Chủ Nhật, 30 tháng 9, 2012

Em vui Trung Thu


Đêm Trung Thu tại vùng ngoại thành Sài Gòn
*

Thứ Bảy, 29 tháng 9, 2012

Sáng tỏ sự thật xác ướp nàng công chúa 20 tuổi


12/09/2012 14:35:06
Không có nàng Mai Hoa công chúa, hiệu diệu Thái Thành, mất ngày 16 tháng 3 năm Thìn nào trong lịch sử Việt Nam.
TIN LIÊN QUAN
Để tìm hiểu về ngôi mộ xác ướp, được cho là của nàng công chúa Mai Hoa, 20 tuổi, tôi tìm đến nhà anh Nguyễn Như Trung ở xóm 5 (xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội), tuy nhiên, anh Trung đi vắng.

Chị Nguyễn Thị Hoa, vợ anh Trung tiếp tôi. Chị kể về “nàng công chúa nằm ngủ” dưới nền nhà với một thái độ hết sức thành kính.

Theo chị Hoa, mảnh đất này vợ chồng chị đã ở nhiều năm. Ngay trước ngôi nhà cấp 4, có một cây khế cổ, già cỗi, có tuổi cả trăm năm. Cây khế ra quả trĩu trịt quanh năm, quả chín mọng rất ngọt.

Cảnh khói hương ở ngôi mộ xác ướp phát hiện ở làng Ninh Hiệp
Cảnh khói hương ở ngôi mộ xác ướp phát hiện ở làng Ninh Hiệp
Bản thân anh Trung, chị Hoa cũng không biết cây khế này có từ khi nào. Các cụ già trong làng Ninh Hiệp khẳng định rằng cây khế đã mọc ở đó hàng trăm năm trước.

Xưa kia, khu nhà anh chị ở là nghĩa địa cổ. Cây khế mọc trên một lùm đất cao, đã già và lớn như vậy. Bao nhiêu năm nay, nó chẳng lớn lên chút nào, cũng không có sự thay đổi gì nhiều.

Các cụ già trong làng đồn đại cây khế trồng ở nghĩa địa, nên thánh thần, ma quỷ trú ngụ, vì thế, vợ chồng anh Trung không dám chặt cây khế đi.

Vợ chồng chị Hoa cũng tỏ ra thành kính với cây khế này một cách lạ lùng. Mỗi khi đi làm về, anh chị thường tắt xe máy từ cổng, rồi dắt xe dưới tán cây khế, chứ tuyệt nhiên không dám phóng xe qua.

Chị Hoa cho rằng, những ngôi mộ xung quanh mộ xác ướp là người hầu của Mai Hoa công chúa
Chị Hoa cho rằng, những ngôi mộ xung quanh mộ xác ướp là người hầu của Mai Hoa công chúa
Mặc dù cây khế này cho quả trĩu trịt, mọng nước, nhưng anh chị chẳng bao giờ dám trèo lên cây khế. Hàng xóm quanh nhà anh chị muốn ăn khế cũng chỉ dám đứng dưới hái quả, hoặc dùng gậy chọc.

Theo chị Hoa, có thể tín ngưỡng dân làng từ xưa, coi cây khế mọc giữa nghĩa địa này là nơi thánh thần trú ngụ, nên mới ứng xử như vậy. Do đó, dù mảnh đất này đã được phân chia cho gia đình chị một cách hợp pháp, song anh chị vẫn không dám đụng chạm đến cây khế.

Khi xây nhà cao tầng, làm sát mặt đường, không còn cách nào khác, vợ chồng chị Hoa buộc phải chặt bỏ cây khế cổ thụ. Lúc hạ cây khế, anh chị cũng làm mâm lễ, cúng bái đầy đủ thủ tục.

Khi đào bật gốc khế, vét lớp đất nhão, thì phát hiện ngôi mộ cổ. Đối chiếu thì thấy ngôi mộ cổ nằm cạnh gốc cây khế và được cây khế tỏa bóng che mát.

Như vậy, theo chị Hoa, khả năng, người xưa, khi đặt mộ, đã trồng cây khế này để tỏa bóng mát, che cho “ngôi nhà” của công chúa!

Sáng tỏ sự thật xác ướp nàng công chúa 20 tuổi
Có lẽ, người xưa, sau khi trồng cây khế ở ngôi mộ, đã thổi vào đó nhiều huyền thoại và câu chuyện kỳ bí, để bảo vệ ngôi mộ và cây khế này. Những câu chuyện đó còn lưu truyền đến tận ngày nay.

Theo chị Hoa, điều lạ lùng là xung quanh ngôi mộ xác ướp này còn có 12 tiểu sành chứa xương cốt. Vì thế, vợ chồng chị Hoa tin rằng, 12 tiểu sành này chính là những người hầu của công chúa. Khi họ chết đi, được chôn cạnh công chúa, để tiếp tục phục vụ nàng dưới âm phủ!

Sự xuất hiện của ngôi mộ cổ có xác ướp, những ngôi mộ xung quanh dưới gốc khế, cùng với những câu chuyện ly kỳ chị Hoa kể về gốc khế, đã khiến ngôi mộ xác ướp này trở nên huyền bí. Những câu chuyện ly kỳ ấy được mọi người quanh xóm thuộc và kể làu làu. Thậm chí, những chuyện đồn đại còn được thêm mắm, thêm muối cho hấp dẫn, rùng rợn.

Nhiều người đồn rằng, sau khi phá mộ, chị Hoa bị ốm đau, bệnh tật suốt nhiều tháng trời, phải đi cúng bái tứ phương, xây đắp mộ công chúa chu đáo, mới khỏi bệnh.

Rồi người dân còn đồn, một người trong làng tham lam trộm tấm ván thiên đem bán, nên đã mắc bệnh rồi chết khi mới ngoài 30 tuổi!

Tuy nhiên, theo chị Hoa, việc chị ốm sau khi quật mộ là bịa đặt, là đồn đại lăng nhăng. Rồi lời đồn có người trộm tấm ván đem bán nên chết trẻ cũng là đồn đại vớ vẩn. Chẳng có ai trộm tấm ván thiên nào cả.

Trao đổi về ngôi mộ mà dân làng thờ cúng, gọi là mộ Mai Hoa công chúa, ông Nguyễn Bá Khánh, Phó Chủ tịch UBND xã Ninh Hiệp cho biết: “Chuyện nhà anh Trung phá ngôi mộ có xác ướp là có thật. Chỉ tiếc rằng, không giữ được ngôi mộ để các nhà khảo cổ về nghiên cứu.

Ông Nguyễn Bá Khánh, Phó chủ tịch UBND xã Ninh Hiệp
Ông Nguyễn Bá Khánh, Phó chủ tịch UBND xã Ninh Hiệp
Còn chuyện người nằm trong mộ có phải công chúa Mai Hoa hay không, thì tôi không dám chắc, vì chưa có cơ sở khoa học.

Sở dĩ người dân gọi là Mai Hoa công chúa, vì gia đình chị Hoa, bà Lộc đi gặp nhà ngoại cảm để tìm hiểu thông tin về thân thế người trong mộ và nhà ngoại cảm đã cung cấp thông tin như vậy.

Người dân tin đây là công chúa nhà Hậu Lê nên xây mộ, rồi thờ cúng, mà không cần bất cứ sự công nhận nào. Việc thờ cúng người chết là tín ngưỡng của người dân, nên xã cũng không ngăn cản. Xã chỉ làm nhiệm vụ giữ trật tự, đảm bảo an ninh và sinh hoạt tâm linh một cách lành mạnh”.

Đem câu chuyện nàng công chúa Mai Hoa về Hải Dương gặp nhà khảo cổ Tăng Bá Hoành (chuyên gia mộ cổ, nguyên Giám đốc Bảo tàng Hải Dương), ông cho biết: “Mộ xác ướp, hay còn gọi là mộ chạt, mộ hợp chất, có ở Việt Nam từ thời Hậu Lê. Ở một số ngôi mộ có tấm minh tinh ghi rõ tên, tuổi, sự nghiệp của người nằm trong mộ.

Nhiều ngôi mộ không có thông tin gì, hoặc thông tin ghi ở bia mộ, nhưng thông thường trải hàng trăm năm, phần mộ trên mặt đất đã bị phá hủy, thất lạc thông tin.

Việc xác định tên tuổi người nằm trong mộ là công việc cực kỳ khó khăn, thậm chí không thể đối với nhà khoa học. Nhưng không thể tin việc xác định tên tuổi, ngày sinh tháng mất người nằm trong mộ thông qua các nhà ngoại cảm. Chỉ có thể xác định, đây là mộ của tầng lớp quan lại, hoặc nhà giàu, có niên đại từ thời Hậu Lê đến thời Nguyễn”.

Nhà sử học Đặng Hùng cho biết: “Tôi đã nghiên cứu các tài liệu, song không phát hiện bất cứ cô công chúa thời Hậu Lê nào có tên là Lê Thị Mai Hoa, hiệu diệu Thái Thành công chúa, chết năm 20 tuổi.

Trong lịch sử, thời Lê chỉ có một công chúa là Ngọc Hoa, con gái vua Lê Anh Tông (1556 – 1573). Vua Lê đã lấy công chúa Chiêm Thành và sinh ra Ngọc Hoa, nên dân gian còn gọi bà là công chúa Chiêm, hay công chúa Chèm.

Năm 1573, vua Lê Anh Tông cùng 3 hoàng tử bị Trịnh Tùng sát hại, chỉ còn lại công chúa Ngọc Hoa và hoàng tử Duy Đán. Khi đó, hoàng tử Duy Đán mới 7 tuổi, được Trịnh Tùng chọn lên làm vua, lấy hiệu là vua Lê Thế Tông.

Do Hoàng tử Duy Đán quá nhỏ nên công chúa Ngọc Hoa phải nhiếp chính thay em trai. Bà làm nhiếp chính cho đến khi vua Lê Thế Tông trưởng thành, chính thức tiếp nhận ngôi vị của triều Lê.

Vì phải cáng đáng việc quốc gia đại sự, nên ngoài 30 tuổi, công chúa Ngọc Hoa vẫn chưa nghĩ đến hạnh phúc riêng. Sau này, vì mộ đạo Thiên Chúa, nên được một giáo sĩ đặt tên thánh là Maria Hoa. Người đời đọc chệch thành Mai Hoa công chúa.

Bà là người sáng lập ra kinh đô An Trường - Vạn Lai Sách (nay là xã Phúc Lập, bên bờ tả ngạn sông Chu, phía dưới đập Bái Thượng - Thanh Hóa). Bà là bề trên của Tu viện Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội đầu tiên ở Việt Nam và ở đó cho đến chết, chứ không phải mất ở tuổi 20 ở làng Nành.

Ngoài ra, tên hiệu của Ngọc Hoa công chúa là Mai Hoa. Còn nàng công chúa mà mọi người thờ cúng ở Ninh Hiệp lại có tên thật là Mai Hoa, tên hiệu là Thái Thành. Thông tin giữa nàng Mai Hoa trong sử sách và Mai Hoa người Ninh Hiệp thờ cúng khác biệt rất xa.

Khai quật xác ướp
Khai quật xác ướp
Vùng đất Ninh Hiệp vốn có tên cũ là làng Nành, thuộc xứ Đông Ngàn (Kinh Bắc). Làng Nành là quê hương của bà Chiêu Nghi Nguyễn Thị Huyền, vợ vua Lê Hiển Tôn, mẹ vợ của 3 vị vua trong lịch sử, là mẹ đẻ của hoàng hậu Lê Ngọc Hân.

Đất làng Nành xưa vốn là hậu cung của nhà Lý, nên về sau này có nhiều người đẹp, làm hậu, phi cho nhiều vị vua. Chính vì thế, ở làng có mộ cổ, mộ hợp chất của dòng dõi quan chức, nhà giàu cũng là điều dễ hiểu”.

Như vậy, qua tài liệu chính sử mà nhà sử học Đặng Hùng cung cấp, có thể khẳng định rằng, người nằm trong ngôi mộ hợp chất ở làng Ninh Hiệp không phải là Mai Hoa công chúa. Không có nàng Mai Hoa công chúa, hiệu diệu Thái Thành, mất ngày 16 tháng 3 năm Thìn nào trong lịch sử Việt Nam.

Việc thờ cúng người đã khuất không ai cấm, vì đó là tín ngưỡng dân tộc, song một vấn đề lịch sử, khảo cổ quan trọng như vậy, khiến hàng vạn người quan tâm, thì cũng cần sự vào cuộc của các nhà khoa học, chính quyền, để mọi việc được sáng tỏ.

(Theo VTC News)

Thứ Sáu, 28 tháng 9, 2012

Đồ gỗ cổ có một không hai ở Việt Nam


  • 28/9/2012 07:35



Có được tận mắt chứng kiến bộ sưu tập đồ gỗ và đồ gốm VN của họa sĩ Lê Thiết Cương và được nghe anh nói về đam mê và sự hiểu biết của mình thì mới thấy những gì người họa sĩ danh tiếng này đang sở hữu thực sự quý hơn vàng.

Hiểu mới chơi, muốn chơi thì phải có tiền

Hơi e ngại khi đặt vấn đề gặp gỡ để viết về thú sưu tập đồ cổ vốn rất nổi tiếng của anh vì không biết sẽ hỏi gì và khai thác gì. Nhưng sau vài cái hẹn và vài giờ trò chuyện, chúng tôi biết rằng cuộc gặp gỡ với họa sĩ Lê Thiết Cương thực sự đáng giá. Rất nhiều món đồ gỗ quý được anh xếp ngay ở tầng 1 gallery số 39A Lý Quốc Sư, nơi thường xuyên có người ra vào với vô số các cuộc triển lãm. 

Nơi đây giống như một cuộc triển lãm sắp đặt với những món đồ gỗ và gốm quý của chủ nhân được bày biện có chủ ý, xen kẽ giữa những bức tranh do Lê Thiết Cương vẽ.

Họa sĩ Lê Thiết Cương trong không gian của ngôi nhà số 39A Lý Quốc Sư.

Anh chơi đồ gỗ là chính và chủ yếu tập trung vào bàn - ghế - giường - tủ, sau đó đến đồ gốm mà tuyệt nhiên chỉ chơi gốm VN. Tôi mở đầu bằng 1 câu hỏi Nghe nói bộ sưu tập đồ cổ của anh lớn lắm, quý lắm. Vậy với anh, nó quý và lớn đến mức nào? 

Họa sĩ Lê Thiết Cương đáp liền: "Không ai chơi hết được mọi thứ! Dùng chữ "chơi đồ cổ" là không đúng vì không ai trên đời có thể chơi rộng đến vậy. Trong bộ sưu tập của tôi cũng chỉ tập trung vào đồ gỗ. Mà đồ gốm thì cũng chỉ chơi đồ gốm VN. Nếu các bạn khám nhà tôi lúc này thì chắc chắn không tìm ra món đồ nào của Trung Quốc.

Chơi đồ gốm Trung Hoa chưa nói đến chuyện tiền, chỉ nói đến sự hiểu biết thôi (vì phải hiểu biết mới chơi được)  cũng đã rất phức tạp với bao nhiêu đời mà mỗi đời đó có biết bao nhiêu ông vua. Mỗi ông vua lại ra 1 quan niệm cho lò gốm. 

Để hiểu biết hết về gốm Trung Hoa vô cùng khó, chưa kể nó rất đắt. Đó lại nói về chuyện tiền. Muốn chơi thì phải có tiền. Để chơi đồ gốm Trung Hoa cần phải có nhiều tiền gấp nhiều lần chơi đồ gốm VN. Còn về cá nhân, tôi không thích gốm Trung Hoa mà điều đó thì chịu không lý giải được".

Chủ nhân chỉ sưu tầm đồ gốm Việt Nam.

Lê Thiết Cương bảo trong đồ cổ muốn biết nó quý hay không thì phải do từng quan niệm chơi. Và quý hay không còn tùy vào sự hiểu biết. "Những người chơi mà cụ thể như tôi, lợi hơn những người khác ở chỗ mình là họa sĩ. Có nghĩa là nhu cầu thẩm mỹ và yêu cầu mỹ thuật của mình cao hơn người khác. Nói huỵch toẹt ra là mình biết thế nào là đẹp hơn người khác. 

Thêm nữa, đã là họa sĩ thì cho dù nhà trường không dạy trong suốt 5 năm học ĐH thì mình cũng phải tự dạy mình. Muốn vẽ được thì phải hiểu về mỹ thuật thế giới và VN. Mà mỹ thuật VN nằm ở đồ mỹ nghệ là chủ yếu do đến cuối thế kỷ 19 tranh mới xuất hiện".

Chỉ chơi đồ đẹp

Ông chủ của gallery số 39A Lý Quốc Sư cho rằng là họa sĩ thì đương nhiên kiến thức về mỹ thuật truyền thống VN (thông qua các đồ mỹ nghệ như: đồ gỗ, đồng, sơn mài...) dứt khoát cao hơn người khác vì mình phải và thích học những cái đó. 

Anh bảo đồ quý hay không là phải hiểu nó. Không hiểu thì sao thấy quý được. Chính thế nó cũng quy định gu chơi và chất lượng của bộ sưu tập. Trong chơi đồ cổ, món nhiều tuổi không có nghĩa là đắt hơn món ít tuổi. Và món đồ đang được thị trường ưa chuộng không đồng nghĩa với đẹp. Món đồ nào cũng quý. Đơn giản là vì mọi người không nhìn thấy còn mình nhìn ra mà thôi.

Chiếc tủ gỗ kết hợp những chi tiết làm từ xương vô cùng độc đáo.

Tôi băn khoăn vì sao không mấy khi thấy họa sĩ Lê Thiết Cương tiết lộ về giá tiền mua những món đồ mình đang sở hữu nên quyết hỏi anh cho bằng được. "Tôi không đặt vấn đề tiền lên đầu là thế dù nó là 1 trong những tiêu chí bắt buộc khi sưu tập. Tiêu chí đầu tiên vẫn phải là tri thức. Mà cái đó lại đòi hỏi thời gian, một sự thẩm thấu. 

Người chơi phải học hỏi dần dần bằng cách đọc, xem, đi bảo tàng trong và ngoài nước, thậm chí là truy cập internet. Mỗi ngày thẩm thấu 1 tí. Tri thức là cả 1 quá trình tiếp nhận, tiếp nhận mỗi ngày 1 chút nên không thể nói thời gian cần là vài tháng hay vài năm. 

Do vậy tình trạng trọc phú hóa ở nhiều người đang chơi đồ hiện nay mà mọi người không nỡ nói thẳng ra là khi người ta có nhiều tiền thì người ta chơi đồ trong khi mặt bằng hiểu biết của họ không bằng số tiền bỏ ra".
Những món đồ gỗ tuy tuổi đời không nhiều nhưng lại là những tác phẩm có tính thẩm mỹ cao.

Lê Thiết Cương tiết lộ rằng anh chơi đồ gỗ từ năm 1995 và chỉ chơi trong 10 năm là dừng. Chính xác thì anh đã phải "cai nghiện" chúng. Vị họa sĩ hài hước nói rằng người sưu tầm kim thì đơn giản hơn sưu tầm bàn, ghế, giường, tủ vì nếu mua về nhiều thì lấy đâu ra không gian để chứa chúng. 

Việc sưu tầm cũng phải chọn lọc nữa vì trong chữ sưu tập là đã có hai từ chọn lọc. Thêm một lý do tiên quyết nữa là đồ đẹp thì ngày càng ít đi và đắt hơn.

Bộ sưu tập có một không hai

Mối quan hệ giữa tính thẩm mỹ và giá cả một món đồ với anh thế nào? Nếu thấy một món đồ đẹp thì anh vẫn sẵn sàng trả giá cao chứ? - tôi hỏi. "Có những món đồ rất đẹp, đáng lẽ giá 10 đồng nhưng vì người bán không biết là nó đẹp nên chỉ bán có 5 đồng. Nhưng không phải 10 lần mua thì cả 10 lần đều gặp may như thế", Lê Thiết Cương trả lời và không quên dẫn ra một ví dụ. 

"Căn nhà 13 Nhà Thờ trước đây từng có 5 năm (1995-2000) là 1 cửa hàng bán đồ gỗ cổ. Chủ là 1 phụ nữ VN lấy một người Anh rất sành về đồ gỗ cổ. Khi đã sành thì đừng hòng hy vọng rằng cái đồ này đẹp mà họ bán rẻ. Có lúc mình chấp nhận mua 1 món đồ đẹp giá thực chất chỉ 10 đồng nhưng họ bán tới 20 đồng. Lý do là họ đã tuyển cho mình một lần rồi".

Cứ mỗi lần ghé cửa hàng này, thấy cái cái gì đẹp nhất thì anh mua, bất kể giá cả. Chiếc trường kỷ làm từ gỗ Trắc rất quý có khảm trai có từ thế kỷ 19 là một trong những món đồ mà anh mua ở cái cửa hàng gần nhà kia. Vào cái thời cuối những năm 1990 mà họa sĩ Lê Thiết Cương dám bỏ ra 2000 USD để mua 1 chiếc trường kỷ ấy. 


Tôi hỏi: Anh đã đổ bao nhiêu tiền vào đồ cổ rồi? Họa sĩ nói chỉ biết là nhiều lắm nhưng không thể nhớ nổi vì không có thói quen mua rồi ghi sổ. Lê Thiết Cương bảo mỗi người sưu tầm đều phải trả rất nhiều học phí và nên tự trả để rút ra những bài học cho riêng mình. Anh bảo ai chơi cũng chẳng có tiền vì tiền có bao nhiêu là đổ hết vào đồ cổ mất rồi.

Nhưng bù lại, Lê Thiết Cương lại sở hữu nhiều món đồ quý. Chiếc cửa võng thết vàng thật có từ thế kỷ 19 với những họa tiết được làm trực tiếp trên mặt gỗ thật sự là một tác phẩm điêu khắc có một không hai với ấn tượng mạnh về mặt thị giác được anh treo ngay lối lên cầu thang dẫn lên tầng 2 mà ai bước vào nhà cũng có thể nhìn thấy. 

Cửa võng thết vàng.

Chiếc tủ độc nhất vô nhị kết hợp gỗ với xương với những họa tiết cầu kỳ ở phần chân đế cùng 4 chữ Phúc - Thọ - Phúc - Thọ (ở thời Phong Kiến thì đó là 1 sự cách tân) khắc theo lối Triện thư tuyệt đẹp.


Nhấp một ngụm nước chè, ngả người trên chiếc ghế sofa êm ái, Lê Thiết Cương chi vào chiếc tủ được dùng làm kệ tivi trước mặt rồi nói về lai lịch của nó, phân tích vì sao nó đẹp và đáng giá tới 1800 USD ở cái thời điểm năm 1997-1998. Chiếc bàn không chạm khắc cầu kỳ mà rất đơn giản nhưng lại tiêu biểu cho giao lưu văn minh Đông Tây. 

Nó được người thợ thủ công VN làm từ trước năm 1954. Trông tưởng là đồ Tây nhưng chân bàn là biến thể của chân cẳng hươu của quan niệm mỹ thuật thời Vua Louis XIV ở Pháp. Tuy nhiên ở mép bàn có họa tiết chữ chiện được làm tinh xảo.

"Châu Âu là 1 chuẩn nhưng người mang chuẩn mực đến 1 quốc gia khác thì họ bắt buộc phải làm 2 điều: 1. nhập gia tùy tục và 2. muốn thích nghi thì phải thay đổi. Và chỉ những người tài mới làm được điều đó khi biết bớt mình đi 1 tí để dành cho cái hay của người khác", anh nói.

Chơi đồ gỗ từ lâu và cũng ấp ủ làm một cuốn sách về đồ gỗ VN nhiều năm qua nhưng đến nay giấc mơ này với Lê Thiết Cương vẫn chưa thành hiện thực. Vẫn mong anh sẽ sớm cho ra mắt 1 cuốn sách như thế để giới thiệu tất cả những cái đẹp, cái tinh túy của đồ gỗ Việt vốn không thua kém bất cứ nước nào về độ tinh xảo và tính thẩm mỹ cao.

Chiêm ngưỡng một phần bộ sưu tập đồ gỗ và gốm của họa sĩ Lê Thiết Cương
















Hạnh Phương
Ảnh: Nguyễn Hoàng

Thứ Tư, 26 tháng 9, 2012

Cơ cấu Việt Nho - 4


IV CƠ CẤU VIỆT NHO

1. Nho là tổ của cơ cấu

Đọc xong hai chương trên rồi bây giờ nghe nói đến cơ cấu của Việt Nho thì không còn là cái chi xa lạ, hơn thế nếu có nghe nói chính Việt Nho mới là cơ cấu theo nghĩa trung thực nhất, thì cũng chỉ là một câu nói đương nhiên. Vì cơ cấu là gì nếu không là một cố gắng tổng hợp. Mà tổng hợp đến cùng cực chính là đưa chữ Tương vào cõi học độc khối im lìm của văn hóa cổ điển. Mà đã nói đến Tương là phải có những hạn từ đối đáp, đã đối đáp là có thể vẽ ra đồ thị và số độ v.v… Đó là những nét căn bổn của Nho giáo với câu “âm dương tương thôi” cũng như là đạo Trung Dung của Thái hòa. Có Tương quan tất phải có hai hạn từ, và hai hạn từ đó gọi là âm dương, hay trời đất, nam nữ, lý tình v.v… Và đạt đạo là đạt thế bình quân giữa hai hạn từ đó. Do lẽ đấy mà riêng chúng tôi đã đi theo lối cơ cấu trước khi nghe nói về cơ cấu luận. Sau khi đã đọc Levi Strauss nhất là về sự kiến tạo mô thức chúng tôi có cảm tưởng là tiên Nho thời rất xa xưa đã kiến tạo ra các mô thức: đó là tam tài, ngũ hành và các hệ quả theo sau (âm dương, tứ tượng, bát quái, cửu trù v.v…). Và vì thế nếu phải tìm ra ông tổ của cơ cấu thì chính là các vua của huyền sử Việt Nho: Phục Hy, Nữ Oa, Đại Vũ… chúng tôi thấy càng có lý để viết như thế khi đọc biết rằng Levi Strauss đã được khởi hứng lập ra cơ cấu luận là do một học giả về Nho giáo tức ông Granet, còn những tài liệu cũng như các cuộc điều tra của nhân chủng học người Mỹ chỉ là tùy phụ (1). Với những ai đọc quyển Pensée Chinoise của Granet thì câu trên không thể làm ngạc nhiên là vì những đồ thị, số độ của đại toán… đã có tràn ngập trong sách đó rồi. Hỏi rằng vậy tại sao cơ cấu lại xuất hiện như một khoa mới lạ. Thưa trước hết vì Levi Strauss có nhờ nhiều vào công trình của các khoa mới như ngữ lý học, tâm toán học và uyên tâm, nhân chủng v.v… Nhưng nhất là vì phần cơ cấu của Việt Nho đã bị Hán Nho vùi giập: âm dương, ngũ hành bị hiểu cách tai dị phù pháp, còn tam tài thì không ai nhận ra ý sâu xa của nó nữa. Vì thế khi chùng tôi khai quật lên thì nó chiếu ra những tia sáng thực mới lạ như đã trình bày trong quyển Chữ Thời. Còn riêng trong quyển này mà chúng tôi đã muốn để tên là Cơ Cấu Việt Nho thì đó chẳng qua là muốn “hòa nhi” với thị hiếu của thời đại đang mải mốt đi tìm những gì mới lạ. Đàng khác cũng là để tân thời hóa môn học cổ truyền của Việt Nho. Vì thế mà chúng tôi trình bày về cơ cấu hiện đại, bởi cách này giúp phần lớn vào việc minh nhiên hóa những khả năng tàng ẩn trong cơ cấu Việt Nho. Những khả thể đó sẽ hiện lên chói chang khi đặt bên cạnh những “khám phá” của thời mới. Nhờ đó chúng ta sẽ dễ nhận thức hơn những dị biệt giữa cơ cấu của người nay và người xưa.

(1) Trong quyển Clefs pour le Structuralisme, ed. Seghers, Jean Marie Aujias có viết: “Levi Strauss reprend les enquétes et matériauz avec une méthode qui doit plus à un sinologue Granet qu’a bien d’autres américains.” p.88

2. Từ kiến tạo đến chọn lựa mô thức

Ta hãy khởi đầu bàn về những nét dị biệt thuộc phương pháp. Với Levi Strauss thì đó là kiến tạo ra mô thức (modèles construits) tức là ông tìm cách thay thế các mô hình của thổ dân bằng những mô hình lý trí để có thể thành công thức đại số nhờ đó có khả năng giải thích rộng rãi hơn, dễ điều động hơn là mô dạng của thổ dân hầu hết còn nằm chìm trong tiềm thức. Đàng này những mô hình của Việt Nho đã có rồi kèm theo cả số cũng như đã nhô lên bình diện ý thức nên cũng rất dễ điều động, khỏi cần đặt ra mô thức khác, nhất là không một mô thức kiến tạo nào về sau có thể sánh được về khả năng biến thái vô biên (như đã trình bày trong quyển Tinh hoa ngũ điển, bài Kinh Dịch) nên cũng uyển chuyển linh động lạ lùng, dễ điều động. Bởi vậy thay vì kiến tạo mô thức như Levi Strauss thì chúng ta chỉ việc lựa chọn môo thức đã sẵn có. Nói khác Levi Strauss lấy mô thức ngoài chụp vào văn hóa các thổ dân, còn với Việt Nho thì chúng ta chỉ việc múc ngay trong Nho. Cái khó là chỉ còn làm sao tìm ra được ý nghĩa trung thực của những mô thức ấy. Mô thức có rồi đó: nào là âm dương, tam tài, ngũ hành, nào là tứ tượng, bát quái, cửu trù. Chỉ cần tước bỏ những ý nghĩa pháp môn đi là ý nghĩa minh triết của các mô thức kia sáng lên. Và đó là điều chúng ta thử làm bây giờ.

3. Âm dương

Trước hết hãy bàn về âm dương vì là nên tảng của chữ Tương nên cũng là nét căn bổn của cơ cấu đầy sức tổng hợp. Vì thế được Khổng Tử gọi là “hợp ngoại nội chi đạo dã”

Ngọai là ý thức
Nội là tiềm thức
Ngoại là lý trí
Nội là tình thâm
Ngoại là sự kiện biến cố của sử, ký
Nội là những nguyên sơ nguyên tượng của huyền sử.

Đó là biện chứng mà Levi Strauss gọi là lưỡng hành (A.S 258) và ông cho là biện chứng nền tảng nhất và rất hiệu nghiệm vì đặt căn cứ ngay trên những vật khả giác. C’est un logique binaire basée sur des objets sensibles (Simonis 156): một luận lý hàng hai căn cứ trên những vật khả giác như tả hữu, trên dưới, trong ngoài, nam nữ, sáng tối… Đó là những bước đi của cơ cấu và càng đi càng thấy nhịp hai hiện lên rõ và nếu đi đến cùng đường, đến miền “lân hư” thì sẽ gặp bước lưỡng hành căn cơ hơn hết giữa “Hữu Vô”. Khỏi nói thì ai cũng nhận ra Kinh Dịch đã triển khai biện chứng hàng hai một cách huy hoàng giữa:

Càn và Khôn

Vòng Sinh và Vòng Thành với những công thức như “tại thiên thành tượng, tại địa thành hìn”.
Rồi nói về Tượng tiên Nho quảng diễn “hữu thực nhi vô hồ xứ giả” và khi áp dụng vào xã hội học thì Tượng là những tác động kiểu mẫu để thể hiện những nguyên lý hướng đạo, còn hình là những cá nhân được giả thiết hiện thực những tác động lý tưởng kia… Một công thức diễn tả biện chứng lưỡng hành cách u linh man mác, xứng đáng làm đại biểu để nói lên mối bình quân trổi vượt nhất với những danh từ đi đôi như kiền khôn, trời đất, hoặc những cặp số 3-2, 4-1 v.v… Tất cả hợp lực đưa lại cho Việt Nho một nét đặc trưng nổi vượt được trình bày trong thập tự nhai với nét ngang nét dọc, ai đã làm quen với cơ cấu liền nhận ra hai nét ngang dọc này là nền móng, thí dụ sử hàng ngang với sử hàng dọc. Bây giờ bàn đến một điểm khác không những căn bản như trên mà còn đi sát lại con người cách thấm thía đó là thuyết tam tài.

4. Tam tài

Ai cũng biết rằng tam tài là thiên, địa, nhơn.

Thiên đây phải hiểu là cái gì u linh thuộc cơ cấu còn nằm trong tiềm thức, nó mới là tượng.

Địa trái lại đã là hinh thuộc phạm vi lý trí có hiện hình cụ thể kiểm điểm được.

Nhơn là nét nối cả hai hạn từ thiên địa với tình người, quyền người gọi là nhơn chủ, tức con người vẫn là chủ trong tam tài theo nghĩa không để lòng bị nô lệ cho tôn giáo (thiên) hay kinh tế (địa) nhưng cố đem lại cho con người một nền triết lý nhân chủ đầy hoạt lực, không nô lệ bái vật hay ý hệ, nhưng vượt đến tâm linh là căn để của con người. Nhờ đó mà Việt Nho đã thiết lập được nền nhơn chủ sớm hơn đâu hết và đã gây nên một lối hành xử an nhiên hòa hợp không lép vế mà cũng không kiêu thái. Tuy vẫn nhận trời làm vua đất làm vua và như vậy tuy đầy lòng kinh trời đất nhưng vẫn giữ được cung kỉ tự trọng, không đến nỗi quá khúm núm, đôi khi thì cũng có hơi ngông như câu: “bắc thang lên hỏi ông trời bắt bà Nguyệt lão đánh mười cảng tay”. Đó là chuyện bất đắc dĩ chứ nếu nhân viên của trời biết điều thì vẫn được kính nể như thường. Tuy nhiên vẫn giữ độc lập trong cõi người ta nơi mà chính con người làm chủ, tự quyết định về thân phận mình. Được như thế là nhờ chỗ con người có địa vị trên cấp tối hậu là tam tài. Nhờ có chân trong bộ ba cao cấp đó mà con người có thể đi thêm bước thứ hai quan trọng hơn nhiều, đó là ngũ hành.

5. Ngũ hành

Ngũ hành tối quan trọng vì nó nói lên tầm hoạt động bao la của con người. Khi không đạt ngũ hành con người chỉ có thể làm việc hạn hẹp, còn với ngũ hành thì không đâu không có mặt. Vì thế ngũ hành ở đây phải hiểu là chấp nhận tất cả 4 góc: cả ki, mộc, thủy, hỏa. Nếu áp dụng vào xã hội là tất cả tu, tề, trị, bình không phủ nhận hiên nào trong 4. Trái lại được chấp nhận tất cả những đặt dưới quyền trung ương là con người, nên nói “bàng hành nhi bất lưu”: đi ra cả 4 góc mà không lưu lại góc nào. Hễ lưu lại thì gọi là ứ trệ hay là duy. Ngũ hành là không duy không làm nô lệ cho bất cứ hành nào nhưng vẫn là nhân chủ đầy sức hành động để biến dịch đặng bao trùm cả toàn diện. Không duy tu, duy tề, duy trì, duy bình nhưng bao trùm tất cả: tu, tề, trị, bình. Nhờ đó mà có “tinh thần” theo đúng nghĩa là “thần vô phương” tức không đặc chú vào có một hiên để chối bỏ các hiên kia, nhưng hiện diện ở cùng khắp (bàng hành). Đấy là căn để ngũ hành. Bước cuối cùng để thi hàn triệt để đạo ngũ hành là cửu trù.

6. Cửu trù

Cửu trù là Hồng phạm tức là mô thức lơn lao bao trùm khắp hết không gảy cái chi ra bên ngoài (một lối quảng diễn thuyết bàng hành trên). Do đó không phải đi tìm Đạo ở đâu xa: kiêu như duy tu thì đi tìm trên rừng hay trong các cộng đồng nối dài tu rừng, duy trị thì đi tìm trong chánh trị… Với thuyết Hồng Phạm thì lại không đi tìm đạo ở xa như thế mà tìm ngay ở gần trong bất cứ việc gì, sự gì vì tất cả được bao trùm trong cái Hồng Phạm. Đi tìm Đạo xa là vì thiếu Hồng Phạm mà chỉ có những mô phạm bé nhỏ cho một hiên hoặc tu hay tề hoặc trị hay bình. Đây thì tất cả tức làm bất cứ cái chi dù thuộc tu hay tề trị hay bình miễn làm đến cùng cực sẽ gặp vô biên. Nều hiểu đúng chữ cửu trù thì một câu văn nào cũng phải hiểu thấu triệt: cả triệt thượng lẫn triệt hạ. Triệt thượng là đạt tới nguồn suối uyên nguyên, thí dụ như tam tài vừa nói trên. Triệt hạ là lần xuống tận thể chế xã hội. Thí dụ tại sao lại có lễ gia tiên thì lý cuối cùng là thuyết tam tài tức con người cũng là vua là hoàng như thiên hay địa nên cũng đáng tôn thờ. Hoặc nói ngược lại thì thuyết tam tài không chỉ là một nguyên lý suông nhưng ăn sâu vào các thể chế xã hội như lễ gia tiên, sự vắng bóng của tăng lữ. Nhờ sự đi thông qua tự cơ đến dụng (dụng từ ý cơ) nên Việt Nho trở thành một nền văn hóa nào cụ thể bất địch. Nhờ đó mà không một thể chế hay phong tục nào lại không được thấm nhuần minh triết, và vì vậy khi muốn học về triết Việt Nho thì chỉ cần tự một điểm nào đó, một câu truyện trầu cau, thằng bờm, ông trụ trời, bọc trăm con v.v… sẽ lần ra mối hội thông với nền triết lý sâu xa, chứ khỏi cần đi tìm xa. Vì với Việt Nho ta có thể nói đâu đâu cũng có triết, miễn là có một triết gia để nhìn ra. Vì triết gia là người đi xuyên qua tất cả mọi chặng: cơ, ý, từ, dụng hoặc nói tự dưới trở lên là dụng, từ, ý, cơ (đã bàn dài trong quyển Vấn đề quốc học). Khó nhất là hai đợt cùng cực cơ và dụng. Dụng cũng gọi là mạt (ngọn). Cái khó khăn nhất ở tại biết nhìn thấy cơ ngay trong cái mạt “mạt nhi nan hĩ” là thế. Bởi chưng nó đòi một sự quán triệt dẫn tự ngọn nguồn ra tới tất cả ngành nhỏ, tự nguyên lý xuống đến các câu kết luận thực tiễn, dù chi tiết mấy cũng móc nối vào với nguyên lý cùng cực được, như vừa xem trên về tam tài, ngũ hành và lúc ấy sẽ thấy phi thường trong cái thường thường, khỏi đi xa. Đi xa biểu lộ cái Đạo còn hẹp quá chưa trùm được khắp mới phải đi tìm chỗ này mà không chỗ kia, như thế tỏ ra chưa đạt cơ cấu chân thực. Khi đạt thì sẽ tìm ra đạo bất kì ở đâu trong bất cứ việc chi. Đó gọi là bàng hành nhị bất lưu và đấy mới là nét đặc trưng của một cơ cấu luận chân thực: nó ở tại sự thấu nhập cùng khắp cho nên khi đạt cơo cấu thì nhà ở và xã hội mọi cái đều xếp đặt y như nhau về cơ cấu. Cũng phải nói như thế về tôn giáo, luật lệ nghi lễ đủ loại cho người sống cũng như cho người chết. Vì thế có cơ cấu là khi có sự thống nhất hiện diện khắp hết để không còn mâu thuẫn nào ở đợt căn cơ. Người ta thường thấy mâu thuẫn trong các triết học lý niệm là tại chỉ loanh quanh giữa ý và từ, trên không đạt Cơ dưới không đạt Dụng. Levi Strauss đã khen Phật tổ đưa được siêu hình vào đời sống là ý ông muốn nói đã đạt Cơ. Oâng cũng ca ngợi Karl Marx biết lấy sinh hoạt thực sự của dân, của những tập thể làm đối tượng cho xã hội học thì cũng là một kiểu khen đã đạt dụng. Thế nhưng đó là công đầu đối với Aâu Châu mà thôi. Chỉ có Aâu Tây lâu ngày bị nhuộm trong cái triết học lý niệm làm toàn bằng ý và từ nên triết học đào ngũ cuộc đời thực tại và bị những người như Karl Marx phản đối om sòm cho là mơ mộng. Nhưng chính vì om sòm (phản động) mà Marx lại cắt hoạn con người mất tâm linh, tức chưa đạt cơ nên học thuyết của Marx vẫn xa lìa thực tại, khiến cho những cán bộ Cộng sản trở thành cuồng tín đui mù vì ý hệ, không thể nhìn ra thực tại hiện hành, vì thế mà luôn luôn phải xét lại.

Trên đây là thử lên sổ mấy nét lớn của Việt Nho để minh chứng rằng nó mang trong mình đầy đủ những đức tính của cơ cấu như thế quân bình giữa âm dương, thứ lớp như trong ngũ hành, và đi tới cùng cực như trong Hồng phạm. Tất cả chứng tỏ rằng Nho giáo đã đi vào cơ cấu trước nhất, từ trước tới nay (1).

(1) Độc giả muốn nhìn rõ hơn khuôn mặt cơ cấu đó nên đọc Chữ Thời với biện chứng giữa thời không. Nhân Bản giữa thiên địa. Tâm Tư giữa tình lý. Trong cả ba quyển đều thấy con người giữ ghế chủ tịch để tung cánh bay trong vũ trụ.

7. Nét đặc trưng của cơ cấu Việt Nho

Đó là sự bình quân giữa hai yếu tố căn bản tạo thành cơ cấu. Sự quân bình này rất cao độ vì nó hiện thực mãi ở đợt Thiên Địa gọi là thời không hay vũ trụ. Đó là vấn đề thời gian rất quan trọng như đã bàn trong quyển Chữ Thời. Ở đây xin chỉ nói đến một khía cạnh cụ thể đó là sử để làm thí dụ quảng diễn và kiện chứng cho câu nói trên.

Sử là sự hiển hiện của nhân chủ. Nói khác chỉ có sử khi con người là chủ. Con vật không có sử. Vì không là chủ, con ngươi thái cổ chưa có sử vì chưa đạt nhân chủ. Người La Hy chưa đưa sử vào chương trình giáo dục, vì chưa thiết định xong nền Nhân Bản, và chính vì thế kỷ 18 nói đến Nhân bản nhiều nên cũng vội vàng đưa sử vào chương trình. Và cũng từ đấy mới nhận ra thiếu sử không chỉ là thiếu sử mà còn hàm chứa nhiều cái hại cho con người. Bởi vậy từ đó mới tôn thờ sử và đẩy đến độ duy sử để lại gây ra một sự quá đáng khác là chạy theo biến cố hàng ngang với nhịp độ càng ngày càng điên loạn để đuổi theo một sự hội nhập càng ngày càng trở nên diệu vợi, khó lòng lập lại được thế quân bình cần thiết giữa cơ cấu và biến cố (giữa cơ và dụng).

Que notre société ait choisi l’histoire c’est à ses rispues et périls… parce qu’elle a choisi la course aux événements est entrainé à un tythme toujours plus fou à des intégrations toujours plus difficiles: elle court le risque d’échouer en ne réusissant plus l’équilibre nécessaire des structures et des événements (Simonis 200).

Đó cũng là điểm mà nhà xã hội học danh tiếng Pitirin Sorokin đã cực lực tố cáo và ông gọi là cái bệnh “sinh lượng” (quantophrénie) tức biến đo lường thành cứu cánh. Bất kể cái chi miễn có thể minh chứng cách xác thiết là được. Tâm trạng đó dẫn đến chỗ làm cho học giả cố chứng minh càng ngày càng xác đáng thêm những mệnh đề càng ngày càng ít quan trọng.

Vì thế mà Levi Strauss đã cảnh cáo đừng để thời gian (duy sử) tiêu diệt mình: “ne laissons pas le temps nous détruire” (Simonis 309). Và đó là một trong những lý do của sự xuất hiện cơ cấu. Nhưng rồi nhiều tay cơ cấu lại đi đến chỗ chối sử, rồi chối luôn cả con người, biến triết thành phi nhân, phi sử, phi chính trị.

Trong quyển Les mots et les choses p.359 Foucault tỏ ra quý khoa học hơn con người, lấy cớ rằng sự hiện diện của người sẽ làm cho khoa học cũng như suy tư triết học bị nguy cơ chủ quan nên cần gẩy con người ra để bảo toàn tích khách quan cho khoa học. Sự chối bỏ con người này đưa đến chối bỏ lịch sử. Althusser một cơ cấu gia thiên cộng đề nghị một lối đọc lại quyển Capital của K.Marx theo cơ cấu, cũng cho là phải phủ nhận con người, kể cả người kinh tế (homo economicus) mới trông bảo toàn được tính chất xác đáng của khoa học. Vì thế ông ta từ chối con người với tất cả những gì nó xem, nghe, cảm, nghĩ: tất cả đều bị cho là ý hệ nên rất nguy hiểm cho khoa học, khiến cho khoa học trở thành ngụy tạo, vì thế mà cần thải bỏ con người với sử của nó. Trong số những triết gia coi thường sử ký cũng phải kể cả Heidegger. Oâng này thoạt tiên muốn chú trọng rất nhiều đến con người sống trong lịch sử đến độ cho rằng quan niệm hữu thể xưa kia hư hỏng vì đã gảy bỏ thời gian, bởi vậy Heid cố gắng lập lại vị trí cho thời gian. Thế mà cuối cùng sử tính của con người quay lại là tiêu tán mất lịch sử, do đó mà Heidegger bị tố cáo về tội hoạn con người như Dufenne nhận xét: “Chez Heidegger qui semble d’abord faire la part belle à l’homme comme historique. C’est paradoxalement l’histoire de l’homme qui revient à subtiliser l’histoire et du coup à émasculer l’homme” (Por L’homme, M.Dufrnne, Seuil 1968 p.102). Thế là luẩn quẩn, khiến cơ cấu quay lại lối cũ của người xưa, của Hegel chẳng hạn, cho rằng chỉ toàn thể mới có, còn thành phần là những con người cá thể chỉ gần như có. Chỉ hệ thống mới có chứ tôi, mộto cá thể trong xương trong thịt hầu không có. Đó lại là cái hữu tham dự bất tất (esse participatum contingens) của con người trung cổ không nơi cư trú ở đợt uyên nguyên hay là cái phù ảnh của Platon một triết gia phi nhân nên cũng phi lịch sử: chỉ biết ngắm nhìn lý giới bất biến bên ngoài thời gian vắng bóng người nên cũng vắng bóng sử. Các trào lưu triết minh thế kỷ 18 phải tranh đấu cam go lắm mới đưa đựơc lịch sử vào chương trình giáo dục, mới giành chỗ được cho con người. Nhưng con người vừa sinh ra thì đã lại dọn mình chết lành dưới bàn tay của những nhà cơ cấu phi nhân nên cũng phi sử.

Triết học phi nhân thì văn hóa cũng phi nhân. Phi nhân thì lấy ai giữ thế quân bình giữa hai đối cực Thiên Địa đây? Chưa một triết gia nào hay một trào lưu tư tưởng nào đặt nổi một nền tảng vững chãi cân đối cho một quan niệm lịch sử. Có nghĩa là triết vẫn còn đong đưa giữa hai thái cực: hoặc chối sử với câu dưới ánh mặt trời không xảy ra cái chi mới hết; hoặc duy sử với câu không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông; vì không một biến cố nào giống biến cố nào cả. Sự thật không có với những người ôm câu này hoặc câu kia mà nó nằm trong quan niệm sử hai chiều: chiều huyền sử gần như bất biến (nihil novi) với chiều ngang vẫn biến. có như vây mới “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Liệu cơ cấu có đạt cùng chăng? Levi Strauss đã nghiêng sang bên bất biến (xem Race et histoire cuối sách). Tuy vậy ông cũng đã ý thức được phần nào sự quan trọng của chữ hòa là then chốt cho sự bình quân uyên nguyên, chứng cớ được biểu lộ trong ít lời đề cao nhạc, nên chúng ta bàn thêm về nhạc như là biểu hiểu cân đối của cơ cấu Việt Nho.

8. Hòa ư nhạc

Ai cũng biết nhạc được Việt Nho tôn trọng như bà chúa mọi sự hòa hợp: hòa trời với đất, hòa nam với nữ, hòa sử ký với huyền sử.

Một trong những lý do khiến chúng tôi chú ý tới Levi Strauss là vì ông cũng biết quan tâm tới nhạc, coi “nhạc như mầu nhiệm tối hậu cho các khoa học về con người, một mầu nhiệm mà các khoa nhân văn đều vấp phải, nhưng chính nó là kẻ giữ chìa khóa mở vào mọi tiến bộ “La musique represente le suprême mystère des science de l’homme, celui contre lequel elles buttent et qui garde la clé de leur progrès (Simonis 294). Trên những thanh âm và tiết điệu nhạc tác động trong một khoảng đất trống là thời gian sinh lý của thính giả dùng để nghe nhạc, đó là thứ thời gian chạy dài cách tuyệt vọng vì bất khả phục hồi, nhưng nhạc lại biến đổi nó thành một toàn thể hàng dọc có đủ lý do tồn tại khép kín trên mình. Đến nỗi đang lúc nghe nhạc chúng ta như bước vào cõi bất tử, khiến cho tâm thức thấy mình thông hội với cơ cấu thiên nhiên vô thức. Một khi đã đạt đến cõi cơ cấu vô thức của tinh thần đó rồi, nhà cơ cấu van xin người ta bãi bỏ mọi công trình đi trước để hiến trọn thân tâm cho nền thẩm mỹ thầm lặng đặng thíêt lập mối tương quan thầm lặng với vũ trụ. “Arrivé à la structure inconscience de l’esprit, le structuraliste demande qu’on supprime toute l’oeuvre qui précédait et qu’on se consacre à l’esthétique silencieuse: la musique pour établir le lien silencieux avec le cosmos” (Simonis 12).

Thế là bước cuối cùng trên con đường tìm lại Mình, tìm lại toàn thể thì sự thành tựu không ở đợt lời, đớt ý, đợt lý luận nhưng là ở đợt nhạc.

Thành  bất ư Ý
bất ư Từ
bất ư Lý
Nhưng là thành ư Nhạc.


 Lm. Kim Định
Nguồn: http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=chapter&id=71&ib=324&ict=3582

Thứ Hai, 24 tháng 9, 2012

100 năm ngày sinh Hàn Mạc Tử: Tuyển tập Thơ Đạo và cuộc hành hương Quy Nhơn


Trangđài Glassey-Trầnguyễn phỏng vấn Linh mục Trăng Thập Tự
Lời Giới Thiệu: Chào mừng kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ HÀN MẠC TỬ, 22/9/1912-2012, một nhóm tác giả, với sự chủ biên của linh mục Trăng Thập Tự, đã hoàn tất biên soạn và phát hành bộ sưu tập thơ Công giáo mang tên CÓ MỘT VƯỜN THƠ ĐẠO (Nxb Phương Đông, Sài Gòn, 2012), gồm 4 tập, dày 2000 trang. TẬP 1: THI SĨ CỦA THÁNH GIÁ, giới thiệu nhà thơ Hàn Mạc Tử – cách riêng là về thơ đạo của ông. TẬP 2: NHƯ SONG LỘC TRIỀU NGUYÊN, giới thiệu 45 tác giả có năm sinh từ 1912 đến hết 1940. TẬP 3: ƠN PHƯỚC CẢ, giới thiệu 51 tác giả có năm sinh từ 1941 đến hết 1955. TẬP 4: THẦN NHẠC SÁNG HƠN TRĂNG, giới thiệu 44 tác giả có năm sinh từ 1956 đến thập niên 1990. Chính ngày 22/9/2012, nhóm các tác giả tổ chức về Quy Nhơn thực hiện một ngày hành hương mừng kỷ niệm sinh nhật thứ một trăm của nhà thơ tài hoa Hàn Mạc Tử. Nhân dịp này Trangđài Glassey-Trầnguyễn đã có cuộc phỏng vấn sau đây với Linh mục Trăng Thập Tự, 66 tuổi, đang phục vụ tại Tòa Giám Mục Quy Nhơn, Việt Nam. Bên cạnh những nổ lực sưu tầm thơ Công Giáo, Linh mục, Thi sĩ Trăng Thập Tự còn là một dòng thơ hiếm hoi, sung mãn, tinh tuyền, thấm đẫm linh đạo Cát Minh, hài hòa Đức Tin và văn hóa dân tộc. Những mạch thơ của Ngài khởi đi từ những trăn trở mỗi ngày của một tâm hồn khao khát nên một với Tạo Hóa, thắt chặt Tình Chúa và Tình Người trong từng tứ thơ.
TGT: Kính chào Linh mục Trăng Thập Tự. Xin cám ơn Cha đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn này. Trước hết, xin Cha chia sẻ đôi điều về kỷ niệm cá nhân của Cha với dòng thơ toàn bích Hàn Mạc Tử. Thi sĩ đã có ảnh hưởng như thế nào đến lòng đạo và sáng tác của Cha?
Lm TTT: Tôi biết đến thơ đạo từ năm lớp Đệ Thất (nay là lớp Sáu) qua tập Thơ Kinh của cha Xuân Ly Băng nhưng chỉ mê thơ khi biết Hàn Mạc Tử vào cuối năm lớp Đệ Lục, 14 tuổi. Tôi thuộc lòng bài Thánh Nữ Đồng Trinh Maria và bắt đầu làm thơ học theo nhịp thơ, lời thơ, hình ảnh và cả tứ thơ của anh. Tôi tiếp tục như thế đến hết lớp Đệ Tứ, rồi bỏ làm thơ, mấy năm sau làm lại thì về cả hình thức lẫn nội dung có khác đi nhưng cái chí nguyện dùng thơ ca để chúc tụng Thiên Chúa và loan báo Tin mừng đã học được nơi anh thì tôi vẫn giữ mãi đến nay.



TGT: Cha đã khởi xướng việc sưu tầm thơ Công Giáo từ nhiều năm qua. Đây là một công việc đòi hỏi nhiều thời gian, công sức, và cũng đầy thử thách vì trước nay chưa ai làm, mà lại không dễ dàng tìm được sự hỗ trợ về nhân sự lẫn tài chánh cho “một đền thờ tinh thần.” Thế nhưng, cho đến tháng 9/2012, Cha đã hoàn tất nhiều công trình và bộ sưu tập thơ Công Giáo, nhất là Tuyển Tập kỷ niệm 100 Năm Ngày sinh Hàn Mạc Tử. Thưa Cha, Cha đã kiên trì theo đuổi những dự án này như thế nào? Và đâu là những hoa quả đã đạt được kể đến ngày hôm nay?

Lm TTT: Khoảng năm 1980, một vài anh chị em mới tin Chúa ở Đà Lạt chép cho tôi những bài thơ họ viết diễn tả cuộc sống mới trong Chúa, một vài anh chị em đã chịu thánh tẩy lâu năm cũng tặng tôi những bài thơ của họ. Sau đó có mấy người ở những nơi khác. Tới năm 1990, tôi đã có được hơn mười tác giả. Tôi nẩy ra ý định tìm xin bài của những anh chị em trước kia có làm thơ về Chúa để giữ lại cho mai sau, vì lý do hồi ấy chẳng ai có điều kiện để in thơ. Tôi nhờ một bạn trẻ chép tay vào một quyển sổ thật đẹp rồi về sau nhờ đánh máy lại. Năm 1995 thấy có thể xin phép in chính thức được, tôi chọn ra 40 tác giả và lặn lội đi tìm đủ tiểu sử và hình ảnh, nhưng tới lúc có giấy phép xuất bản thì chỉ được in thơ suông thôi, không có tiểu sử và hình ảnh. Đó là tuyển tập đầu tiên, “Góp nhặt thơ Công giáo,” Nxb Thuận Hóa 1998. 
Cũng thời gian ấy anh Lê Đình Bảng đã gom được những bài anh viết về 22 tác giả xưa. Chúng tôi phân công: anh Bảng tìm tòi những tác giả xưa, tôi tìm liên lạc với những anh chị em mới. Mấy năm sau có thêm Cao Huy Hoàng và Phanxicô Nguyễn Đình Diễn. Chúng tôi họp nhau định kỳ làm việc ở Sài Gòn và đã thực hiện được quyển Kinh Trong Sương. Lúc ấy anh Bảng ước tính phần của anh sẽ in thành 3 quyển, cho nên chúng tôi đánh số quyển Kinh Trong Sương là quyển 4. Tới lúc anh Đình Bảng làm xong Ở Thượng Nguồn Thi Ca Công Giáo, thì đến những 6 tập, quyển Kinh Trong Sương rơi vào thế việt vị. Cuối năm 2007 tôi về sống ở Qui Nhơn, dần dần gặp được mấy anh em cùng tâm huyết, rủ nhau tiếp tục công việc, dự tính lấy tên Kinh Trong Sương cho một bộ nhiều tập, mỗi tập 15 tác giả. Bộ sưu tập Có Một Vườn Thơ Đạo chỉ là tiếp nối công việc này.
TGT: Trong tư cách Chủ Biên, xin Cha nói thêm về Bộ Sưu Tập kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hàn Mạc Tử: ý tưởng ban đầu, tìm người đứng vào Ban Biên Soạn, việc thảo ra nội dung của Tuyển Tập, sưu tầm những bài viết về Hàn Mạc Tử, chọn thơ Hàn Mạc Tử, chọn thơ của các tác giả khác.
Lm TTT: Nhóm bạn ở Quy Nhơn có anh Nguyễn Thanh Xuân, Mạc Tường và Thiện Chân. Về sau có thêm anh Trần Như Luận. Giữa năm 2011, chúng tôi hoàn thành được hai tập bản thảo Kinh Trong Sương 1 và 2, tính làm xong tập 3 sẽ in cùng một lúc. Chợt nhớ ra ngày kỷ niệm Hàn Mạc Tử đã gần kề, chúng tôi đổi hướng, dự tính giới thiệu 100 tác giả để mừng kỷ niệm 100 năm. Thế nhưng khi xong bộ Có Một Vườn Thơ Đạo thì không chỉ 100 mà là 140 tác giả. Để thực hiện bộ sách này, ngoài nhóm chủ chốt họp mặt định kỳ hàng tháng tại Quy Nhơn, chúng tôi còn làm việc qua email và điện thoại với các anh Trần Vạn Giã (Nha Trang), Lê Hồng Bảo (Ninh Thuận), Cao Huy Hoàng (Bình Thuận), Lê Đình Bảng (Sài Gòn) và chị Vũ Thủy (Sài Gòn). Theo sự góp ý của bạn hữu từ xa, chúng tôi thực hiện một tập riêng cho Hàn Mạc Tử, còn các tập sau giới thiệu những tác giả sau Hàn Mạc Tử, nghĩa là có cùng năm sinh với Hàn Mạc Tử (1912) trở đi và xếp theo thứ tự năm sinh. Hy vọng sự sắp xếp này sẽ tạo thuận lợi để về sau người ta dễ nghiên cứu và đánh giá sự phát triển thơ Công giáo Việt Nam theo dòng thời gian.
Việc sưu tầm những bài viết về Hàn Mạc Tử có hai phần: Những bài của các tác giả ngoài Kitô giáo, phần lớn giáo sư Phan Cự Đệ đã đưa vào hai quyển sách dày của ông. Chúng tôi đã trao đổi với gia đình giáo sư để xin sử dụng nguồn tài liệu này. Còn phần thứ hai là chân dung Kitô hữu của Hàn Mạc Tử, gồm những bài của giới Công giáo  viết về nhà thơ thì tôi đã gom dần từ trước và đã lưu giữ trong máy vi tính. Về các tác giả khác thì tôi nhờ các anh em trong nhóm bình chọn, rồi tôi chịu trách nhiệm chọn lọc lần cuối.
TGT: Còn về chi phí cho việc in ấn và kế hoạch phát hành (cả bản in lẫn bản điện tử trên mạng sau này) thì thế nào? Theo Cha, đâu là khó khăn lớn nhất cho công trình này?
Lm TTT: Khi bộ sách dần dần hình thành, chúng tôi thấy đây không chỉ là một tài liệu để giới thiệu với người ngoài và người đồng đạo về một dòng thơ Công giáo lặng thầm mà có thật, nhưng có thể sẽ còn là một lợi khí giúp các bạn trẻ Công giáo ý thức hơn về những đóng góp của cha anh và đầu tư thời giờ trau dồi tiếng Việt để loan báo Lời Chúa. Việc đào tạo tiếng Việt cho thế hệ trẻ, nhất là những tông đồ tương lai của Chúa là vấn đề khẩn cấp. Dù sách vở có bị thay thế bằng màn hình và văn hóa viết suy thoái thành ngôn ngữ nhắn tin điện thoại, thì Tin mừng vẫn phải được rao giảng bằng thứ ngôn ngữ thật trong sáng, rõ nghĩa và lưu loát trong lớp giáo lý, trên tòa giảng, trên trang mạng… Vẫn cần những người viết các văn bản định hướng… Vì thế chúng tôi ước mong làm sao phổ biến bộ sách thật rộng rãi, với giá thật thấp để sinh viên học sinh đâu cũng có thể mua được.
Bài toán lúc đầu của chúng tôi giản dị là làm sao để đẩy tới mỗi giáo phận ít là 1.000 bộ sách, những giáo phận lớn 2.000 bộ. Được vậy, nhiều hay ít, các bạn trẻ sẽ có lúc tiếp cận và kết quả rồi sẽ đến. Với 26 giáo phận, con số sẽ là 30.000 bộ. Mỗi bộ sách cả tiền in và tiền thuế phí tổn lên đến 110.000 đồng, ghi giá bìa 80.000 đồng, khi giao cho người phát hành chỉ nhận lại được 60.000 đồng, phải bù lỗ cho mỗi bộ 50.000 đồng. Để bù lỗ 30.000 bộ, sẽ cần đến 1 tỷ rưỡi. So với những ngôi nhà thờ đang đua nhau làm lại, đây chỉ là một con số khiêm tốn, nhưng liệu mấy ai hưởng ứng giúp đỡ? Không dám ảo tưởng, chúng tôi lên kế hoạch từng phần, thực hiện 1/3 chương trình, tức 10.000 bộ, rồi sẽ đẩy bản văn lên mạng cho độc giả khắp nơi dễ truy cập. Người nhận giúp phát hành cho rằng 10.000 bộ là nhiều quá, sợ không tiêu thụ hết, cần thăm dò nhu cầu trước xem sao đã. Thật bất ngờ, chỉ sau mười ngày, đã có bốn giám mục đăng ký tổng cộng 2.800 bộ. Anh em nhóm biên soạn lạc quan tập trung lo hoàn thành bản thảo. Người ta giới thiệu một số đại ân nhân thường giúp các nhà thờ. Tôi gõ cửa và hầu hết đều bị từ chối, hình như họ có cảm tưởng sách vở là chuyện xa thực tế. Thế nhưng rồi đã có 19 anh chị em trong nước, kể cả thân nhân, bạn hữu, giáo và lương đã ủng hộ được 202 triệu, người nhiều nhất là 100 triệu và người ít nhất là 200.000 đồng. Một nữ độc giả chưa quen biết tại Úc đã vận động quyên góp từ 38 người được 2.300 Úc kim. Một bệnh nhân bại liệt từ Mỹ giúp 1.000 Mỹ kim. Một cộng đồng Việt Nam tại Mỹ giúp 1.000 Mỹ kim. Một linh mục đang làm việc tại nước ngoài đã dốc hết số tiền thưởng hậu đại học để giúp 20 triệu đồng. Có 7 cựu chủng sinh hải ngoại giúp được gần 20 triệu. Một linh mục trong gia tộc thường cho tôi những đồng tiền dành dụm của ngài, tôi cũng góp vào đây. Quay lại Việt Nam, một cựu chủng sinh giúp 100 Mỹ kim, một cha Tổng đại diện đã giúp 30 triệu đồng, một cha xứ giúp 100 Mỹ kim, một cha hưu dưỡng giúp 400 ngàn đồng. 11 dòng nữ đã giúp tổng cộng 63 triệu. Ngoài ra một số đáng kể tác giả đã quảng đại đóng góp, kẻ ít người nhiều, tổng cộng lên đến 139 triệu. Tất cả, cộng với sự giúp đỡ lớn lao của các Đức Giám Mục, chúng tôi đã vững dạ ấn hành 7.000 bộ sách, và sau cuộc kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hàn Mạc Tử, chúng tôi sẽ xúc tiến ấn hành thêm 3.000 bộ. Ước mong các tổ chức và đoàn thể tại các giáo phận tiếp tay để sách đến được với đông đảo sinh viên học sinh. Nếu số lượng đăng ký gia tăng, chúng tôi sẽ tiếp tục tìm nguồn hỗ trợ và xin giấy phép tái bản để đáp ứng nhu cầu.
Lúc đầu tôi tưởng khó khăn lớn nhất là tiền bạc nhưng sau khi làm mới thấy khó khăn nằm ở chỗ chưa có sự quan tâm của các cha xứ và các nhà đào tạo. Phải có các cha quan tâm giới thiệu, sinh viên học sinh mới biết để mua, nếu không, sẽ chẳng thể nào phát hành tới 30.000 bộ sách. Khó khăn thứ hai là hiện nay phía Công giáo không có một hệ thống phát hành sách. Chúng tôi phải nhờ qua các văn phòng Tòa giám mục. Các vị phụ trách rất nhiệt tình nhưng không phải là việc chuyên môn của các vị cho nên lắm khi rất vất vả mà vẫn bất cập.
TGT: Thưa Cha, các Đức Giám Mục đã hỗ trợ như thế nào cho công trình này?
Lm TTT: Cách đây hơn 20 năm, khi tôi lặn lội tìm gặp những anh chị em thơ văn cũ thì đa số đã xếp bút nghiên kiếm sống qua ngày. Thế rồi thấy vẫn còn một linh mục hỏi thăm đến, một số người đã lại cầm bút. Cuộc phấn đấu dai dẳng khá mệt mỏi nhưng rồi chúng tôi đã in được 5.000 bản Kinh Trong Sương để tặng đến tất cả các giáo xứ và dòng tu Việt Nam và thanh thỏa được nợ nần. Đó là một tín hiệu hy vọng. Bộ sách “Những bài thơ hay lạ xưa nay” của Long Biên Trương Quang Nguyên (Nxb Văn Nghệ, 2009) đã chọn giới thiệu 10 trong số 15 tác giả Kinh Trong Sương, giúp độc giả ngoài Kitô giáo biết thêm một vài tác giả Công giáo nào đó ngoài Hàn Mạc Tử. Đó là niềm khích lệ lớn. Dù vậy, lúc ấy vẫn còn là hành trình đi trong sương và có phần lẻ loi. Còn nay thì sự ủng hộ của các Đức Giám mục đã rất rõ.
Bộ sưu tập Có Một Vườn Thơ Đạo lần này không những đã được xuất bản dưới logo của Ban Văn Hóa HĐGMVN mà còn nhận được sự giúp đỡ cụ thể của các Đức giám mục. Trong số 42 vị giám mục đương nhiệm và hưu dưỡng có 5 vị đã viết thư khích lệ. Có 7 vị, chưa kể hai ĐGM tác giả, đã nâng đỡ về tài chánh bằng cách mua sách tặng và ủng hộ tiền bạc. Ngoài số sách mua để tặng lên đến 4.500 bộ, tổng cộng 270 triệu đồng, còn có số tiền giúp bù lỗ lên đến 212 triệu VNĐ = cộng lại là 482 triệu đồng. Nói rõ hơn: Hơn 1/5 số các giám mục quan tâm ủng hộ công việc này bằng tiền bạc với một số tiền xấp xỉ số giúp đỡ của mọi thành phần khác trong Dân Chúa cộng lại (482 triệu so với 497 triệu).
Đó là thông điệp bằng con số để những anh chị em đang mệt mỏi khi làm mục vụ văn hóa đừng nản lòng. Tận thâm tâm, các mục tử vẫn ưu tư khắc khoải về việc truyền tải Tin mừng bằng văn thơ nghệ thuật. Hơn nữa, chính vị Mục Tử tối cao là Chúa Cứu Thế Giêsu Kitô sẽ ban Thánh Thần Ngài cho ta (x. Lc 11,9-13) và cũng bảo đảm cả phương tiện cho ta làm việc: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
Chúng tôi muốn công khai hóa sự giúp đỡ của quý Đức Cha để nhắn gởi tới mọi thành phần Dân Chúa một lời mời gọi. Bao lâu người tông đồ chưa thành thạo tiếng Việt thì chúng ta chưa thể thật sự thành công trong việc loan báo Tin Mừng cho người Việt. Ước gì mọi người chúng ta biết chia sẻ cùng một bận tâm với các mục tử để đầu tư nhiều hơn cho nhu cầu mục vụ văn hóa, cho việc đào tạo tiếng mẹ đẻ cho lớp trẻ nhất là lớp trẻ đang muốn dấn thân làm việc tông đồ. Xin hãy quảng đại đóng góp để các cơ sở đào tạo linh mục và tu sĩ có thể đầu tư tìm ra những phương thế hữu hiệu cho việc đào tạo này. Xin hãy quảng đại đóng góp cho Ban Mục vụ Văn hóa tại giáo phận mình để ban này có thể xây dựng một đại lý phát hành sách quy mô và làm việc đúng phương pháp, có thể hỗ trợ các giáo xứ xây dựng tủ sách và phòng đọc sách, có thể tổ chức thi văn thơ cho các em học sinh ở độ tuổi học giáo lý, có thể xây dựng các câu lạc bộ sáng tác thơ văn hầu phát hiện và vun trồng những tài năng văn chương cho Giáo Hội, và nhiều việc khác tương tự. Việc xây dựng đền thờ tinh thần cấp bách hơn đền thờ vật chất nhiều nhưng chưa được quan tâm đủ. Theo tôi, giữa sự quảng đại của các nhà hảo tâm, những đồng tiền giúp đỡ cho các ban mục vụ Văn hóa các giáo phận nằm trong số những đồng tiền khiêm tốn lặng lẽ nhưng lại rất ý nghĩa và có hiệu năng rất lớn trong việc xây dựng Giáo Hội.
Với các anh chị em phải đảm đương công tác Mục vụ Văn hóa, kinh nghiệm nhỏ chúng tôi mong được chia sẻ là kinh nghiệm bắt chước cách người ta làm nhà thờ. Nếu đợi gây quỹ đầy đủ đâu vào đấy rồi mới khai móng làm nhà, chắc sẽ ít nhà thờ thành hình nổi. Người ta lên chương trình, khởi công, rồi vừa làm vừa tìm sự giúp đỡ, nếu cần thì vay mượn, làm xong sẽ trả. Mục vụ Văn hóa cũng phải như vậy. Cứ lên chương trình rồi khởi động. Đã đặt được viên đá đầu tiên thì rồi sẽ đặt được viên ngói hay tấm tôn cuối cùng. Bộ sưu tập Có Một Vườn Thơ Đạo cũng như những cuộc thi văn thơ chúng tôi đã hoàn thành đều được thực hiện theo cách ấy. Lòng sẽ gọi lòng, dần dần sẽ có những người cảm thông, nâng đỡ, tạo nên bầu khí ủi an và ấm cúng cho mục vụ Văn hóa.
TGT: Tháng 9/2012 này đánh dấu 100 năm ngày sinh “Thi sĩ của Thánh giá.” Cha và các bạn thực hiện một ngày hành hương đặc biệt theo chân Hàn Mạc Tử tại Quy Nhơn, kết hợp nhiều chiều kích: thơ ca, lịch sử và tâm linh của thi sĩ. 100 năm chỉ đến một lần, và cuộc hành hương đặc biệt cũng thế. Mời Cha trình bày về sinh hoạt khá hy hữu này.
Lm TTT: Việc tưởng niệm được thực hiện khá “văn nghệ,” chủ yếu là một cuộc hành hương bỏ túi vào đúng ngày 22-9, giản dị, ngắn ngủi, chỉ trong 10 giờ nhưng với một nội dung hiếm có. Lộ trình đưa chúng tôi tới nơi Hàn Mạc Tử đã lãnh bí tích Thêm Sức (nhà thờ Quy Nhơn xưa), nơi gia đình nhà thơ đã sống (20 Khải Định), những nơi anh đã lánh bệnh và chữa bệnh (Xóm Tấn, xóm Động, Ghềnh Ráng, Gò Bồi và Quy Hòa), chiếc giường anh từ giã cõi đời và những nơi anh đã an nghỉ (Quy Hòa và Ghềnh Ráng). Chúng tôi cũng ghé thăm Gò Thị, quê hương Thánh Anrê Kim Thông, đền Vĩnh Thạnh kính Thánh Giám Mục Stêphanô Thể và đài kỷ niệm Nước Mặn, cái nôi của chữ Quốc ngữ.  Tại ngôi nhà xưa ở Gò Bồi, một chứng nhân trên 80 tuổi sẽ kể lại kỷ niệm về Hàn Mạc Tử. Một vài thân nhân của nhà thơ sẽ chia sẻ về hình ảnh của anh trong gia đình ruột thịt. Nói tắt là một cuộc hành hương tinh thần, bày tỏ tấm lòng chúng tôi với Hàn Mạc Tử.
Chỉ một số các tác giả của bộ sưu tập có thể về dự, hầu hết chưa bao giờ có dịp gặp nhau. Chúng tôi gặp nhau từ chiều hôm trước để hàn huyên tâm sự, kẻ từ Bắc vào, người từ Nam ra: Hải Phòng, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Phan Thiết, Xuân Lộc, Phú Cường, Sài Gòn… cùng ngâm thơ Hàn Mạc Tử với nhau và hát cho nhau nghe những bài hát về Hàn Mạc Tử hoặc những bài dệt nhạc từ thơ Hàn Mạc Tử. Sáng 22, chúng tôi lên đường lúc 7 giờ, ăn trưa tại nhà các chị Phan Sinh ở Quy Hòa, rồi thăm mộ nhà thơ và kết thúc bằng thánh lễ tại nhà nguyện Trung Tâm Thánh Thể Thánh Mẫu Ghềnh Ráng, đối diện với con dốc lên mộ Hàn Mạc Tử.
TGT: Trong Tuyển Tập, Cha đã viết một loạt bài về dòng thơ và người thơ Hàn Mạc Tử từ góc nhìn huyền học Cát Minh. Qua những đối chiếu với “Lâu Đài Nội Tâm” của Thánh nữ Têrêsa Avila, Cha đã phân tích hành trình trở nên một với Thiên Chúa của Hàn Mạc Tử. Cái kinh nghiệm được biến đổi ấy khởi đi từ một tiền đề thật đơn giản: sự từ bỏ giữa cuộc sống hằng ngày. Mời Cha dẫn giải thêm về góc nhìn này cho những độc giả chưa được thưởng thức Tuyển Tập. Có phải Cha đã đến với nhận định này từ chính hành trình tu đức của mình không?
Lm TTT: Từ năm lớp Đệ Ngũ (lớp Tám), tôi đã chọn bút hiệu Trăng Thập Tự, với ý nghĩa sẽ theo đuổi cả hai: Trăng là nghệ thuật và Thập Tự là đời tu. Lớn lên tôi mới nhận ra mình đã vô tình nhận lấy tên của một vị thánh nhà thơ Kitô giáo: Thánh Gioan Thánh Giá. Bởi lẽ anh em Tin Lành phiên âm Gioan thành Giăng, tức là Trăng, hóa ra Trăng Thập Tự là Gioan Thánh Giá. Thế nhưng mãi 12 năm sau khi làm linh mục, đến năm 1987, tôi mới bắt đầu đọc Thánh Gioan Thánh Giá, vị đồng sáng lập Dòng Cát Minh Cải Tổ với Thánh nữ Têrêxa Avila, và nhận ra học thuyết của ngài hết sức phù hợp và hữu ích cho Giáo Hội thời đại này. Rồi nhờ đó, do ơn Chúa Quan Phòng, chính trong năm ngân khánh linh mục, tôi được vào nhà tập dòng Cát Minh tại Tây Ban Nha để học và cảm nhận kinh nghiệm của hai vị thánh sáng lập. Tới năm 2007, tôi bị đau nặng phải rời khỏi Dòng về lại giáo phận Quy Nhơn. Chính sau khi đã rời khỏi Dòng rồi tôi mới càng thấm thía con đường tâm linh của hai vị thánh tiến sĩ ấy, cộng thêm kinh nghiệm của vị thánh tiến sĩ Cát Minh thứ ba là Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Năm 2010, kỷ niệm 70 năm Hàn Mạc Tử qua đời, tôi đã viết bài minh giải kinh nghiệm được biến đổi của Hàn Mạc Tử theo những điều tôi hiểu về linh hạnh Cát Minh.
TGT: Tuy Tuyển Tập đã hoàn tất, nhưng Ban Biên Tập vẫn chú tâm vào việc tiếp tục sưu tầm những tác giả chưa có mặt trong lần xuất bản này để bổ sung trong đợt II, vào dịp 75 năm lễ giỗ của Hàn Mạc Tử trong năm 2015. Xin Cha cho biết các tác giả nên gửi bài về đâu, và cách chọn thơ để đóng góp, cũng như cách để đóng góp tài chánh cho các công trình thơ rất quý giá và cần thiết này.
Lm TTT: Năm năm về lại giáo phận Quy Nhơn, tôi đã tổ chức hai cuộc thi xướng họa thơ trên mạng và ba cuộc thi văn thơ khác dành riêng cho học sinh ở tuổi học giáo lý tại Giáo phận. Tạ ơn Chúa, qua những cuộc thi ấy tôi đã thoáng thấy xuất hiện một đội ngũ mới những tác giả trẻ. Hy vọng ba năm nữa, con số này sẽ không ít. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều tác giả đứng tuổi và cao niên đã làm thơ về Chúa mà cho tới lúc này chúng tôi chưa gặp được. Cuối những quyển Có Một Vườn Thơ Đạo, chúng tôi đã ghi một địa chỉ nhận bài để những vị nào muốn tham gia bộ sưu tập lần tới, có thể gởi bài về. Chúng ta có lý để hy vọng rằng trong bộ sưu tập sắp tới, Vườn Thơ Đạo Nở Hoa, dự kiến phát hành nhân kỷ niệm 75 năm qua đời của Hàn Mạc Tử, 2015, sẽ có thêm hàng trăm tác giả khác, già cũng như trẻ, với những bài thơ đặc sắc ca tụng Tình yêu Thiên Chúa. Ước mong mọi người tiếp tay tìm tòi, nâng đỡ và giới thiệu họ cho nhóm biên soạn chúng tôi. Điện chỉ nhận bài là thoconggiao@gmail.com hoặcgopnhattho@yahoo.com. Trước hết chính tác giả tự chọn một số bài gởi đến. Chúng tôi sẽ dựa vào loạt bài đầu tiên ấy để lượng giá rồi trao đổi để có kết quả cuối cùng. Những ai muốn ủng hộ cũng xin liên lạc về hai điện chỉ nói trên.
TGT: Cha có những dự tính gì khác trong việc sưu tầm và phát huy thơ Công Giáo trong tương lai?
Lm TTT: Với kinh nghiệm thực hiện bộ sưu tập Có Một Vườn Thơ Đạo thì bộ thứ hai, Vườn Thơ Đạo Nở Hoa, hy vọng là không khó mấy. Nếu Chúa cho có sức khỏe thì tôi sẽ tập trung vào việc phát hiện các tác giả văn xuôi và giúp họ thăng tiến để phục vụ Giáo Hội Việt Nam. Chính trong đêm thơ 100 năm ngày sinh Hàn Mạc Tử, chúng tôi công bố bản thể lệ cuộc thi viết văn đường trường, kéo dài 6 năm, từ đây tới 2018, kỷ niệm 400 năm Tin mừng đến với Giáo phận Quy Nhơn.
TGT: Xin chân thành cảm ơn Linh mục Trăng Thập Tự đã giúp chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn này. Kính chúc Cha nhiều ơn lành và sức khỏe.
Trangđài Glassey-Trầnguyễn
Nguồn: Tác giả gửi bài và ảnh bìa sách