhất là phổ biến Lới Chúa và Đời Sống Đức Tin Công Giáo bằng sách vở, truyền thanh, mạng lưới,…. Cha đã viết văn và sáng tác trên 10 cuốn sách ; đã tham dự các chương trình phát thanh ; và đã lập riêng một mạng lưới tin học, lấy tên là Mạng Lưới Dũng Lạc http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&id=61.


Công việc của một giáo sĩ, khởi đầu cha TƯỜNG đã thực hiện như bao nhiêu linh mục khác qua các hoạt động mục vụ tổng quát, đặc biệt là mục vụ bí tích. Được đào luyện từ nhỏ trơng đường tu đức Tông Đồ Nhỏ của Đức cha Nguyễn Minh Nhật, cha TƯỜNG đã dần dà nới rộng chiều kích mục vụ của mình về tu đức. Thêm vào đó, là cựu sinh viên của Trường Truyền Giáo Rôma, cha Tường đã mở rộng công việc mục vụ của mình đến các sinh hoạt truyền giáo, đặc biệt là truyền giáo bằng nghệ thuật, thơ, văn, có tầm văn hóa.

Linh mục TRẦN CAO TƯỜNG là một giáo sĩ chính tông, có nhiều khả năng và nhiều chuyên môn cao. Cha đã thực hiện sứ mệnh và chức vụ của mình một cách đầy đủ và thành công hữu hiệu. Cha đáng được mến phục, kính phục và nên gương cho các giáo dân và giáo sĩ công giáo việt nam.

Cử hành NĂM THÁNH 2010, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam vừa triệu tập Đại hội Dân Chúa, từ ngày 21 đến 25 tháng 11 năm 2010, tại Trung tâm mục vụ Tổng giáo phận Thành phố HCM và đã gửi một sứ điệp cho dân Chúa, nhắc lại sứ mạng của mình rằng : « Hội Thánh Chúa Kitô có mặt trong lịch sử nhân loại với sứ mạng loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa trong quyền năng của Thánh Thần. Cũng thế, Hội Thánh Chúa Kitô tại Việt Nam có sứ mạng loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa, tiếp nối sứ mạng yêu thương và phục vụ của Chúa Kitô, góp phần kiến tạo nền văn hóa sự sống và văn minh tình thương trên quê hương đất nước này.

Sứ mạng đó đòi hỏi Hội Thánh phải đổi mới không ngừng để thực sự là Hội Thánh Chúa Kitô giữa lòng quê hương Việt Nam ».

Là một giáo sĩ đạo đức và thông minh, linh mục Trần Cao Tường đã nhận ra và đã thực hiện sứ mệnh này.


Paris, ngày 30 tháng 11 năm 2010
Trần Văn Cảnh

Nguồn: dunglac.org

Trường Ca Ave Maria


Trường ca Ave Maria (đoạn I và II), thơ Hàn Mạc Tử, nhạc Hải Linh,
do ca đoàn Trùng Dương và các tu sinh Dòng Chúa Cứu Thế trình diễn
dưới sự điều khiển của ca trưởng Hoàng Hương,
trong đêm tưởng niệm 70 năm thi sĩ Hàn Mạc Tử qua đời (11.11.1940 - 2010)
được tổ chức tại hội trường An Phong, Dòng Chúa Cứu Thế, Saigon
*

Ca khúcTình Quê


Ca khúc Tình Quê: thơ Hàn Mạc Tử, Phan Bá Chức Phổ nhạc, Khắc Dũng trình bày
trong đêm tưởng niệm 70 năm thi sĩ Hàn Mạc Tử qua đời (11.11.1940 - 2010)
được tổ chức tại hội trường An Phong, Dòng Chúa Cứu Thế, Saigon
*

Thứ Ba, 23 tháng 11, 2010

Cánh Chim Dũng Lạc


Lm. Andy Dũng Lạc Trần Cao Tường
(Ảnh: dunglac.org)

CÁNH CHIM DŨNG LẠC

(Thành kính thương nhớ Lm. Dũng Lạc Cao Tường)
15.08.1946 - 21.11.2010

Con chim cất cánh bay lên
Tìm về tổ ấm nơi miền Quê Cha.
Thái dương rực rỡ chói lòa.

*
***
*

BÀI VIẾT CỦA LM. TRẦN CAO TƯỜNG:

THỜI ĐIỂM CHỜ ĐÓN MÙA HOA

"Hope For the Flowers" tạm dịch là Chờ Đón Mùa Hoa. Đó là tên một cuốn sách tâm linh khá nổi tiếng, bán chạy nhất trong nhiều năm liền của tác giả Trina Paulus. Cái đặc biệt của cuốn sách này là rất ít chữ mà chỉ có hình vẽ thôi. Mà lại toàn là hình sâu róm, sợ quá!

Con sâu róm sinh ra trên một cành cây trong một ”gia đình êm ấm”. Một hôm nó nhận ra mình đã trưởng thành, cần ”đi xuống cuộc đời”. Và nó đã bò xuống. Nó lấy làm lạ là tại sao nó toàn gặp những con sâu đang đi hối hả về phía trước. Nó hỏi đi đâu, thì những chú sâu không có giờ trả lời, chỉ ngoắc đầu thật nghiêm trọng. Nó cũng sinh tò mò đi theo. Một lúc lâu thì nó thấy một cái cột thật cao, ngọn chạm tới trời. Nhìn kỹ hơn, nó nhận ra đó là một cái cột toàn sâu lúc nhúc đang chen nhau bò lên. Nó hỏi trên đó có gì thì không đứa nào trả lời. Thấy đông đứa hăm hở như thế chắc là phải có gì hồ hởi lắm. Vậy là nó cũng hòa mình vào đám đông ”ai sao tôi dzậy” mà cố sức leo lên, đạp văng nhiều thằng khác mà đạt mục tiêu. Lên đến lưng chừng thì nó ”thấm mệt cuộc đời”, ”ngựa nản chân bon”, bèn nghĩ chuyện bỏ cuộc. Chắc là chả có gì đâu. Và nó bò được xuống đất. Hú hồn.

Nhưng rồi nó đâm hồ nghi chính nó. Hay là mình chẳng giống ai. Nó quan sát thấy ”người ta” miệt mài tranh nhau bò lên thế kia, ắt là phải có cái gì chứ. Thế là nó lại ra sức trèo lên một lần nữa. Lần này nó hung hãn hơn trước. Đấm đá kỹ hơn. La hét kỹ hơn. Tỏ ra ta đây lắm. Và cuối cùng nó đã leo lên được đỉnh cao chót vót. Nhưng cũng chính là lúc nó thất vọng nhất. Chẳng có gì cả. Thì ra cái cột giầu sang cuộc đời này chỉ là một ảo tưởng được tạo bằng chính những con sâu bon chen đặt ra tiêu chuẩn giá trị. Nhìn sang rừng cây bên cạnh, nó thấy một đàn bướm đủ màu tung tăng vỗ cánh thảnh thơi. Nó có dịp lắng đọng nhìn kỹ để phát giác một điều lạ là ở cành cây đang đeo lủng lẳng những cái tổ kén. Đó là những cái mồ chôn để sâu có thể chui vào mà lột xác thành bướm. Con đường thật là kham khổ đầu tắt mặt tối "chân lấm tay bùn", ai mà chẳng sợ! Nhưng có con đường nào khác nữa đâu?!

TIN VUI TÌM ĐỘNG HOA VÀNG

Mặc dù đang thấy hiện trạng là con sâu, nhưng con sâu biết bản chất của nó là có thể mọc cánh thành bướm bay lên được. Này nhé: Sâu có thể trở thành bướm, những mô đất đá cằn cỗi hai bên đường bỗng bật lên những mầm nụ mới vào buổi sang xuân, chẳng phải là sửng sốt lắm sao?!

Động Hoa Vàng Avondale, Louisiana

Cao điểm của năm phụng vụ trong Đạo Chúa là Lễ Phục Sinh. Kể cũng lạ đấy, Tuần Thánh bao giờ cũng trùng vào đầu mùa xuân hoa nở. Hằng ngày đi đến nhà thờ, tôi thật may mắn được lái xe qua con đường quê thật đẹp vùng Avondale ngoại ô thành phố New Orleans, bang Louisiana. Nhưng đẹp nhất phải kể là những ngày đầu xuân. Bãi cỏ xơ xác hai bên đường mùa đông nay bỗng trải dài một thảm hoa vàng mênh mông. "Động hoa vàng" là đây rồi chứ sao phải mất công mơ tưởng mãi đâu đâu để phải hát nghêu ngao theo kiểu Phạm Thiên Thư với nhạc Phạm Duy:

Rằng xưa có gã từ quan,

lên non tìm động hoa vàng ngủ say.

Mình như đang đi giữa vùng đất thần tiên thơ mộng quá chừng, mà cũng thật gần tầm tay với. Con đường này chắc cũng nhiều người qua lại mỗi ngày. Không biết được mấy người lái xe chậm lại một chút để chiêm ngưỡng vẻ hút hồn của đất trời hòa nhập, nhất là vào những lúc mặt trời đang lăm le đòi đi ngủ, nhoẻn miệng cười toát ra một sắc đẹp quyến rũ vô cùng. Mình bỗng bật lên lời thơ của Tô Thùy Yên:

Ta về cúi mái đầu sương điểm

Nghe nặng từ tâm lượng đất trời.

Cảm ơn hoa đã vì ta nở,

Thế giới vui từ mỗi lẻ loi.

Tim mình bỗng đánh nhịp bản hoan ca mùa xuân sau những ngày lạnh thu mình lại ẩn dưới những cành trơ trụi tiêu sơ. Mình đọc tiếp lời thơ trên:

Ta về một bóng trên đường lớn

Thơ chẳng ai đề vạt áo phai

Sao bỗng nghe đâu mềm phế phủ

Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay.

Vĩnh biệt ta mười năm chết dấp

Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu

Mười năm mặt sạm soi khe nước

Ta hóa thân thành vượn cổ sơ.

NHỊP ĐIỆU LUÂN VŨ

Chắc là Tô Thùy Yên đã bị đầy đọa vùi dập mười năm chứ gì. Đời như đã bỏ. Lỡ vận. Lỡ thời. Nỗi buồn dài dệt bằng những tiếng thở dài, mênh mang, mênh mang. U uất thâm gan tím mật. Mười năm coi như mình đã chết dấp.

Vậy mà mình bỗng bắt lại được nhịp đời bật nụ non khi nhìn hoa nở. Nó nở thì nở chứ có mắc mớ gì mà dám bảo là đã vì ta nở? Nhưng mình thấy rõ là nó vì mình mà nở. Ai muốn nói sao, kệ. Nó nở để cho hoa mình nở. Mọi phiền muộn bỗng dưng thành hòa khúc dịu êm. Mặt trời đang rạng lên trong tâm ta. Một bình minh mới như bình minh đầu tiên thuở hoang sơ nổ ra từ tiếng “big bang”.

Thiên nhiên quả là người mẹ hiền có phép mầu hóa giải những oan khiên, những phiền muộn. Mẹ có điệu ru của mẹ, qua bốn mùa đong đưa nhịp đời trong nôi đại dương dòng sinh lực vẫn tuôn chảy. Nhìn nụ hoa vừa nở, mọi tàn lụi đời mình bỗng mở lối thênh thang. Một nhịp mới bắt đầu. Tự nhiên lắm. Tự nhiên như dòng nước chảy, như tia nắng vừa lên, như dòng hơi thở bơm sinh khí mỗi khoảnh khắc. Thì ra vạn vật đều đi theo một vũ khúc bao la đất trời, gồm ba giai đoạn, tức là nhịp ba, nhịp luân vũ. Đây cũng là tiến trình chết đi và phục sinh, niềm tin gốc của đạo Chúa, nơi Đức Giêsu, và nơi mỗi người.

Nhận ra hiện trạng mình là một hạt cây hay con sâu với hướng vọng thành lá hoa với đàn bướm tung tăng.

Dám chấp nhận bị vùi giập thối rữa hay chui vào tổ kén, chấp nhận được những trở ngại, những khổ đau. Mình đâu có dễ tự mình lột xác được. Thì đây mình được gửi đến những thập giá giúp mình lột xác biến thể. Hạt lúa nếu không rơi xuống đất và chịu thối mục, sẽ vẫn trơ trọi một mình (Gioan 12:24). Ai cố giữ mạng sống mình thì sẽ mất, ai vui chết đi sẽ được sống tròn đầy (Gioan 12:25).

Mọc cánh thành bướm vươn lên một cuộc sống mới thênh thang thảnh thơi, không còn gì có thể chế ngự kềm tỏa ràng buộc được nữa.

PHÚT TỊNH TÂM

Nhưng con người nhiều khi lại không khôn ngoan được như thế, mà cứ cố bám lấy lớp vỏ dầy cứng khiến đời sống mỗi ngày mỗi tàn tạ?! Nhà thơ Luân Hoán thấy cảnh đáng thương như vậy liền cất lời tự tình:

Cảm ơn đất đá trổ thơ

Lòng ta hạt bụi vu vơ bám hoài.

Ta không tự mình buông xả dễ dàng đâu. Thì đây thập tự như “ỷ thiên kiếm” được gửi đến để chém chặt khai quang cho lòng ta phải trống trơn. Cảm ơn những khổ đau đã làm ta nên người. Cảm ơn hạt cây chịu thối mục để hoa bỗng nở tràn. Ngày lễ Phục sinh thể hiện đúng tiết nhịp hoa nở. Hoa trong vườn. Hoa trong tâm ta.

Mồ Trống và Phục Sinh: sức đột biến từ cơn giẫy giụa.

Một hôm tôi chợt thấy một con ve sầu đang đong đưa trên một cành cây ở vườn sau nhà, nhưng đến gần thì nhận ra đó chỉ là một cái xác, có một kẽ nứt phía sau lưng. Đúng là mồ trống rồi. “Nó” đi đâu mất? Bên cạnh là một nụ hoa chớm nở đầy sức sống. Không thấy “nó”, nhưng trông thấy biểu hiện của “nó” nơi một nụ hoa mới thì chẳng phải mất công tìm ở đâu nữa. Nó đã lột xác và đã phục sinh mang một dạng hình khác đầy hoạt lực tươi trẻ. Với cảm hứng này, tôi đã lấy máy chụp ra mà chộp được cái nét hồn của chính mình đang chuyển biến qua biểu tượng đời sống, và đặt tên là "Xác Ve Sầu và Nụ Hoa Mới: Mồ trống và Phục Sinh."

Hạt cây không phục sinh trở lại hạt cây, nhưng đã là hoa lá mới. Con sâu không rụng lông sống lại với kiếp sâu róm, nhưng đã lột xác thành con bướm bay. Đó mới là cảm nghiệm phục sinh cho tôi lúc này như thánh Phaolô tuyên sấm một cuộc tạo dựng mới:

“Ai ở trong Đức Ki-tô đều là tạo vật mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi.” (2Cor 5:17)

Liệu tôi đã bắt đầu dám lột xác vươn mình lên hay vẫn tiếp tục bám vào lớp bụi bặm phù du, tự đầy đọa mình và làm khổ nhiều người? Những gì tôi đang cần xả bỏ để bắt đầu sống thảnh thơi hơn? Và lời thơ vang vọng trở thành lời phản tỉnh:

Cảm ơn đất đá trổ hoa

U mê hạt bụi lòng ta bám hoài

***

Nguồn: dunglac.org



Thứ Hai, 22 tháng 11, 2010

Đêm Tưởng Niệm Hàn Mạc Tử - 19.11.2010


Đêm tưởng niệm 70 năm thi sĩ Hàn Mạc Tử qua đời (11.11.1940 - 2010)
được tổ chức tại hội trường An Phong, Dòng Chúa Cứu Thế, Saigon



Phần giới thiệu do nhà thơ Lê Đình Bảng phụ trách

Thánh lễ tạ ơn do Lm. Phạm Trung Thành,
giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế, chủ tế

Phần hợp xướng do ca đoàn Trùng Dương
và các tu sinh Dòng Chúa Cứu Thế trình diễn
dưới sự điều khiển của ca trưởng Hoàng Hương

Ca-thi sĩ Khắc Dũng, người trình diễn ca khúc Tình Quê,
thơ Hàn Mạc Tử, Phan Bá Chức phổ nhạc

Cộng đồng hát bế mạc
*

Say Thơ

Bốn mùa thơ xanh xanh như cẩm thạch
Chim ngàn trăng đem tiếng lạ về ca .
Ca, cầm ca, tơ đồng vọng dang ra
Cho thêm ý, nguồn hương thêm đầy dẫy .
Màu như ru, sóng âm thanh xô đẩy .
Bao hương thơm trong lời nguyện chiều nay,
Lên bốc lên và ân huệ dường bay .
Ôi! khí hậu lọc bao nguồn ánh sáng.
Chưa no sao ? Nhân từ êm vô hạn
Do bàn tay Thiên Chúa chảy tuôn ra .


Ca, cầm ca, tơ đồng vọng dang ra .
Đức ân ái dồn lên muôn trượng cả .
Hãy quỳ lạy nhìn xem cho sướng đã,
Cả lòng thơ say tớt khí linh thiêng.
Nhạc nồng say mà tình tự còn nguyên.
Cơn sốt sắng xinh hơn cầu vàng diệp,
Ngửa tay thôi, ơn trời đà xuống hiệp.


Trăng và trăng cho thấm hết mọi nơi .
Người thế gian, ôi miệng lưỡi đâu rồi ?
Và tán tạ và khong khen nức nở .
Trăng tờ mờ một trời mơ sớm nở
Bao hoa hồng mầu nhiệm Nữ Vương xưa .
Ôi! đây là đền cao ngự nhà vua
Dòng Đa Vít thuở xưa trời sáng cả .
Hãy quỳ lạy nhìn xem cho sướng đã,
Quê hương thơ đằm thắm biết dường nào .
Đây là vườn nên hoa lá xôn xao .
Gió đổi mới thêm hương cho ánh sáng.
Mùa rộng rãi, trái trăng chao vô hạn,
Ngon thơm hơn thái tảo bữa hôm nay .
Điệu đàn xưa không sánh kịp bường dây
Bởi huyền diệu in như màu nguyệt bạch,
Bởi ước ao tuôn tràn vô pho sách,
Bởi Thánh Kinh no chán nghĩa sâu xa
Lần hít trí khôn ngoan người thế .
Người đã khấn say sưa vô cùng để
Hiệp hòa thơ cho yêu mến bâng khuâng,
Bao nhiêu lòng ai trút sạch lâng lâng.
Đây tất cả, hỡi ôi! Mình Thánh Chúa,
Của tế lễ là nguồn ơn chan chứa,
Đáng trọng thiên và rất đáng mong ơn.
Ly Tao rằng đàn ngọc cũng theo đờn
Bởi đạo hạnh rung muôn dây tình cảm.
Không mê chi kỳ trân người vàng chạm,
Trời cỏ bồng bay thú vị tiêu dao,
Rượu nồng thơm say hoa nguyệt hồng đào .
Đây chỉ mới xe vấn vương lòng dạ .


Hãy quỳ lạy nhìn xem cho sướng đã,
Không gì tiên cho sánh kịp bường thơ .
Tính chất thanh mà phẩm vật không ngờ,
Rất yêu chuộng màu nhơn đức sạch sẽ .
Hồn rất vốn ưa phiêu diêu trong gió nhẹ,
Bay giang hồ không sót một phương nào .
Càng lên cao dây đồng vọng càng cao,
Quyến rũ biết bao kinh cầu nguyện
Và kết tinh thành hào quang kim tuyến
Theo tràn về cho đến cõi vô biên.
Hân hoan thôi! Thơ dường gặp hương nguyền
Là sum hiệp với muôn vì cả Thánh.
Tôi là kẻ đi đường đêm gió lạnh,
Không mong gì hơn kêu gọi tấm lòng thơ .
Bởi chưng đây là xuân trước đợi chờ,
Hơi ấm áp như một nguồn an ủi .
Trời mở rộng và không ai hờn tủi,
Lượng bao dong tha thiết cánh tay êm.
Chao! Tràn trề là phúc hạnh ban đêm,
Va đây chính là cao lương mỹ vị
Của nguồn đạo mà ngày xưa Thánh Khí
Thơ với lòng ai phối hiệp nên duyên.
Mà ai đâu cầm được nỗi niềm riêng.

Hàn Mặc Tử

***

Trích trong tập "Thơ Mầu Nhiệm Ra Đời"

Nguồn: dunglac.org

Lục Bát - chữ Nôm


LỤC BÁT

Ở trong câu sáu đong đưa,
Ở trong câu tám thân thưa nhịp nhàng,
Hồn quê vời vợi mênh mang.
*

Thứ Tư, 17 tháng 11, 2010

Viếng Nghĩa Trang Thiên Thai, Huế

Đất thánh Thiên Thai 07.2010

Khu an táng các linh mục giáo phận Huế

Lm. Tôma Nguyễn Văn Minh, bá phụ

Lm. Phêrô Hoàng Kính, nghĩa phụ

Lm. Phaolô Lê Văn Đẩu, sư phụ

Lm. Giacôbê Trần Văn Thời, sư phụ

Lm. Đaminh Trương Văn Tập,
đồng môn Hoan Thiện 1968
*

Thứ Hai, 15 tháng 11, 2010

Mẹ Tôi - chữ Nôm


MẸ TÔI

Cây chưa mọc hết lá non
Trăng đà lặn xuống, đêm buồn hắt hiu.
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều.
*

Ba Tôi - chữ Nôm

BA TÔI

Trăng kia sớm rụng đầu non,
Mặt trời chiếu cả ngày tròn đêm thâu.
Mặt trời khuất núi đã lâu.
*

Thứ Ba, 9 tháng 11, 2010

Hoa Bướm Vàng

Bướm vàng đậu cánh hoa vàng,
Anh về anh đậu cô nàng quê anh.

Thứ Ba, 2 tháng 11, 2010

Học - chữ Nôm



HỌC

Gần già mới học chữ Nho,
Cái nghiên cái bút tròn vo một mình.
Chữ "tâm", chữ "tính", chữ "linh".
*