Các Trang

Thứ Tư, 15 tháng 8, 2012

Sứ điệp trống đồng


1. Sức nặng của từ trống

Sứ điệp trống đồng nằm ngay trong chữ Trống.

Trống nghĩa là chi mà lại chơi vai trò quan trọng quá thế? Thưa trống theo nghĩa thông thường là rỗng, ở đây có nghĩa là để trống một mặt không bịt đáy, không bưng cả hai đầu. Loại trống bít bùng này phát xuất từ miền Bắc du mục gọi là cao thường được dùng trong lúc đánh giặc. Khi truyền vào miền Việt tộc ban đầu chỉ được dùng trong việc kiện cáo (H.46).
(H.46: Trống bịt kín)

Ngược lại trống xuất hiện từ Việt tộc chỉ thị đức trung ương gọi là Tham lương tức sự thông hội giữa trời đất người. Để sự thông hội có điều kiện hiện thực nơi người thì tâm hồn cần phải để trống rỗng. Vì thế lấy từ Trống đặt tên cho hiện vật mà Tàu kêu là cổ là cao. Ngoài nghĩa thông thường từ Trống còn hàm ngụ một ý rất sâu xa quan trọng nữa, nhưng trước khi đi tìm ý nghĩa sâu xa cần xét rộng xem có phải vì tình cờ mà cái Tàu gọi là cổ được Việt đặt tên là Trống, lúc ấy ta mới thấy tên Trống không là một tên cầu âu, nhưng là một tên đã được lựa chọn nằm trong môi sinh tinh thần ứng hợp như được chứng tỏ bằng nhiều vật dụng khác cũng để trống một đầu. Sau đây là thí dụ:

Cái trống Bộc của Bộc Việt (tức Lạc Việt) không có đáy.

Đàn bầu không có đáy.

Trống quân còn gọi là trống đất cũng để một mặt trống.

Bên Tàu cổ đại có thứ nhạc khí quan trọng dùng để mở đầu các bản nhạc cũng để trống một mặt, quen gọi là cái Chúc nhưng trước nữa kêu là cái Không (xem Kinh Thi, Couvreur p.430). Vậy mà trống cũng giữ vai trò mở đầu: mọi hội hè đình đám Việt bao giờ cũng khai mạc bằng ba hồi chín tiếng trống, nên cũng chơi vai trò giống cái Không là khai mở. Cả hai đều mang tên theo chức năng căn bản: một đàng Trống, một đàng Không.

Lại còn vụ trầu không cũng trở nên đối tượng tôn kính được rước trọng thể như thấy ở thôn Tam Đảo, xã Tam Ninh đã rước trầu không vào ngày chính trong tuần kinh Thánh Dóng. Tại sao trầu lại được như thế mà cau với vôi thì không? Chắc là chữ không trong bộ chữ “trầu không” có liên hệ quan trọng đó: chính chữ không đem lại cho trầu vai trò mở đầu câu chuyện, cũng như là vai chính trong truyện trầu cau. (*)

(*) Trong truyện Sorơden cũng có truyện Trầu phép và dân Ca tu cũng có truyện đề cao trầu như vậy.

Xem thế đủ biết chữ Trống không phải vô tình mà là hữu ý đặt cho cái trống. Trống vừa là danh từ vừa là động từ: cái Trống (danh từ) chỉ việc quan trọng hơn hết là để Trống tâm hồn. Đó là đức trung ương bao trùm mọi đức khác, nên lấy từ Trống đặt cho hiện vật có sự mạng mở đầu mọi cuộc lễ hội.

Điều này còn được kiện chứng do cách đánh trống và tang trống.

Trước hết là tang trống với quy mô to lớn gồm ba phần là tang, thân, chân. Theo lối nhìn của nhạc sĩ:

Tang giữ vai trò chứa đựng âm thanh

Thân cộng hưởng

Chân truyền âm

Ngược lại với con mắt triết ba phần trên rõ rệt nói lên tam tài trời, đất, người mà điều quan trọng là cả ba thông hội với nhau để làm thành một thể, như sau này Nho nói “thiên (địa) nhân tương dữ” và được biểu thị bằng nhiều vật như cái cô, có ba phần thông nhau. về sau người ta mất ý thức đem bịt kín đường thông hội giữa ba phần khiến Khổng Tử than rằng: “Cô bất cô: cô tai! cô tai!” nghĩa là cô mà thiếu thông hội (cô) thì gọi là cô cái nỗi gì (chữ Cô cũng giống như chữ trống, vừa là danh từ cô, vừa là động từ Cô viết hoa để chỉ thông  hội).
(H.47: Hình cái cô)

Theo câu đó ta có thể nhại rằng trống mà bịt kín thì còn Trống ở đâu, Trống ở đâu: “Trống bất Trống: Trống tai! Trống tai!”

Sự thông hội này còn thấy nổi bật hơn nữa khi xét tới các lối đánh trống.

- Kiểu đánh được chạm trên mặt trống là để cái trống trên cọc cằm thông xuống đất. Chú ý chữ Thông là để nói lên rằng cọc không chỉ có ý nâng trống mà còn chơi vai trò thông hội với đất.

- Lối khác thì đánh để trống trên mặt nước cũng hàm ý thông đạt với đất với nước.

- Hoặc lối đánh bằng chày rỗng có chứa nước bên trong (ống tre), hoặc khi đánh thì chao vật có hình phễu dưới trống, như còn thấy nơi người Dayak ở đảo Borneo.
(H.48: “Doanh Cổ”: trống có lỗ thông giữa)

Lối biểu lộ rõ nhất sự thông hội cộng hưởng truyền âm là của người Mường gọi là “Chàm Thau” đại để như sau:

Trống được treo trên 4 cọc cách mặt đất 20 phân, bên dưới có đào lỗ tròn sâu 30 phân. Các người đánh gồm một người cái và nhiều người con (theo lối múa trống của Việt Nam một người cái 4 người con, hoặc 4 cặp người con). Các người con đánh nhịp chung quanh vành trống, người cái đánh khắp mặt trống, từ trong trở ra có độ trầm bổng khác nhau, đánh được bài bản. Lối đánh với chày đứng trên đây giống lối giã gạo chày đứng mà người Mường kêu là “Chàm đuống” (chàm là đâm) nên đánh trống kêu là đâm trống: “Chàm thau”.

Người Mường nói rằng đặt trống đúng cách tiếng sẽ vang tới cả hàng huyện. Nếu hỏi thế nào là cách đặt trống đúng cách, ta có thể tìm câu thưa hàm ngụ trong cách họ treo trống cách đất 20 phân, đào lỗ tròn sâu xuống 30 phân: 30 phân chỉ ba trời (tham thiên), 20 phân chỉ hai đất (lưỡng địa). Đó là cách hiện thực tác động giao thoa giữa hai chỉ trời đất, hoặc đó là cách cụ thể hóa câu:

Đồng thanh (trời) tương ứng,

Đồng khí (đất) tương cầu.

Lối thưa bằng số trên (2 trời 3 đất) có thể giải rộng bằng ẩn dụ được ghi lại trong Tiền Hán Thư (quyển 76 tr.101) về cửa sấm của thành Cối Kê kinh đô Việt Chiết Giang, nơi ấy có treo cái trống lớn, khi nào con Bạch Hạc bay vào cửa thành mà chạm phải thì tiếng kêu vang tới Lạc Dương. Đó là lối đánh trống đúng cách. Trống phải Trống, nói bóng là hạc phải trở nên trắng, phải trở nên “bạch hạc”, mà bạch hạc là hình bóng tiên, tức những vị đã giũ sạch bụi trần, tâm hồn thanh thoát thì sẽ đồng hóa với vũ trụ: “ngô tâm tiện thị vũ trụ” chỉ thị bằng số cơ cấu “3-2, tham thiên lưỡng địa”.

2. Ý sâu

Chỉ kể sơ qua như trên đã thấy việc dùng chữ trống để đặt tên cho hiện vật không phải do ngẫu hừng mà là một sự chọn lựa cực kỳ tế vi sau biết bao suy tư thâm trầm, lúc ấy chữ Trống có nghĩa là: tâm hồn con người phải được Trống trơn không vương vấn những cái ngãng trở việc đức trời đức đất giao hội, kẻo lấp mất cửa thông lưu của luồng sống và sáng vũ trụ, không cho con người đạt được chiều kích đại ngã tâm linh của mình. Những vấn vương ấy, những trở ngại ấy có vô số nhưng để tiện luận bàn nên được giản lược vào hai mục là bái vật và ý hệ: cả hai đều quá vụ hình thể nên chắn mất đường thông cù. Bái vật vụ hình kiểu thần thoại. Ý hệ vụ hình kiểu bám ý tượng sự vật: cả hai đều là những cái làm ngổn ngang tâm hồn khiến trời đất hết có thể giao thoa nên không có giao chỉ.

Muốn đạt đợt Giao Chỉ tâm hồn phải trống rỗng, phải bỏ hết những cái bé nhỏ đó, nói cụ thể là những ý tưởng căm thù, ghen ghét, những tin tưởng dị đoan bóp nghẹt cuộc sống đều phải xua khỏi lòng để tâm hồn trở nên trống rỗng. Chính sự trống rỗng đó mới linh nghiệm.
Nó giống với con Zêrô thoạt xem tưởng vô ích nhưng chính nhờ biết dùng nó mà toán học đi được những bước khổng lồ. Hy Lạp rất giỏi hình học nhưng không biết vận dụng con zêrô nên không tiến bằng toán Ấn Độ. (*)

(*) Theo ông Berthelot (trong Astro 363) Ấn Độ học được con zêrô với Maya. Vậy giữa Maya với tộc Việt có cùng một cơ cấu văn hóa, nên có thể ngờ rằng con Zêrô đã xuất hiện trong Việt tộc từ lâu

Xét thế thì con zêrô có họ với Trống đồng, cũng như ba vĩ tích của Lạc Long Quân ví được với ba hồi trống tâm linh đã được bố Lạc khua lên để mở hội Văn Lang Quốc tức lập ra một nước mà con người (lang) có thể đạt đợt văn (chữ Văn hàm ngụ trời đất giao thoa).
Đó là khía cạnh tiêu cực, còn tích cực là cái chi không thể nói ra, vì nói ra là đã bị quy định, có mốc giới, vì thế triết lý Đông phương luôn luôn nhấn mạnh đến chữ Không: Nho thì nhắm đặt lý tưởng cùng cực diệu huyền nơi “vô thanh, vô xú” làm cùng.

Lão nói “Chí hư cực thủ tĩnh đốc”.

Phật thì “không không sắc sắc” với “thái hư”.

Cả ba đều nhấn trên vô, thái hư, tĩnh đốc.

Lê Quý Đôn đã tóm ý đó vào mấy câu sau:
“Trời lấy trống không làm đạo,
Đất lấy im lặng làm đạo,
Người có trống không và yên lặng mới với đạo trời đất.
Vì trống không khắc được tự sáng sủa.
Yên lặng khắc được tự yên định.
Lòng có sáng sủa, tình cờ vững định, mới thành công trong việc cùng trời đất tham dự vào việc giáo dưỡng thiên hạ” (hay việc giáo dưỡng thiên hạ nằm trong chỗ đó).

“Thiên dĩ hư vi đạo.
Địa dĩ tĩnh vi đạo.
Phương hợp thiên địa chi đạo.
Cái hư tắc tự minh.
Tĩnh tắc tự định.
Tâm minh định lý.
Tham tán chí công.
Ư thị hồ tại.
(Vân Đài tr.35)  

Đôi khi có nói kiểu tích cực như “giếng thiêng”, “mạch cam tuyền”, trùng dương chữa muôn khả thể, tâm linh… cũng chỉ là tiêu biểu. Tuy nhiên trong các cách nói đó câu “trời tròn đất vuông” làm nổi lên khá rõ 2 chiều trái ngược: một đàng tròn theo nghĩa không có mốc giới hạn cục, ngược với đất vuông có mốc giới cõi bờ. Chính hai chiều trái ngược không và có đó giao thoa làm nên đạo trời đất, vũ trụ, con người.

3. Chiều kích vô biên nơi con người

Nói cụ thể vào người thì con người nhỏ bé cục hạn lại mang trong mình chiều kích vô biên. Đó là kết luận tiên thiên: còn hậu thiên xin hỏi có bằng chứng nào cho thấy như vậy chăng? Thưa có, nó được biểu lộ cách gián tiếp qua lòng ham thích tự do mà đã là người ai cũng cảm thấy sự mong muốn tuy rộng lớn khác nhau tuỳ hoàn cảnh, nhưng còn tự do nào đó thì ai cũng mơ ước một cách thâm sâu. Tự do là chi? Thưa tiêu cực là thoát khỏi ràng buộc, thoát khỏi giới mốc. Thoát nhiều tự do nhiều. Nhưng không bao giờ thoát trọn vẹn vì bản chất con người là kết hợp bởi trời và đất, nên ngoài trời tròn lại còn đất vuông là các giới mốc là điều cần để làm nên con người tiểu ngã cá thể. Vì vậy giới mốc cũng cần cho sự sống y như Trời vậy. Tuy nhiên nếu giới mốc hạn chế quá đáng tự do thì lúc ấy nảy sinh những mơ ước cũng lại phát xuất từ chiều kích vô biên trong mình, đó là mơ ước vượt qua những giới mốc thường được biểu lộ trong các truyện thần tiên, hô phong hoán vũ, độn thổ đằng vân được mọi người xưa yêu thích một cách say mê vì nó bù lại phần nào nền tự do chính thực đang bị hoàn cảnh cướp mất, hoặc những vươn bay trong bầu khí tâm linh man mác chưa hiện thực được. Người thời mới quá duy lý không nhận ra điều đó nên kết án cho là hoang đường mộng tưởng… Nhưng rồi những điều “hoang đường” đó lại xuất hiện dưới nhiều hình thức khác như các phim khoa học giả tưởng, các show Wonder Woman, Bionic Woman, Six Million Dollar Man, Superman… cũng được mọi người ưa thích, vì chúng đáp ứng một nhu yếu thâm sâu không được đáp ứng, không được dưỡng nuôi, đó là chiều kích vô biên trong con người, nên những truyện giả tưởng kia giúp cho con người khuây khỏa lòng đói khát cái vô biên.

Chính trong chiều hướng đó các hình thức bái vật với những tin tưởng vu vơ cuồng nhiệt, cũng như những ý niệm xa thực tế có cơ nảy nở và trở nên tai hại tự lúc con người đặt trọn vẹn tin tưởng vào chúng, phong chúng lên tòa cao lẽ ra phải dành cho vô biên, để chúng nắm trọn quyền định đoạt, từ đấy chúng chắn mất đường thông cù không còn cho đức trời nuôi dưỡng đức đất (nói cụ thể theo tâm lý là không để cho bản năng tiềm thức hướng dẫn lương tri lương năng). Thế là con người bị cơn đói khát sự vô biên, không tài nào lấp nổi được. Đáp ứng sao được vì bái vật cũng như ý hệ đều vụ vào hình tượng đã hữu hạn lại còn kết hợp với nhau thành bức tường cứng đơ, không để một tia vô biên nào xuất hiện lọt qua, trên bàn ăn toàn đồ hữu hạn: thần thoại cũng như ý hệ đều là những đồ có mốc giới bé nhỏ, càng kết nạp, càng xây đắp vững lại càng là duy vật đặc sệt, làm sao nuôi nổi con người vốn mang trong mình chiều kích vô biên.

Nhìn sơ qua lịch sử nhân loại ta đếm được có tới trăm ngàn tôn giáo cũng như thuyết lý đã đề ra mà vẫn không làm con người no thỏa, còn gây nhiều tệ hại như các vụ đốt trẻ tế thần, thiêu sống bà góa, giết hàng bao nhân mang, trong các cuộc thánh chiến. Vậy mà con người cứ còn đổ xô đến các tôn giáo bái vật thì đấy là dấu tỏ rõ trong con người có chiều kích vô biên và chiều kích đó chưa được nuôi dưỡng. Thế là nhu yếu thâm sâu nhất làm nên con người lại bị bỏ đói, chính vì thiếu mất chữ Trống vậy.

Ngoài các tai họa do bái vật và ý hệ một tai họa khác cũng do sự đói khát cái vô biên là lòng tham vô đáy.

4. Nhân dục vô nhai

Đó chính là mẹ đẻ ra mọi tai ương, mà nguy hiểm hơn hết là tai họa chuyên chế tức lòng ham làm chủ không những tài vật mà luôn cả con người. Căn nguyên ở tại lòng người có chỗ vô biên mà tài vật lại hữu hạn không đủ sức làm no thỏa, nên hướng lòng khát cái vô biên sang con người, gây ra các tai họa tranh đấu, cướp đoạt, chuyên chế. Đúng là do thiếu Trống rỗng, nên không còn biết dùng con người làm chuẩn như trong luật “giao chỉ” bao giờ cũng lấy người hay cuộc sống trong con người làm chuẩn cho sự thu góp, nói bóng là xứ Nghệ, Nghệ An. Chữ Nghệ sơ nguyên viết bằng hai nét trời đất giao hội, tứ c cuộc sống con người phải là một nghệ thuật: “nghệ thuật sống”. Nghệ thuật là chi nếu không dùng cái hữu hạn để biểu lộ cái vô biên. Ap dụng vào con người vào nghệ thuật sống là “lấy tâm trùm cảnh. Không để cảnh trùm tâm”. Cảnh là con người tiểu ngã với các sự bé nhỏ hữu hạn của nó như tài vật… tất cả cần được bao trùm bởi Đại ngã tâm linh mới giữ được thế quân bình. Cho nên nói được là sứ mạng con người, cứu cánh con người là nuôi dưỡng cho Đại ngã lớn lên, lớn mãi cho tới độ trở thành cái tâm của vũ trụ (vũ trụ chi tâm): khi nào đạt được trình độ đó thì tâm mình ví như mạch nước cam tuyền chảy ra tràn ngập những nước ngọt làm bằng hạnh phúc, an nhiên bao lấy tiểu ngã (vuông) tức tiểu ngã cũng được hạnh phúc sống trong no đủ, an khang: chỉ có các đó mới nuôi dưỡng được chiều kích vô biên đích thực. Vô biên phải được nuôi dưỡng bằng vô biên. Vì con người nằm trong hữu hạn nên cần đến nghệ thuật siêu vượt. Nói là nghệ thuật vì hai chiều trái ngược cần đến tài pha độ đúng liều lượng giữa tròn vuông: phải có tài như nghệ sĩ mới pha nổi. Vì nó rất uyển chuyển tế vi.

Liều lượng đó nói Nôm là “vài ba”, nói Nho là “tham lưỡng”, nói theo tiêu chuẩn là “chí trung hòa”. Đây là điều cần giải rộng. Ngạn ngữ triết nói, “nội hàm càng nhỏ, ngoại hàm càng to” nghĩa là càng vào nhỏ bao nhiêu, sức bao quát bên ngoài lại càng mở rộng ra bấy nhiêu, vào cùng cực đến chỗ trống trơn (vô thanh vô xú) thì sức bao quát gồm thâu vũ trụ. Hai đàng liên đới nhau cách cơ thể. Nho giáo đã công thức thành 3 tiếng chí trung hòa: hễ vào tới chí trung (vô thanh vô xú) thì hòa sẽ bao trùm vũ trụ gọi là thái hòa. Đấy là câu chỉ tỏ hướng tiến phải theo, nó đi trái ngược lối thường: tức muốn thâu vào nhiều thì phải buông ra. Buông tài vật bằng lòng quảng đại. Nhưng nhất là buông những ý nghĩ hẹp hòi, những tin tưởng tai dị, những tình cảm tiêu cực như óan hận, thù ghét, ghen tương, tất cả đều phải xóa bỏ. Xóa bỏ nhiều là Trống rỗng nhiều. Trống rồng nhiều là thâu nhận nhiều. Trống đến độ vô thanh vô xú sẽ thâu được vô biên, thâu được cả vũ trụ, đến độ nói được là vạn vật có đủ nơi minh. Nói khác khi đã xả bỏ đến cùng tột thì đức trời vô biên sẽ tràn lên nuôi dưỡng tâm hồn, lúc ấy lòng tự nhiên cảm thấy an nhiên thanh thoát, hết còn bám víu tài vật, mà chỉ cần vật chất vừa đủ cho cái thân xác hữu hạn. Ngược lại không đạt độ Trống rỗng thì chiếu kích vô biên không được nuôi dưỡng, nên đói hoài: nói đúng là đói cái vô biên, rồi không nhận ra lại tưởng phải có nhiều mới đủ. Thế là khởi đầu thâu đoạt, càng đoạt càng ham. Hết đoạt của thì đoạt đến người, thế là dẫn đến tai họa bên hữu bên vô: một vài người có, bảy tám người không. Đã không có là nô lệ, tuy danh hiệu có khác: khi thì vua, khi thì tư tế thượng phẩm, dồn cả hai lại một thành vua thần, danh tuy khác nhưng hậu quả là một: vẫn bên chủ bên nô, khổ luỵ ngút trời.

Về văn hóa là xa lìa đại chúng, trở nên trừu tượng, lấy định mệnh làm chuẩn, lấy bi kịch làm sở trường. Thí dụ điển hình là Hy Lạp và An Độ, nơi đây có những thần thoại lớn lao theo nghĩa thần nắm trọn chủ quyền, con người chỉ còn là trò chơi của thần minh, của tất mệnh. Nên hiểu rằng đề cao thần minh kiểu đó chính là dọn đường cho các chúa chuyên chế thống trị. Tất mệnh hàm ý rằng nô lệ là do trời đất, hoặc do lỗi của mình đã phạm trong những kiếp trước chớ trông mong thoát ly, đừng thử thách vô ích.

5. Ca vũ

Trên đây là ít nét đại cương về nghệ thuật sống như được ghi trên mặt trống đồng, một hình ảnh cụ thể của triết lý an vi trong miền An Việt. Bây giờ thử xem nền triết lý an vi đó chiếu giải vào nghệ thuật vũ như thế nào. Cần nói riêng đến Vũ, vì Ca Vũ là nét tràn ngập trên mặt trống đồng đến độ trở nên nét đặc trưng. Tại sao lại thế? Thưa vì ca nhạc nói lên nét hài hòa hơn hết, đến độ nhạc đáng tên là Nữ hoàng nghệ thuật. Tính lý của nghệ thuật là hòa, thế mà nhạc bao hàm chữ hòa ngay trong bản tính, gọi là hòa âm, hòa tấu, hòa nhịp. Sự hòa đó hiện hình xuyên qua biết bao nhạc khí khác nhau thuộc đủ loại: gõ, thổi, kéo, rồi to, nhỏ, cao, thấp… vậy mà vẫn tạo nên được những bản hòa tấu, sự tạp đa chỉ càng làm cho cuộc hòa tấu trở nên phong phú, sống động, nhất là khi có vũ đi kèm (H.49).

Vũ nói lên sự sinh động vui tươi, nhảy nhót, hứng khởi nên cũng là nói lên khía cạnh đạo hơn hết, theo nghĩa đạo là đi (Nho viết chữ đạo với bộ xướclà đi). Đó là bầu khí môi sinh tinh thần mạnh mẽ đầy sức lôi cuốn. Vũ gần với các tác động hơn hết cũng như ta có thể nói vũ là tác động an vi hơn hết của con người. Vũ chính là đạo, vì đạo là chuyển nhập tiết nhịp trời đất vào thân tâm, vào chân nhún nhảy, vào tay tung xoè, vào lời nói ra, hát lên, vào chính hơi thở với nhịp bước. Không còn chi gần với con người bằng vũ, phải nói là nó gắn liền với gân mạch, tim gan; khác biết bao với những đền điện chọc trời, uy hiếp tinh thần con người hoặc ở xa lắc xa lơ với con người như những chạm trổ tả cảnh đấu tranh, giao chiến, giết chóc, săn bắn… Đó là những hình ảnh ghi tác động của những con người vong thân, chúng làm con người khốn khổ. Trong thảm trạng đó làm sao con người có thể ca vũ. Mãi cho tới Hy Lạp sử học nghệ thuật mới ghi được một nụ cừoi, nên được kể là nụ cười khai mở thời đại con người khôi phục dần lại quyền làm người. Tuy nhiên đó mới là bứơc đầu, còn phải mấy bước nữa mới tới được ca, còn lâu lắm mới có múa. Nếu có gặp thì hầu chắc đó là của thần minh, múa cho thần minh. Thí du hai ngàn thần vũ bên Angkorvat đang múa, nhưng là múa để mua vui cho thần tiên chứ đâu có phải cho con người.

Muốn thấy người múa và múa cho người, cho mọi người thì phải đến miền có Trống. Ơ đây không những có múa, mà còn có cảnh mọi người múa, đều ca múa động trời khói đất làm thành những dòng vũ đầy hoạt lực và bao la: khắp vũ trụ đều tham dự; mặt trời tia xuống những dòng sáng soi đầy sinh lực: các cặp đôi giao hoan theo nghi lễ linh thiêng. Các ông già cối chày đứng, các bà đầm vũ chiêng hai tay giơ tới 2 giàn 7 cái chiêng để đánh thành giai điệu. Các người khác đánh sênh khua phách vang lừng. Ra đến vòng ngoài 2 đoàn chim 6 và 8 con ngâm thơ lục bát, xen kẽ 2 toán 10 con nai ngâm vịnh “lưỡng ngũ”, các con đực không quên cong cu lên đánh phần. Vòng ngoài cùng toàn chim đều hết mình ca hát. Con thì hát đưa cổ ra dài, những con nhỏ rụt cổ vào tận gáy để lấy cho đầy ắp một ngực hơi đặng hót tiếp. Không thể tìm đâu ra được bức tranh vui nhộn mênh mông hơn, đầy tràn phúc, lộc, thọ, khang, ninh hơn nữa. Đấy quả là bức chạm đẹp trung thực tuyệt vời, vì cái mỹ ở đây được tăng cường bởi cái chân và thiện hòa hợp, tức mọi nhu yếu thâm sâu đều được đáp ứng: từ ăn, nói, làm tình lên đến chỗ tự do, nhân phẩm đều được no thỏa. Đấy mới là lễ hội chính thực theo lễ hội mọi cái hay cái đạp, cái tốt lành cho con người. Nó không còn chỉ gửi tới khiếu thẩm mỹ mà là cả cái chân, cái thiện, vì tự nội phát xuất chứ không do một quyền lực bên ngoài áp đảo, bẻ quặt bảo phải tươi cái mặt lên (mặc dầu bụng đầy đau khổ). Đấy mới là cái chân thọt. Còn thiện là làm ích ngay cho những người đang ca múa đó: ở đây và bây giờ cả thân lẫn tâm, khỏi phải chờ ở một tương lai mù mịt.

6. Các tên bài vũ trên trống đồng

Tất cả bấy nhiêu ơn huệ là nhờ vào sự huấn linh đã được tiên tổ nhấn mạnh ngay từ thưở âm u huyền sử trong những bài vũ mang rất nhiều tên như Hàm trì, Đông quân và nhất là Khúc nghê thường mà chúng ta cần duyệt qua để hiểu rõ hơn bài ca vũ trên mặt trống.

Hàm trì nghĩa đen là “ao ngậm” tức cái “hữu hạn”(ao) ngậm cái vô biên (chỉ bằng vầng nhật). Huyền sử nói Hàm trì là cái ao nơi mẹ Hi Hòa tắm cho con mặt trời và mẹ mới sinh để con sạch mọi cáu bụi. Tắm xong mẹ “phơi” con trên cây “không tang” (tức tâm hồn trống rỗng) để không cầu bụi nào bám vào con mặt trời tâm linh của Mẹ (H.50). Động Đình Hồ cũng có nghĩa là bài ca vũ được ca múa chào mặt trời, mà người cổ sơ đã hát trên bờ Động Đình Hồ. Chữ này cũng có nghĩa như Hàm trì “ao ngậm” nhưng Động Đình Hồ nói rõ ý nghĩa hơn tức là cái hồ tròn ngậm cái đình vuông trước cái động. Nói đến động là nói đến trống rỗng. Lão tử gọi là “cốc thần bất tử” hạng thần không chết. Tất cả đều muốn nói lên chữ Trống: tâm có trống mới bao hàm được trời đất chỉ bằng tròn vuông (ao tròn, nhà vuông). Ca vũ phải theo đường tả nhậm mới nói lên được chiều của Mẹ, mà ta thấy luôn luôn lo cho con mặt trời như vụ Thái Mẫu Nữ Oa đội đá vá trời cũng nằm trong cùng một nơi huyền sử. Về sau các trường đều theo lối kiến trúc Động Đình Hồ: nhà vuông ao tròn như trường Bích Ung đời Chu, trong đó không dạy chữ mà chỉ dạy có múa do các lão trượng! Hiểu là các lão truyền lại kinh nghiệm tâm linh là then chốt của đời sống con người.
(H.49: Vui nhộn
H.50: Phong lưu thanh thoát)

Còn hậu quả được gởi vào tên “Nghê thường vũ y khúc”, xưa nay ta vẫn nghe nói đến tên bài đó bảo là bài các tiên múa trên cung Quảng mà huyền thoại nói liều là tự Đường Huyền Tôn, nhưng chưa ai được thấy hình vẽ ra sao. Vậy không còn hình vẽ nào hợp với tên bài vũ đó hơn là bài vũ tạc trên mặt trống đồng, đúng cả đến chi tiết. Trứơc hết là chữ nghê có nghĩa màu ráng đỏ, tuy xem vào mặt trống không thấy màu đỏ, nhưng dễ dàng suy luận ra tự môi sinh tinh thần, đó là những người thuộc viêm phương, tôn thờ mặt trời nên màu lửa đó phải được chú ý đặc biệt. Thứ đến chữ thường là cái xiêm kết bằng lông chim có màu ráng, hay là ngũ sắc. Đó là lông chim trĩ ngũ sắc, chữ Nho kêu là địch. Nên địch với lông vũ ở đây là một. Vũ là lông chim ngũ sắc được mang mặc khi vũ. Xem vào mặt trống ta thấy có đủ cả bấy nhiêu yếu tố nhắc đến trong bài “Nghê thường vũ y khúc” của các tiên trên cung Quảng. Nói đến tiên là nói đến loại người siêu phàm sống cuộc đời đầy thong dong trong cảnh phong nhiêu tràn ngập về của ăn, áo mặc khỏi cần bận tâm, nên trọn cuộc sống chỉ còn là ca hát múa vui như chim trời cá nước tung tăng bơi lội bay nhảy. Đó là ước nguyện của tiên tổ Việt tộc. Đó cũng là hình ảnh của cuộc sống con người, con người phải làm thế nào để đạt tới đó, coi như cứu cánh đời này của cuộc tiến hóa. Vì thế cái hướng vọng đó phải là ngọn hải đăng cho con tàu vượt biển trần gian, nó phải là bó đuốc soi đường cho mọi cuộc sống, nó phải là hình ảnh của nền triết lý an vi đánh nhịp vào cuộc sống tiến tới cảnh phong lưu nọ. Con người, mọi con người phải tiến tới đợt đó. Chính vì thế tổ tiên ta cũng được kêu là tiền nhân, tiên tổ. Nói đến tiên là người xưa nghĩ đến chim, nên tu tiên đắc đạo gọi là mọc cánh chim (vũ hóa) hoặc trở nên hạc trắng. Chính vì vậy mà nghệ thuật cổ Việt trang trí cho hình ảnh tiền nhân cùng một lối phục sức như tiên, tức mang lông chim, với đức tính như chim. Các vị không những có lông chim trĩ đỏ, được dùng trang sức như áo quần, lại còn hiện đang ca vũ trên hai mảnh bán nguyệt của trống làm liên tưởng đến cung Quảng, nơi ở của các tiên. Lúc ấy mới hiểu tại sao lại viết tên Việt Thường với chữ thường là xiêm, thì ra đó là đồng triện tổ tiên đóng lên tang vật: Việt Thường là chủ nhân của “nghê thường vũ y khúc” đúng từng nét, một phảy không sai, nó nói lên một cách tích cực hậu quả của trống trơn là siêu việt. Đó là đợt tâm thức sẽ làm cho con người trở nên đại độ quảng khoát, sẽ sống an nhiên như tiên, gọi là giai đoạn “phong lưu” an lạc “homo ludens”, nói bóng là Lạc dân, dân có cuộc sống an vui, có kinh điển tên là “Lạc thư” tức sách đem lại an lạc, nói bóng là xuất từ sông Lạc. Sông đâu? Thưa ở tang trống đó: có nước có thuyền nên cũng gọi được là “thuỷ phủ” nơi Lạc Long Quân đã ban cho thần Tản Viên quyển sách có ba tờ, mà thần dùng hai tờ mộc và hỏa. Tất cả ý nghĩa xoắn xuýt với nhau là thế. Vì vậy nếu phải gọi tên bài vũ trên mặt trống thì đó sẽ là “nghê thường vũ y khúc” cũng gọi là “Động định hồ” để nhắc đến nơi phát xuất. Đó là cái nôi của Việt tộc. Còn “hàm trì” chỉ là tên khác đặt cho Động đình hồ hoặc giải nghĩa như Trang Tử là bài ca vũ trên bờ Động đình hồ thì cũng vậy. Tất cả đều nói lên chủ quyền bài hát của chủ nhân trống đồng(*).

7. Ngô Đạo dĩ trống quán chi

Thế là ta có quyền nói chỉ một chữ Trống đủ gói gọn được nền văn hóa Việt: từ kinh tế, chính trị, xã hội cho tới nghệ thuật, từ lớn tới nhỏ đều tóm thâu được cách quán triệt đến độ người Việt có thể nói “ngô đạo dĩ trống quán chi” (**) vì chữ Trống giải nghĩa được hết mọi hiện tượng tự siêu hình đến đời sống thường nhật, cả đến nghệ thuật, không gì không do chữ Trống chỉ huy và sự chỉ huy đó đưa đến hạnh phúc. Quả là Mỹ thuật siêu phàm.

(*) Trang Tử nói theo lưu truyền rằng bài Động Đình hồ là của Hoàng Đế. Điều ấy sai tỏ tường, câu ấy chứng tỏ một sự chiếm đoạt hớ hênh và chưa ý thức được tiến trình lịch sử Hoàng Đế đã sang qua được sông Hoàng Hà đâu mà đến được bờ hồ Động Đình. Trái lại câu sách Kinh Lễ (chuơng nhạc ký, tiết 2, câu 3) thì nên ghi nhận, sách rằng: “Đại chương chương chi dã. Hàm trì bị hĩ. Thiều kế dã. Hạ đại dã”. Nghĩa là bài hát Đại chương ca ngợi (đức vua Nghiêu) bài Hàm trì tổng hợp mọi nhân đức (y như cái trống để chỉ đức trung ương vậy). Bài Cửu Thiều (của vua Thuấn) nối tiếp bài Hàm trì. Bài Hạ (của Hạ Vũ) thì làm cho rộng thêm ra.

(**) Theo Khổng Tử “ngô đạo dĩ nhất quán chi”: đạo tôi chỉ dùng một mà sâu được hết. Với Nho chữ một đó là chi thì vẫn còn bàn cãi chưa ra. Còn với Việt thì đó là chữ Trống.

Vì giá trị trung thực của mỹ thuật phải là làm cho con người được hạnh phúc, và lẽ ra con người phải dốc toàn lực vào việc tìm hạnh phúc, vì đây là cứu cánh con người. Không may con người lại lơ là đi hướng chú ý vào những cái xa lạ mãi đâu đâu để làm hại cuộc truy tìm hạnh phúc của mình. Đó là vì đã mất ý thức của chữ Trống do bái vật và ý hệ xúi dại, nên mới đi đến chỗ vong thân, bị chúng dẫn dắt vào những ngõ cụt làm bằng đủ loại duy: duy vật, duy tậm, duy hình, duy lý, duy tư bản, duy cộng sản… Tất cả mọi duy, bất cứ duy nào đều làm hại con người vì bản chất người không là duy nhưng là lưỡng thê nên lối sống phải là lưỡng hợp. Hạnh phúc sẽ không tìm thấy ở hai đầu cùng cực duy, nhưng ở đâu đấy giữa 2 nét song trùng: giữa có mà không, không mà lại có.

Quả là bước lưỡng hành vi diệu.

Đó là thứ triết lý hàm hồ, mà cư dân chủ nhân trống đồng đã có lúc đạt được, ngày sau con cháu kêu là “chân không diệu hữu”. Chân không là thứ “không” chân thực được biểu thị cách huy hoàng bằng cái Trống: tâm có trống thiên địa mới giao thoa nơi mình, có giao thoa (giao chỉ) mới đạt “diệu hữu”. Diệu hữu ở đây không cần hiểu kiểu siêu hình như “thái hư” nhà Phật, hay “chí hư cực” của Lão, mà hiểu cách rất cụ thể là có một cuộc sống an vui hòa hợp tràn đầy ca vũ, sau này hiện thực bằng các tết nhất long trọng, hội hè đình đám, biểu dương những nét phong lưu sẽ là cùng đích cho con người mai hậu.
(H.51: Phong lưu siêu thoát)

Đấy quả là trường hợp chân không nhưng lại diệu hữu có thể kiểm soát được. Chân không biểu thị bằng Trống. Còn diệu hữu biểu thị bằng những thói lành gây nên cuộc sống an vui đầy hạnh phúc giáp giới giai đoạn chót của loài người sẽ đi tới gọi là “homo ludens” làm ít chơi nhiều, nhở nhơ như chim, cả ngày vui tươi ca hát. Thảo nào mẹ Au đã đẻ con theo “điểu tục” để các con sống được kiếp người cao nhất.

Kết luận: ngày nào con người giác ngộ thì sẽ tìm về hạnh phúc, hay nói đúng hơn hạnh phúc ai cũng đã tìm, nhưng đường lối dẫn tới phải là cái đường rầy làm bằng 2 nét song trùng lưỡng hợp. Còn bánh lái phải trao vào tay con người nhân chủ được biểu thị bằng ba hồi trống thu không do Lạc Long Quân đã khua vang lừng để khai mạc cuộc dựng Văn Lang quốc. Đến nay mỗi lần ai muốn cất bước lên đường tìm hạnh phúc cũng phải khua ba hồi trống như vậy để xua cho sạch bóng nguyệt là bái vật và ý hệ, mới trông đạt được “Diệu Hữu” Thường Hằng chỉ xảy đến sau cái không chân thực tức cái Tâm trống rỗng.

Sứ điệp trống đồng nằm trong đó:

TRỐNG VIỆT THƯỜNG LUNG LAY BÓNG NGUYỆT
SUỐI CAM TUYỀN TUỆ VIỆT THỨC MƠ. (*)

 (*) Trống Việt Thường đánh lên mà đúng điệu sẽ làm lung lay mọi nền triết học xây trên ý niệm như Kant, Hegel… người ta nói về bản thể bên dưới trăng của triết lý Aristotle (le monde sublunaire des substances Aristotle).

Suối cam tuyền làm nghĩ đến giếng Việt (Việt tỉnh cương) có sức nuôi dưỡng bất tận “dưỡng chi bất cùng”. Tuệ là sự hiểu biết siêu việt mà dạng tự là cái chổi và chữ tâm gợi hình ảnh quét cho sạch tâm hồn để nó được trống trơn, thì sẽ nhận được nước cam tuyền trào lên, cả lúc thức của người tiểu ngã, lẫn lúc ngũ thuộc đại ngã tâm linh.

Chương sau sẽ xem chữ Trống được áp dụng cụ thể ra sao thành vòng đồng tâm, nhất là vào Tứ linh.


Lm.  Kim Định

(Trích trong tác phẩm "Sứ điệp trống đồng")
Nguồn: http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=69&ict=692

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét