Các Trang

Thứ Hai, 23 tháng 12, 2013

MỪNG CHÚA GIÁNG SINH



GIAO DUYÊN CHÂN THÀNH KÍNH CHÚC
QUÝ THÂN HỮU VÀ GIA QUYẾN
MỘT MÙA GIÁNG SINH 2013
VUI TƯƠI BÌNH AN
VÀ MỘT NĂM 2014
AN KHANG HẠNH PHÚC

Thứ Hai, 12 tháng 8, 2013

Tiếng Việt đang mất dần chỗ đứng ngay trên quê hương mình

Chủ nhật, 11/8/2013 20:55 GMT+7

Tại sao chúng ta không viết là xe buýt và lại phải là xe bus? Còn rất nhiều từ như: confirm, cancel, delay… đề có từ dịch sang tiếng Việt. Nếu tình trạng này kéo dài thì một số từ tiếng Việt sẽ biến mất trong tương lai.

Tôi đã nhiều lần chứng kiến chỉ dẫn: “Làn ưu tiên xe bus; nơi đậu xe bus” trên đường phố. Nếu không nhắc chắc nhiều người không nhớ rằng trong tiếng Việt có từ buýt. Dù là từ vay mượn, nhưng đã được Việt hóa và đưa vào tự điển tiếng Việt, cớ gì phải dùng từ bus?

Còn rất nhiều từ tiếng anh cũng thường xuyên được trao đổi trong công việc, cuộc sống hàng ngày rất phổ biến như: confirm, cancel, delay, data, phone, check, training, leader, book… Nếu không có biện pháp kịp thời thì tiếng Việt sẽ biến mất trong một ngày không xa. Bởi tiếng nước ngoài (phổ biến là tiếng Anh) đang được pha trộn một cách rất tùy tiện vào tiếng Việt khi sử dụng.

Không dừng lại ở đó, hiện nay trên các phương tiện truyền thông đang lạm dụng rất nhiều các từ như: scandal, café, poster… trong khi những chữ này hoàn toàn có từ tiếng Việt tương ứng.

Còn rất nhiều những trường hợp quá lạm dụng ngoại ngữ mà vô tình quên đi tiếng Việt. Chính chúng ta đang làm mất dần chỗ đứng của tiếng Việt ngay trên nơi sinh ra nó.

Sử dụng đúng tiếng Việt là không dễ, ngay cả những người sử dụng tiếng Việt hàng ngày. Tuy nhiên, sử dụng tiếng Việt một cách trong sáng như lời kêu gọi "Hãy giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt" là không quá khó.
Chúng ta không thể đổ lỗi cho hội nhập, cho văn hóa phương Tây. Lỗi là ở chính những người đang sử dụng tiếng Việt hàng ngày, đó là chính chúng ta. Chúng ta đã không cùng nhau gìn giữ ngôn ngữ riêng, một vốn quý mà không phải dân tộc nào cũng có.

Dương Quang Hiệp

Thứ Bảy, 10 tháng 8, 2013

'Còn nhiều nghệ nhân sống vất vưởng như bà Hà Thị Cầu'

10/08/2013 06:00 GMT+7
"Tôi biết, tôi có quen với bà Cầu nhiều lắm. Không phải chỉ có một mình bà Hà Thị Cầu, còn cả hai ba chục, có khi cả trăm nghệ nhân đang sống vất vơ vất vưởng không ai biết. Trong các bộ môn đều vậy đó" - GS Trần Văn Khê nói. 
Lang thang trên mạng, người mê nhạc dễ dàng tìm thấy những clip ca nhạc, những bài viết của giáo sư Trần Văn Khê. Ông say mê âm nhạc Việt đến độ nồng nàn máu thịt. Khi thì ông tự hát một điệu dân ca Nam Bộ, khi thì ông ngẫu hứng với Nguyên Lê - bậc thầy Jazz/world music gốc Việt, dùng chất liệu âm nhạc Việt... Nơi nào ông có mặt là có âm nhạc Việt Nam; nơi nào có âm nhạc Việt Nam - nơi đó ông sẽ đến. 
93 tuổi, giáo sư Trần Văn Khê tự đọc hết gần 1000 trang hồi kí của mình để xuất bản được tập audiobook - sách nói, bên cạnh việc tái bản có bổ sung 2 tập Hồi kí Trần Văn Khê. Không còn nghe tinh như thuở nào, nhưng giọng đọc ông thì sang sảng, vang, đầy nội lực, chất chứa cả xúc động, đau đớn khi nhắc về cái chết của người mẹ năm nào.

Giáo sư dành cho VietNamNet một cuộc trò chuyện.
Trần Văn Khê, Hà Thị Cầu, nghệ nhân, âm nhạc dân tộc, âm nhạc Việt Nam, Hồi kí Trần Văn Khê, Căn bệnh mãn tính của âm nhạc truyền thống Việt Nam
GS Trần Văn Khê và nhạc sĩ Phạm Duy khi còn sống.

"Còn nhiều nghệ nhân như bà Hà Thị Cầu"

Đến giờ này khi vừa qua sinh nhật tuổi 92, giọng giáo sư vẫn rất khỏe, đẹp và vang. Làm sao để có thể có một nội lực như vậy?

- Thứ nhất muốn có nội lực đó phải có một tinh thần lạc quan, lúc nào cũng nghĩ mình phải thắng mình, mình phải thắng tuổi già. Thứ hai là phải luyện tập. Thuở nhỏ tôi luyện Thiếu Lâm, võ Bình Định, tập thở khí công. Mấy năm nay vẫn còn tập thở khí công. Khi tôi nói chuyện là hơi từ đan điền đẩy lên mà nói, chứ không phải phát ra từ lồng ngực. 

Đã bôn ba rất nhiều nước, vì sao âm nhạc Việt Nam cứ mãi theo ông, đau đáu trong 55 năm trời ở xứ người như vậy?

- Tôi sinh ra trong một gia đình có 4 đời là nhạc sĩ. Từ ông cố, ông nội, cha, đến đời tôi đều là nhạc sĩ hết. Lớn lên, tôi biết nói là biết hát, biết chơi là biết đờn. Trong lúc khó khăn của cuộc đời, âm nhạc dân tộc đã cứu tôi sống được, cho tôi danh dự. Tôi đi thi và lấy được giải thưởng đầu tiên năm 1949 ở Budapest (Giải thưởng nhạc cụ dân tộc tại Liên hoan Thanh niên Budapest).

Từ trong gia đình, truyền thống dân tộc đã góp lại, tích lũy lại trong tôi bao nhiêu, để từ đó mà nhân lên, thấy được những cái hay, cái tốt, cái sâu sắc của đất nước đưa lại cho quốc tế. Nên với tôi, âm nhạc là mật thiết, liên quan như máu với thịt, như xác với hồn. 

Sinh ra ở mảnh đất Phương Nam, ông rất gắn bó với âm nhạc Nam Bộ, thế còn âm nhạc Bắc và Trung Bộ thì sao? 

- Đối với tôi, phương Nam chỉ là một góc trời của đất nước Việt Nam. Đất nước Việt Nam có cả miền Trung, miền Bắc. Với tôi, âm nhạc Việt Nam không phải chỉ là âm nhạc miền Nam, miền Trung hay miền Bắc, mà ở khắp cả đất nước - nơi chỗ nào cũng là người Việt. 

Từ năm 1976 đến năm 1986, trong 10 năm, cùng với Lưu Hữu Phước tôi đi khắp các vùng trên đất nước, để gặp gỡ, ghi chép lại tất cả những nét đặc thù, những điều đã nghe, đã thấy. 

Mỗi một vùng có một nét đặc biệt, tùy theo ngôn ngữ, theo phong tục truyền thống, nếp sống của họ. Thành ra mình phải giữ lấy cái nét đặc thù đó chứ đừng để mất vì mải nhìn ra những thứ khác. Một vườn âm nhạc phải đầy hoa thơm cỏ lạ, thứ này thứ kia phải khác nhau, chứ cùng một thứ hoa thì sao có được sự phong phú. Ta cứ giữ được nét nhạc như thế là một cái tốt. 

Giữ bằng cách nào thưa ông? Bằng ghi âm hay sách ghi chép, giải thích?

- Không. Giữ bằng âm thanh hay ghi chép mà bỏ trong bảo tàng, viện, chỉ là một cách để bảo vệ. Mà đó là bảo vệ tiêu cực. Bảo vệ tích cực là bảo vệ trong lòng người, tức là phải làm cho người nghệ nhân sống được với âm nhạc, người thương âm nhạc sống được với âm nhạc. Âm nhạc có một chức năng trong xã hội chứ không phải là một món đồ để ghi âm, để tàng trữ, coi như một món đồ cổ chịu sự tàn phá của thời gian, là bụi của thời gian. 

Trần Văn Khê, Hà Thị Cầu, nghệ nhân, âm nhạc dân tộc, âm nhạc Việt Nam, Hồi kí Trần Văn Khê, Căn bệnh mãn tính của âm nhạc truyền thống Việt Nam
 GS Trần Văn Khê "Tôi biết và có quen với bà Cầu nhiều lắm." 

Đầu năm nay khi nghệ nhân xẩm Hà Thị Cầu mất, mọi người mới biết bà sống rất cực khổ, nghèo túng, thưa giáo sư. 

-  Tôi biết, tôi có quen với bà Cầu nhiều lắm. Chuyện đó không phải chỉ có một mình bà Hà Thị Cầu, còn cả hai ba chục, có khi cả trăm nghệ nhân đang sống vất vơ vất vưởng không ai biết. Trong các bộ môn đều vậy đó.

Đất nước Việt Nam không may gặp thời kì đô hộ Pháp, sau đó là thời kì chiến tranh, sau chiến tranh lại lo sống có cơm ăn cái mặc, lo chuyện kinh tế. Nó chèn lấp cả cái văn hóa. 

Để giải quyết chuyện đó như thế nào? Bây giờ con phải lên mạng coi lại, kiếm bài "Căn bệnh mãn tính của âm nhạc truyền thống Việt Nam" trên Google. Có hai chục nơi người ta đăng bài đó, nói dài tới ba chục chương về việc tại sao âm nhạc Việt Nam bị bỏ rơi? làm sao để âm nhạc Việt Nam trở lại? 

"Con người đi qua cuộc đời để lại kinh nghiệm sống"

Những nước phương Đông khác như Nhật Bản hay Trung Quốc họ đưa âm nhạc dân tộc hay nghệ thuật truyền thống như kịch Nô, kinh kịch lên màn ảnh, vào các tác phẩm điện ảnh, cho nó giao lưu, kết nối với các loại hình nghệ thuật khác, phổ biến nó, nên thế giới biết đến âm nhạc của họ. Ta có nên làm thế?

- Tôi có nghiên cứu mấy cái đó. Cái cách họ phổ biến như vậy mình phải học hỏi, thanh niên phải kiếm người biết để học hỏi, chính quyền phải đem âm nhạc vào học đường... Mỗi một nước có cái đặc biệt, khác nhau. Và âm nhạc, nghệ thuật của ta hay không thua nước nào trên thế giới. 

Trần Văn Khê, Hà Thị Cầu, nghệ nhân, âm nhạc dân tộc, âm nhạc Việt Nam, Hồi kí Trần Văn Khê, Căn bệnh mãn tính của âm nhạc truyền thống Việt Nam
GS Trần Văn Khê bên tập hồi kí "Người truyền lửa" 

Giáo sư đã đi qua nhiều năm tháng hơn những người khác. Xin phép hỏi giáo sư, một người đi qua những năm tháng của cuộc đời, anh ta để lại cái gì?

- Để lại kinh nghiệm. Tôi để lại tất cả kinh nghiệm của tôi, công sức của tôi viết, hồi kí của tôi, những bài viết trên mạng bằng tiếng Việt, bằng tiếng Pháp, nói lại những tư tưởng, những nhận xét của mình. 

Và giáo sư đã thu nhận lại điều gì từ cuộc đời? 

- Thu nhận được những đặc điểm, đặc thù, những cái hay, những điều sâu sắc, những cái tế nhị, những cái mà người ta không ai biết tới. 

Xin cảm ơn giáo sư Trần Văn Khê!

Hồ Hương Giang

Thứ Sáu, 9 tháng 8, 2013

Giải mã bản khoán ước cổ nhất miền Trung

Ngày đăng : 14:56 07/08/2013 (GMT+7)

Hết chìm trong biển lũ, lại bị mưa bom bão đạn cày xới, thế nhưng trên mảnh đất Phú Kinh đã và đang lưu giữ một báu vật có một không hai.
Bản Khoán ước cổ nhất này, là chứng tích cho một giai đoạn lịch sử đã qua của dân tộc. Từng được coi là kim chỉ nam cho người dân Phú Kinh, biết sống với những lệ làng và duy trì, gìn giữ nó.
Bảo vật biết “tránh” mưa bom, bão đạn?!
Tương truyền, những người đầu tiên "cắm đất lập nhà" - tạo cơ sở cho sự ra đời của làng là dòng họ Trần. Tuy nhiên, nơi đây thời tiết vốn khắc nghiệt, thiên tai quanh năm nên buộc dòng họ Trần này phải rời đi, tìm nơi khác lập nghiệp. Sau đó, các dòng họ Lê, Nguyễn, Cái, Dương, Phạm, Hồ, Hoàng, Mai và hai họ Phan bắt đầu đến đây quy tụ, mở mang đồn điền, dựng xóm lập làng. Và để tưởng nhớ công lao của họ Trần, dân làng đã dựng miếu phụng thờ và suy tôn là họ khai căn của làng.
Các bậc cao niên diễn giải về nội dung bản khoán ước của Làng. 
Qua bao biến động của lịch sử, người dân Phú Kinh vẫn giữ được nét văn hoá làng xã rất đặc trưng của làng quê Việt. Đó là do sự đóng góp không nhỏ của bản Khoán ước - báu vật lịch sử, kim chỉ nam cho người dân Phú Kinh... Các bậc cao niên trong làng kể lại: Bản Khoán ước làng Phú Kinh do tập thể viên chức, hương lão của làng soạn thảo vào thượng tuần tháng 6 năm Giáp Ngọ, niên hiệu Cảnh Hưng, và được khắc bằng chữ Hán trên một tấm gỗ lim dài 2,4m. Khoán ước Phú Kinh được cục Di sản Văn hóa (Bộ Văn hóa thông tin) công nhận là một trong 10 bảo vật quốc gia quý hiếm của tỉnh Quảng Trị. 
Theo ông Lê Đình Huy (nguyên chi hội trưởng Chi hội người cao tuổi làng Phú Kinh) cho biết: "Từ kháng chiến chống Pháp đến trước năm 1986, người làng đã thấy tấm gỗ lim khắc đầy chữ Hán - Nôm, nhưng không ai biết nó ghi chép gì. Tuy nhiên, như có một mối lương duyên đã được định trước thế nên bao thế hệ dân làng đều rỉ tai nhau để ra sức cất giữ nó". Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, bản Khoán ước được đặt ở vị trí trung tâm, trang trọng nhất của miếu khai căn. Trong chiến tranh, tất cả đình chùa miếu mạo trong làng gần như bị cày nát, mạng người giữ đã khó huống hồ một "tấm gỗ vô tri vô giác".
Mãi đến sau giải phóng, khi tìm về lại nơi "chôn rau cắt rốn", người dân Phú Kinh vô tình đào được "tấm gỗ khắc văn tự cổ" ẩn dưới lớp đất đá trên nền ngôi đình cũ. Chừng ấy năm giữa mưa bom bão đạn, mọi thứ đều vỡ vụn, duy chỉ có bản Khoán ước vẫn nằm đó "ung dung", thân hình loang lổ những vết đạn, nhưng từng chữ khắc trên Khoán ước vẫn không hề suy chuyển.
Trước điều kỳ lạ này, người dân Phú Kinh cho là tổ tiên muốn giữ lại bảo vật của làng nên càng quyết tâm bảo vệ bản Khoán ước cẩn thận hơn. Họ xây dựng lại miếu khai căn và để Khoán ước ở đây, vào mùa lũ, họ gác bản Khoán ước lên dàn đòn tay của miếu để tránh nước lũ cuốn đi mất. Dù cẩn thận là thế, nhưng một số năm nước lũ dâng cao quá, bản Khoán ước vẫn bị "dìm" trong biển lũ...
 Bản khoán ước loang lổ vết đạn.
Tâm nguyện của người trông coi “di sản” của tiền nhân
Đọc bản Khoán ước của làng Phú Kinh do các nhà nghiên cứu của Khoa Sử (Đại học Khoa học Huế) dịch thuật, những người dân trong làng không khỏi ngạc nhiên và tự hào: "Chúng tôi không dám tin, ở cái vùng lầy, nước độc như Phú Kinh, lại có những con người rất thông minh, học cao hiểu rộng đến như thế. Thật không thể coi thường quy định mà ở thời đó người ta vẫn coi là "lệ làng". Bởi nó vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay" - ông Huy chia sẻ. Nội dung bản Khoán ước bao gồm nhiều điều khoản, đề cập đến nhiều mặt đời sống của làng quê Phú Kinh thuở đó.
Sửng sốt những “quy định pháp luật” của người xưa
Bản Khoán ước đề cập đến hai nội dung quan trọng nhất, một là: Phân chia một phần ruộng đất công dưới hình thức "vĩnh nghiệp" nhằm mục đích khuyến nông và đảm bảo đời sống cho mọi người dân trong làng, đặc biệt là chú trọng đến các đối tượng "mẹ goá con côi" hay "già cả, tật nguyền". Qua đó tạo ra sự dân chủ đồng thời quy định nghĩa vụ và trách nhiệm của người dân trong việc xây dựng, giữ gìn làng xóm. Hai là, quy định những điều khoản để giáo dục cộng đồng: Khuyên người dân không được buôn gian bán lận hay theo đòi những kẻ chuyên tụ tập cờ bạc, rượu chè say sưa, lãng quên việc học hỏi để nâng cao nghề nghiệp căn bản của mình và mang lại tiếng xấu cho làng. Trong mối quan hệ ứng xử xã hội phải luôn biết đoàn kết, thuận hoà, kính trên nhường dưới, biết giữ thân mình trong sạch, không làm những điều chỉ có lợi nhưng lại hại đến người.
Khoán ước làng Phú Kinh là một "báu vật" của làng, là sản phẩm tinh thần thể hiện đầy đủ nhất một thực tế là đời sống làng quê Phú Kinh lúc đó đã khá phát triển về cả đời sống vật chất lẫn tinh thần. Trong suốt thời gian biến động, thăng trầm của lịch sử, làng Phú Kinh vẫn nề nếp và duy trì được những phong tục tập quán vốn có, vừa theo đúng khuôn mẫu, tư tưởng của chỉnh thể đương thời đó là nhờ bản Khoán ước. Sự ra đời của bản Khoán ước như một bản "cương lĩnh" để dân làng theo đó "tu thân, tề gia".
Chúng tôi tìm đến nhà ông Nguyễn Hữu Yêm (75 tuổi), là người được dân làng Phú Kinh tín nhiệm giao trọng trách giữ bản Khoán ước. "Tôi giữ Khoán ước của làng kiêm miếu khai căn được 15 năm rồi, nhiệm vụ của tôi là lau chùi, quét dọn và ngày rằm, ba mươi, mồng một đến thắp hương".
Khi được hỏi về sự quan tâm của xã, huyện thì ông chia sẻ: "Khi nào có báo, đài hay tỉnh về thăm thì mới thấy họ xuống, còn lại thì nó vẫn nằm im ỉm ở đó thôi". Hơn 15 năm làm công việc thầm lặng, không lương bổng, trợ cấp, nhưng ông Yêm vẫn vui vẻ khi được hỏi về công việc này: "Đây là báu vật của làng, được dân làng tin tưởng, giao trách nhiệm này tôi cảm thấy tự hào lắm, đến khi nào không còn sức lực nữa thì tôi mới thôi công việc này".
Và không riêng gì ông Yêm, ý thức đối với việc giữ gìn bản Khoán ước tồn tại trong mỗi người dân Phú Kinh. Cách đây hơn 10 năm, Bảo tàng Quảng Trị đã từng xuống tận làng "thương lượng" với mục đích có cho được món báu vật này. Họ đưa ra "cái giá" là xây cho làng một trường mẫu giáo hai tầng - một cái giá vô cùng lớn trong thời điểm đó đối với một ngôi làng nghèo. Tuy nhiên, cuộc "thương lượng" đã không thành công. Dân làng Phú Kinh đã cùng nhau họp lại bàn bạc và đi tới quyết định: Nhất quyết phải giữ lại bản Khoán ước. Từ đó đến nay, dân làng dựng bản Khoán ước lên, nhưng chôn sâu dưới nền đất 20cm, để tránh bị bọn săn cổ vật trộm mất.
Kỳ công “giải mật” bản Khoán ước
Đến năm 1986, trong một đợt khảo sát điền dã của đoàn Khoa Sử, 
đại học Tổng hợp Huế (nay là trường đại học Khoa học Huế), các
 nhà nghiên cứu mới phát hiện và tiến hành dịch thuật bản Khoán ước. 
Nhưng năm lần bảy lượt các nhà nghiên cứu về làng tiến hành dịch 
đều không thành do bản Khoán ước phức hợp cả chữ Hán lẫn 
chữ Nôm. Phải đến khi nhóm điền dã sao chụp nội dung văn tự 
trên bản Khoán ước đưa vào Huế, để có thời gian nghiên cứu thêm 
thì bí mật trên Khoán ước mới được hé lộ. Đúng như những gì người 
dân Phú Kinh tiên đoán, nội dung bản Khoán ước gần như là một 
cuốn "biên niên sử" của làng.
Theo Người Đưa Tin

Thứ Ba, 6 tháng 8, 2013

Cận cảnh tuyệt chiêu “cơm muối Huế”

Chủ Nhật, 01/05/2011

Lần đầu tiên tại Festival nghề 2011, món cơm muối Huế đặc sắc gần như thất truyền từ lâu đã xuất hiện trở lại với sự kỳ công của đầu bếp, nghệ nhân Huế.

Người "thổi hồn" để tái sinh lại món cơm muối Huế tại gian hàng cùng tên trong không gian ẩm thực Huế là cô giáo, Viện sĩ danh dự Viện Hàn lâm ẩm thực Pháp - Hoàng Thị Như Huy với vai trò cố vấn, đầu bếp Đặng Văn Sơn, ca trưởng bếp KS Festival (TP Huế) cùng những phụ bếp và phục vụ thuộc trường CĐ Nghề Du lịch Huế và trường Âu Lạc.

Đầu bếp Đặng Văn Sơn với mâm cơm muối Huế
Rất cầu kỳ, một thực đơn 200.000đ cho một người ăn gồm 5 món hoàn toàn đều được ăn với muối. Thứ nhất là tôm rang muối ăn với muối ớt xanh. Thứ hai là cháo ngũ sắc được làm từ 5 loại ngũ cốc thiên nhiên là: đậu đỏ, đậu đen, kê, gạo trắng và gạo tím (món này được ăn kèm với muối trắng được ủ trong ché 10 năm). Thứ ba là món xôi 3 màu Phượng Hoàng ăn với muối mè vàng. Thành phần xôi gồm xôi trái gấc, xôi khoai tía, xôi lá dứa - mỗi miếng xôi là hình một chiếc lông chim Phượng Hoàng giữa có nhân đậu xanh vàng.
Thứ tư là món chính: cơm trắng ăn với một lúc 9 loại muối như: muối tiêu, muối cá thu, muối tôm, muối mè, muối ruốc bò.... và món cuối tráng miệng gồm bưởi da xanh, dưa hấu, xoài được chấm với muối mơ làm từ muối và trái mơ từ Hà Nội.
Khách cùng lúc với dùng cơm muối phải uống thêm nước chè gừng mát để làm dịu đi vị mặn của muối.
Theo bà Huy, nguồn gốc của bữa cơm muối xuất phát từ Huế. Ăn cơm muối không phải là người hèn ăn mà xuất phát từ những gia đình danh gia vọng tộc. Nhà giàu hay ăn sơn hào hải vị, có lúc họ bị cơ hàn, kinh tế không đầy đủ mà trúng lúc bạn đến chơi nhà, người chồng bèn bảo vợ có món gì ăn vẫn sang mà phải rẻ nhưng phải làm được thật nhiều món ăn để bữa ăn phong phú.
 
Người vợ Huế vốn giỏi nấu ăn bèn nghĩ ra muối là thứ gia vị thiết yếu nhất, nếu kết hợp được với các loại ngũ cốc, rau dưa và một ít cá thịt, hải sản là có thể làm ra được rất nhiều món ăn mà không tốn tiền là bao. Từ đó, cơm muối Huế ra đời với hàng chục món ăn từ muối hấp dẫn.
 
Cô Hoàng Thị Như Huy (áo dài đỏ) giới thiệu đến du khách bữa cơm muối Huế
 
Theo đầu bếp Sơn, món cơm muối ăn mùa hè khác với mùa đông khi người nấu phải chọn những món nào mang tính hàn (mát) để phù hợp với cái nóng. Như các món muối cá thu, muối tôm, muối mơ rất dễ ăn bắt buộc phải có trong thực đơn đãi khách.
 
“Để nấu được cơm muối, phải kỳ công khoảng 3 ngày với sự trợ giúp 5 bếp phụ, hay 5 ngày nếu như một đầu bếp nấu, nhanh lắm cũng chỉ hơn 2 ngày. Vì vậy khi khách đặt ăn cơm muối thì phải báo trước nếu không phải chờ” - anh Sơn chia sẻ.
Hiện tại, bà Huy đã làm được tổng cộng 27 món ăn từ muối. Bà Huy tiết lộ “muối nếu để lâu sẽ là 1 vị thuốc, có tác dụng bồi bổ sức khỏe khi nấu ăn. Toàn bộ loại muối tôi nấu đều là muối loại 1 từ Phan Rang. Trong đợt Festival này, tôi có mong muốn là đem lại cho du khách những nét đặc trưng nhất về món ăn độc đáo này và cũng để gìn giữ, bảo lưu món cơm muối Huế không bị mất đi trong kho tàng ẩm thực xứ Huế”.
Được biết, hiện ở Huế chỉ còn dưới 5 nghệ nhân có thể nấu được món cơm muối này.
Rất thú vị, 5 món ăn từ muối của bà Huy bày cho khách cũng được bà thi vị hóa bằng thơ ca như sau:     
 
                “Rồng con ngậm muối biển khơi
                        Sum vầy chén ngọc rạng ngời lúa ơi!
Phượng hoàng tung cánh thảnh thơi
Cơm lành cửu vị mặn mòi chân quê
Quà thơm cuối buổi tiễn chào
Ngọt cay chua mặn đậm tình tri ân”
Dưới đây là cận cảnh những món ăn từ muối của bữa “Cơm muối Huế”:
Món tôm rang muối chấm với muối ớt tươi
Cháo ngũ sắc ăn với muối trắng ủ 10 năm
Xôi 3 màu ăn với muối mè vàng 
Một mâm cơm muối với cơm trắng và 9 món muối
Muối cá thu
Muối đậu với thịt
Muối mè đậu
Muối đậu khuôn
Muối ruốc bò
Trái cây ăn với muối mơ
Phải uống với chè xanh ngâm gừng mát mới hạ được khát khi ăn cơm muối
Du khách thích thú khi ăn cơm muối Huế
Đại Dương

Thứ Tư, 31 tháng 7, 2013

Bà hoàng châu Âu đầu tiên của Việt Nam là ai?

Ngày đăng : 17:24 25/07/2013 (GMT+7)
Những ngày ở Thăng Long bà buồn rầu vì lần đầu tiên sống ở Kinh thành với hầu hết những người không biết tiếng...
Trong lịch sử Việt Nam, hiếm có vị vua nào lên ngôi vua hai lần và có đến bốn bà vợ là người ngoại quốc như vua Lê Thần Tông. Đặc biệt trong đó có một bà vợ là người Hà Lan, đây cũng chính là bà hoàng đầu tiên và duy nhất trong các triều đại phong kiến Việt Nam là người châu Âu.
4 bà vợ ngoại quốc
Vua Lê Thần Tông tên húy là Duy Kỳ. Theo nhà nghiên cứu sử học Lê Xuân Kỳ, Phó Chủ tịch Hội sử học Thanh Hóa, bà vợ đầu tiên của Vua Lê Thần Tông là bà Đoan Thuần Hoàng Thái hậu Phạm Thị Ngọc Hậu (mẹ vua Lê Huyền Tông).
Trong số các bà vợ ngoại quốc, có một bà là con gái của phó toàn quyền Hà Lan sang Việt Nam vào năm 1630, bà được gặp Lê Thần Tông ở kinh thành Thăng Long. Nghe theo lời cha, bà nhận lời ở lại Việt Nam làm Vương phi của vua Lê Thần Tông. Những ngày ở Thăng Long bà buồn rầu vì lần đầu tiên sống ở Kinh thành với hầu hết những người không biết tiếng, bà đã cố gắng học tiếng để có thể giao tiếp với mọi người. Bà là người châu Âu đầu tiên lấy một vị vua An Nam. Ba vợ nữa, một bà người Trung Quốc, một vợ người Chiêm Thành và một bà người Inđônêxia.
Vua Lê Huyền Tông (trị vì từ 1662 - 1671) vào cuối đời năm Cảnh Trị thứ 9 (1671) đã cho xây ở núi Mật Sơn ngôi chùa Đại Bi để thờ vua cha Lê Thần Tông, Hoàng hậu cùng các phi tần của ngài. Quần thể tượng vua, Lê Thần Tông và các hoàng phi là những tác phẩm điêu khắc cổ quý giá, thể hiện nghệ thuật điêu khắc tượng chân dung của thế kỷ XVII. Ngôi chùa tọa lạc ngay dưới chân núi Kỳ Lân, thuộc phường Đông Vệ thành phố Thanh Hóa.
Vào khoảng những năm 20 thế kỷ XX, nhà sử học Charles Robequin có viết cuốn Lê Thanh Hoa, nghiên cứu về lịch sử địa lý, phong tục, ngành nghề, dân cư, đặc sản của Thanh Hóa, trong sách có ghi Vua Lê Thần Tông là người Việt Nam đầu tiên lấy vợ người chân Âu. Vào đầu thế kỷ XVII ở Đàng Ngoài có khá nhiều kiều dân châu Âu đến làm ăn buôn bán, đông nhất là ở kinh thành Thăng Long. Bên cửa sông Tô nối với sông Hồng, trên bến dưới thuyền tấp nập, không chỉ có người Trung Quốc, mà còn nhiều người Hà Lan, Anh, Bồ Đào Nha... đến buôn bán, mở nhiều cửa hàng.
Tượng vua Lê Thần Tông.  
Vị vua nhiều kỷ lục
Vua Lê Thần Tông là con trưởng của vua Kính Tông. Mẹ là Đoan Từ Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trinh (con gái thứ hai của Bình An Vương Trịnh Tùng). Vua sinh giờ Tỵ, ngày 19 tháng 11 năm Đinh Mùi (1607). Năm Kỷ Mùi (1619) ngày 2 tháng 6, vua 12 tuổi lên ngôi vua ở điện Cần Chính. Vua Lê Thần Tông ở ngôi vua 25 năm, đến năm Quý Mùi (1643), vua nhường ngôi cho con trai trưởng là Lê Duy Hựu, mới 13 tuổi (tức là Lê Chân Tông) còn vua lui về ở chùa Khán Sơn.
Sau khi lên ngôi vua, Lê Chân Tông tôn vua cha làm Thái Thượng Hoàng, mẹ làm Hoàng Thái Hậu. Lê Chân Tông làm vua được 6 năm, bị ốm chết, theo đề nghị của chúa Trịnh Tráng (Thanh Đô Vượng), Thượng hoàng Lê Thần Tông lại trở lại ngôi vua lần thứ hai 16 năm đến ngày 22 tháng 9 năm 1662, qua đời truyền ngôi cho con thứ là Lê Duy Vũ (tức Lê Huyền Tông) Lê Thần Tông thọ 56 tuổi.
Vua Lê Thần Tông có bốn con trai, sáu con gái và hai con nuôi. Một điều đặc biệt là cả bốn con trai này đều liên tiếp làm vua.
Vua Lê Thần Tông mất, táng tại Ngọc Long, xã Quần Lai, huyện Dương Lôi (nay là huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa). Trong quá trình trị vì của Vua Lê Thần Tông, có được mối quan hệ rất tốt với các chúa Trịnh. Bản thân ông là cháu ngoại của chúa Trịnh Tùng. Trong số 6 cô con gái của ông đều được gả cho các con cháu của Chúa Trịnh. Quan hệ giữa Vua - Chúa ổn định đã góp phần làm cho thời kỳ này tương đối ổn định, thái bình, thịnh trị. Sử gia Phan Huy Chú miêu tả: "Vua mũi cao, mắt rồng có vẻ khác người, sáng suốt học rộng, thường thích văn thơ, cùng với nhà Chúa một nhà hòa vui êm ấm, vua ung dung rũ áo chắp tay hưởng lộc lâu dài".
Cho đến nay, trong suốt chiều dài lịch sử đất nước, không có vị vua nào có những kỷ lục đặc biệt như vua Lê Thần Tông.
Trần Hồng Đức

Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2013

700 bằng đại học sai lỗi chính tả


Hiệu trưởng ĐH Khoa học (ĐH Thái Nguyên) đã xin lỗi sinh viên khi để 700 bản sao bằng tốt nghiệp sai lỗi chính tả và 400 bằng tốt nghiệp bản chính thiếu tem chống hàng giả của Bộ GD-ĐT.

Trước đợt thi ĐH đợt 1, Trường ĐH Khoa học làm lễ và trao bằng tốt nghiệp cho hơn 700 sinh viên khóa 7. Tuy nhiên, bản chính bằng tốt nghiệp lại không có tem chống hàng giả của Bộ GD-ĐT. 

Trong khi đó, bản sao lại mắc lỗi chính tả ở phần chức danh: "KT Hệu trưởng...". Những lỗi này khiến nhiều sinh viên gặp khó khăn khi xin việc do lo ngại ứng viên dùng bằng giả.



Bản sao bằng tốt nghiệp của hơn 700 sinh viên vừa tốt nghiệp Trường ĐH Khoa học (ĐH Thái Nguyên) mắc lỗi chính tả 


Sáng 18/7, trao đổi với phóng viên, Hiệu trưởng Trường ĐH Khoa học Nông Quốc Chinh thừa nhận có những sai sót trên.

“Việc bản sao tốt nghiệp cấp cho sinh viên do Phòng Công tác Học sinh – sinh viên tự làm. Do nhiều sinh viên có yêu cầu nên họ làm. Bản in lại nhờ bên ngoài làm nhưng để sai sót có lỗi rất quan trọng của bộ phận kiểm tra, phát bằng cho các em” – ông Chinh cho hay.

Nhận thông tin phản ánh của sinh viên, đích thân ông Chinh đã chỉ đạo họp kiểm điểm, quy trách nhiệm những người có liên quan khi để xảy ra sai sót này.

Ông Chinh cho biết: “Trường đã chỉ đạo thu hồi và cấp bản sao lại miễn phí cho tất cả sinh viên. Năm sau chúng tôi sẽ không giao Phòng Công tác học sinh - sinh viên in bản sao bằng tốt nghiệp nữa, mà sẽ giao bộ phận khác”. 

Năm tới, việc in bản sao bằng theo Hiệu trưởng Chinh cũng sẽ không thực hiện nữa. “Nếu sinh viên cần sẽ lấy bản chính photocopy ra và đóng dấu vào là được”.

Còn bằng tốt nghiệp chưa dán tem chống giả của bộ là do "phát bằng xong sinh viên về hết nên chưa dán kịp". 

Hơn 300 trong hơn 700 bằng tốt nghiệp chính thức cấp cho sinh viên, theo ông Chinh đã được dán tem khi cấp.

Ông Chinh lí giải: “ĐH Thái Nguyên là đại học vùng nên được phép in phôi bằng và tổ chức cấp, phát cho sinh viên. Từ năm 2012 về trước mẫu bằng không có tem. Mẫu mới của Bộ GD-ĐT được thực hiện từ tháng 1/2013 trở đi. Lứa sinh viên tốt nghiệp vừa rồi cũng là lần đầu tiên thực hiện việc dán tem lên bằng”.

“Hồi tháng 3, lô phôi bằng trường nhận từ ĐH Thái Nguyên không có tem và lô phôi bằng lấy tháng 6 mới có tem. Trước sự việc trên trường có thắc mắc lên ĐH Thái Nguyên để lấy tem bổ sung. Để xảy ra lỗi một phần vì tem bổ sung về muộn, phần có trách nhiệm của nhà trường khi chưa sâu sát chỉ đạo làm nghiêm túc việc dán tem” – lời ông Chinh.

Hiệu trưởng Chinh cho biết: Đến thời điểm 18/7, nhà trường đã tổ chức dán tem cho 200/400 bằng tốt nghiệp chưa được dán tem và ghi bổ sung vào bằng cho các sinh viên. 

Theo Vietnamnet

Thứ Hai, 22 tháng 7, 2013

Tọa đàm về cha Trần Lục. Bài 4: Hội nhập văn hóa


Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê7/18/2013

HỘI NHẬP VĂN HÓA: MỘT CHỌN LỰA CĂN BẢN CỦA CHA PHÊRÔ TRẦN LỤC

Dẫn nhập:
“Phát Diệm”, không chỉ là tên gọi của một vùng dân cư thuộc huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, mà còn, là tên gọi thân thương của một cộng đoàn Công Giáo địa phương: “Giáo xứ Phát Diệm”, đặc biệt, còn được đồng hóa với quần thể kiến trúc “nhà thờ Phát Diệm”, do cha Phêrô Trần Lục xây dựng từ năm 1875 – 1899. 

Nói đến Phát Diệm, là nói đến “nhà thờ lớn” và dĩ nhiên, là phải nói tới Cụ Sáu, Tác giả của công trình kiến trúc độc nhất vô nhị này tại Việt Nam. 

Bộ ba: Phát Diệm, nhà thờ đá, “Cụ Sáu”, đã hòa quyện trong ký ức của người Phát Diệm xưa và nay, tạo thành một dòng chảy “Ân nghĩa” không ngơi nghỉ bồi đắp nên một Phát Diệm: Đẹp về nhân cách, đẹp về địa danh. Thật vậy, “Bộ ba” ấy đã làm nên chất người Phát Diệm thế nào, thì cũng đã thấm nhập vào máu thịt Cụ Sáu như vậy: Phát Diệm và Cụ Sáu đồng hóa với nhau: “Quả thế, tên Phát Diệm và tên linh mục Trần Lục ngay từ ban đầu đã được Thiên định gắn liền với nhau, để rồi sẽ không bao giờ ly tán”, đến nỗi Lyautey, Nguyên Soái và thành viên Hàn Lâm Viện Pháp, đến thăm Phát Diệm, năm 1896, đã viết lại cảm tưởng của mình: “Phát Diệm, tức là Cha Sáu, là một linh mục Việt Nam đã cao niên, một trong những vị anh hùng khiêm tốn, một trong những con người khát khao hoạt động, có khả năng thành công trong bất cứ sự nghiệp nào, bởi vì xuất thân để đóng những vai trò quan trọng, và nếu không gặp vai trò quan trọng, thì chính những cái nhỏ bé của ngài đã là sự nghiệp vĩ đại rồi”. 

Bởi đâu Cụ Sáu trở thành nhân vật thời danh và vĩ đại như thế? Câu trả lời đó là: Cụ Sáu, điểm hẹn hò giữa đức tin và văn hóa Việt Nam. Ngài đã chọn cho mình một lối đặc thù “hội nhập văn hóa” để chu toàn nhiệm vụ “thầy dạy đức tin”. 

Trong “Năm Đức Tin” này, mọi thành phần dân Chúa được mời gọi đào sâu đức tin đã lãnh nhận bằng việc tuyên xưng, cử hành và loan báo. Thật cần thiết và hữu ích tổ chức một buổi tọa đàm về cha Phêrô Trần Lục – Chứng nhân đức tin tại Phát Diệm. Nói rằng cần thiết, vì không thể bỏ qua một gương chứng nhân đức tin, đã bước những bước thật dài, thật vững vàng trong tiến trình hội nhập văn hóa (rao giảng Tin Mừng theo phong cách Việt Nam); nói rằng hữu ích, vì ngài nên tấm gương và thúc đẩy chúng ta tiến xa hơn nữa trong việc hội nhập văn hóa, để cộng đoàn Kitô giáo Việt Nam không còn bị coi là “một đạo” ngoại lai trong não trạng đồng bào của mình. 

Trong bài tham luận: “Hội nhập văn hóa: một chọn lựa căn bản của cha Phêrô Trần Lục”, chúng ta đề cập đến mấy điểm sau Nền tảng thần học của hội nhập văn hóa (I); Cha Phêrô Trần Lục: Điểm hẹn hò của đức tin và văn hóa Việt Nam (II); Cha Phêrô Trần Lục: Công trình hội nhập văn hóa (III); Tiếp bước cha anh trong hành trình hội nhập văn hóa (IV). 

• NỀN TẢNG VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA HỘI NHẬP VĂN HÓA

• Nền tảng thần học của hội nhập văn hóa

Mạc khải là sự Thiên Chúa, trong tình yêu thương chan hòa, thân hành đến gặp gỡ, ngỏ lời với loài người như với bạn hữu, chấp nhận đến sống với họ, để hướng dẫn họ đi vào cuộc sống của chính Ngài. Các động từ: đến gặp, ngỏ lời, sống với họ [...] diễn tả hoạt động nhập thể của Lời Chúa trong lịch sử và trong môi trường văn hóa của con người thời đại, mà đỉnh điểm là Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể. 

Trong hiến chế: “Lời Thiên Chúa” (DV. 4), công đồng Vatican II trình bày một kitô học theo chiều đi xuống (christologie descendante): “Ngài (Chúa Cha) đã sai Con của Ngài là Ngôi Lời vĩnh cửu, Đấng soi sáng mọi người, đến sống giữa loài người và nói cho họ biết những điều kín nhiệm nơi Thiên Chúa”, để nhấn mạnh chiều kích nhập thể của Ngôi Lời. Từ nay, trong Đức Giêsu Nazareth, Thiên Chúa nói bằng ngôn ngữ con người, hoạt động theo phong cách con người. Nên biết, ngôn ngữ và hoạt động nhân sinh tạo ra văn hóa, đồng thời cũng là loại hình sinh hoạt văn hóa để làm cho kho tàng văn hóa ngày càng phong phú thêm. Bởi vậy, khi vào trần gian, Đức Giêsu đã tiếp nhận truyền thống văn hóa tổ tiên và với một thái độ kính trọng, Ngài tận dụng những nét đẹp của truyền thống để loan báo Tin Mừng Chúa Cha theo phong cách của các nhóm thính giả, khiến họ thích thú, thán phục và tin theo; nhưng đồng thời, Ngài cũng chữa trị những thương tích và bất toàn tiềm ẩn trong truyền thống văn hóa ấy: “Các thánh giáo phụ luôn quả quyết rằng, sự gì không được Chúa Kitô tiếp nhận vào Người thì không được chữa lành”. 

Tuy nhiên, Đức Giêsu chẳng hoạt động một cách đơn lẻ, Ngài luôn hoạt động trong Chúa Cha nhờ Thánh Thần. Kinh tin kính, trong phần tuyên xưng về Chúa Con, quả quyết: “... Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, mà Người xuống thai, sinh bởi bà Maria Đồng Trinh, chịu nạn thời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác, xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại, lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng...”. 

Qua những điều tín biểu vừa tuyên xưng, chúng ta kết luận: chính Chúa Thánh Thần đã làm cho Ngôi Lời nhập thể, đã đưa Thiên Chúa đến với loài người và đưa loài người hội nhập vào trong Thiên Chúa. Đức Giêsu, nhờ Thánh Thần, là người “Thứ Nhất” thực hiện việc loan báo Tin Mừng Chúa Cha bằng con đường hội nhập văn hóa một cách sâu rộng và triệt để nhất.

Chúng ta vững tin rằng: Chúa Thánh Thần đã làm cho Ngôi Lời nhập thể thế nào, thì cũng sẽ làm cho Tin Mừng hội nhập vào các nền văn hóa như vậy. Trong Tông Huấn về Giáo Hội tại Á châu, Đức Thánh Cha Gio-an Phaolô II viết: “Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của sự hội nhập văn hóa của đức tin Kitô giáo tại Á châu” và “Thánh Linh tác động trên châu Á vào thời các tổ phụ và các tiên tri, và còn tác động mạnh mẽ hơn trong thời Đức Giêsu Kitô và Giáo Hội sơ khai. Hôm nay, Ngài đang hoạt động giữa các Kitô hữu Á châu, củng cố chứng từ về đức tin của họ giữa các dân tộc, các nền văn hóa và tôn giáo tại lục địa này. Đúng như cuộc đối thoại tình yêu giữa Thiên Chúa và con người được Chúa Thánh Linh chuẩn bị và được hoàn tất trên mảnh đất Á châu trong mầu nhiệm của Đức Kitô. Như thế, cuộc đối thoại giữa Đấng Cứu độ và các dân tộc trên lục địa này hôm nay tiếp tục trong cũng một quyền năng Thánh Linh tác động trong Giáo Hội”.

Với nội dung vừa trình bày, chúng ta có thể tìm đến một định nghĩa cho việc hội nhập văn hóa, để từ đó quy chiếu những nghiên cứu, khám phá, lượng giá cho công trình hội nhập rất tinh tế và phức tạp này.

• Một định nghĩa mô tả

Trong tông huấn “Redemptoris Missio” (Sứ vụ Đấng Cứu Thế), Đức Gio-an Phaolô II diễn tả việc hội nhập văn hóa theo mô hình của Ngôi Lời nhập thể: Giáo Hội làm cho Tin Mừng nhập thể vào các nền văn hóa khác nhau, và đồng thời Giáo Hội dẫn đưa các dân tộc cũng như các nền văn hóa riêng của họ vào trong chính cộng đoàn Giáo Hội.

Hội nghị truyền giáo năm 1979 tại Manila của liên hội đồng các giám mục Á châu (FABC) cũng đã đưa ra một định nghĩa về hội nhập văn hóa tương tự như định nghĩa trong tông huấn “Redemptoris Missio”: “Hội nhập văn hóa không chỉ là thích ứng Kitô giáo có sẵn vào một tình thế nào đó, nhưng đúng hơn là làm cho Ngôi Lời hiện thân một cách sáng tạo trong Giáo Hội địa phương”. 

• Tầm quan trọng của việc hội nhập văn hóa

Tất cả mọi người, cách riêng Dân Chúa tại Việt Nam đều nhận ra cuộc hội nhập văn hóa của đức tin Kitô giáo là sứ vụ đặc thù và cũng là một dấn thân mục vụ đối với Hội Thánh tại Việt Nam.

• Về mặt tích cực

Người Á châu nói chung và người Việt nam chúng ta nói riêng có truyền thống văn hóa riêng, nên cũng muốn diễn tả đặc tính riêng của mình trong cách suy tư, cầu nguyện, cách sống, cách chia sẻ kinh nghiệm Kitô hữu của riêng mình với các anh chị em, vì nếu Kitô hữu không khám ra căn tính của riêng mình, họ sẽ đánh mất tương lai.

Liên hội đồng các giám mục Á châu nhấn mạnh chiều kích đối thoại trong việc hội nhập văn hóa: “đào sâu đối thoại tại Á châu giữa Tin Mừng và văn hóa, để đức tin được hội nhập văn hóa và văn hóa được Phúc Âm hóa”.

Chúng ta xác tín rằng: loan báo Tin Mừng bằng con đường hội nhập văn hóa chính là đang cùng với Chúa Thánh Thần thực hiện một lễ “hiện xuống mới” trong thời hiện tại hôm nay và trên chính quê hương này, để trong ngôn ngữ và gia sản văn hóa đặc thù, họ dâng lời ca tụng những kỳ công của Thiên Chúa.

• Về mặt tiêu cực 

Cùng với các dân tộc Á châu, chúng ta chia sẻ những thách thức và cam go giữa Giáo Hội và vấn đề thuộc địa. Giáo Hội bị coi như thành phần ngoại lai (đạo ngoại quốc...). Giáo Hội tại nhiều nơi còn bị coi là vật cản hay mối đe dọa cho cuộc hội nhập quốc gia và căn tính tôn giáo, văn hóa...

Đàng khác, Giáo Hội vẫn là ngoại quốc trong lối sống, cơ chế tổ chức, lối thờ phượng, trong cách lãnh đạo được đào luyện theo Tây phương và trong thần học của Giáo Hội. Những lễ nghi tôn giáo thường vẫn quy củ, không tự phát, cũng không mang đậm nét Á châu... (FAPA, II, 195-196).

Vấn đề sống còn của Giáo Hội tại Việt Nam, không phải là tự vệ, hộ giáo..., mà phải là việc hội nhập văn hóa, để trong sự hiện diện của mình, mọi người đều nhận thấy có mình ở trong đó “một Giáo Hội nhập thân nơi dân chúng, một Giáo Hội bản xứ và hội nhập văn hóa” (FAPA, I, 14).

Tại Việt Nam, khởi đầu công cuộc truyền giáo, các vị thừa sai đã cố gắng thực hiện công trình hội nhập văn hóa trong nhiều lãnh vực khác nhau và đã đem lại nhiều hiệu quả khả quan. Tại Phát Diệm, linh mục Phêrô Trần Lục là một điển hình. Công trình kiến trúc đồ sộ “quần thể nhà thờ Phát Diệm” được nhìn nhận như một công trình hội nhập văn hóa tại Việt Nam. 

• CHA PHÊRÔ TRẦN LỤC: ĐIỂM HẸN HÒ CỦA ĐỨC TIN VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Qua tác phẩm, người ta biết được khả năng của tác giả. Dường như có một tỷ lệ thuận giữa tác phẩm và tác giả: tác phẩm càng tinh xảo, càng hoàn hảo về phương diện nghệ thuật, thì chủ nhân của nó lại càng tài khéo, tinh thông và khôn ngoan gấp bội. Quần thể nhà thờ Phát Diệm tự minh chứng cách hùng hồn trí thông minh, sự uyên bác về phương diện nhân bản, văn hóa Việt Nam, cũng như kiến thức thần học, kinh thánh, phụng vụ của Cụ Sáu. Cả hai đã được kết tinh nên một cách hài hòa nơi con người đáng kính của Cụ. Ngài là điểm hẹn hò giữa đức tin và văn hóa Việt Nam.

• Cụ Sáu: mẫu mực về nhân bản và văn hóa Việt Nam

Trong phạm vi bài thuyết trình này, chúng ta không đề cập đến thân thế và sự nghiệp của cha Phêrô Trần Lục, mà chỉ chú nhắm đến phương diện nhân bản, văn hóa của ngài xuyên qua bút tích (Ca vè Cụ Sáu) và công trình kiến trúc quần thể nhà thờ Phát Diệm.

Đọc “Ca vè Cụ Sáu”, độc giả bị cuốn hút vào những lời răn dạy đầy ắp tính nhân văn: đức hiếu thảo của kẻ làm con phải có đối với cha mẹ: 

“Mấy lời hiếu tự nói qua,

Để cho ai nấy trẻ già nhớ ơn

Làm người sống ở thế gian

Ai không đội đức cao san (sơn) nặng đầy”.

Ngài dạy dỗ một cách chi tiết, tỷ mỷ, kỹ càng, những kẻ làm con về: cung cách hành xử, trong tư tưởng, lời nói, việc làm, cho tròn chữ hiếu đối với cha mẹ. 

Trong phần “Nữ tắc thường lễ”, tác giả liệt kê những đức tính phải có của người phụ nữ, đồng thời cũng phê phán các nết xấu cần phải loại trừ đối với người phụ nữ. Những lời răn dạy trong nữ tắc thường lễ là phương pháp đào tạo nhân cách người phụ nữ theo tiêu chuẩn “Tứ đức” (Công – Dung – Ngôn – Hạnh) của Nho giáo.

Còn trong “Nịch ái vong ân”, Cụ Sáu đề cập đến tư cách phải có của người đàn ông, bậc tu mi quân tử. Được xem như cột trụ trong gia đình, người đàn ông phải biết “tề gia”, nghĩa là điều khiển gia đình mình cho đúng lễ nghĩa gia phong, có sự kính trên nhường dưới, biết răn dạy những người thuộc quyền, cụ thể ở đây là “dạy vợ”. Chúng ta phải đặt mình trong bối cảnh văn hóa Việt Nam cách đây hơn 100 năm để thấy những lời răn dạy của ngài là cần thiết và hữu ích. Đối với Cụ Sáu, người đàn ông không biết “tề gia” thì không thể hy vọng thành công trên lãnh vực “trị quốc” và “bình thiên hạ” được.

“Ca vè Cụ Sáu” được giáo dân Phát Diệm xưa và nay đón nhận rất chân thành và phổ cập. Bằng chứng là tập sách này được in ấn và tái bản nhiều lần, ngay cả trong những giai đoạn khó khăn nhất của lịch sử Phát Diệm. Nhiều người cho tới ngày nay vẫn còn thuộc lòng “Ca vè Cụ Sáu”.

Sở dĩ tác phẩm của ngài được đón nhận trên diện rộng như vậy vì nhiều lý do, có thể do thể loại thơ văn bình dân hợp với tâm thức người Việt Nam..., nhưng có một lý do khác quan trọng hơn, đó là cung cách sống nhân bản của ngài đã có ảnh hưởng trên giáo dân, khiến họ yêu mến mà tìm đến với ca vè của Cụ để học làm người. Cụ Sáu dạy dỗ giáo dân bằng chính đời sống và gương sáng của mình: “Lời nói như gió lung lay, gương lành như tay lôi kéo” (ca dao), đúng như nhận định của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI: “Con người ngày nay thích nghe chứng nhân hơn các thầy dạy, và nếu họ có nghe các thầy dạy thì trước hết những thầy dạy đó đã là chứng nhân rồi”.

Còn về phương diện kiến trúc, quần thể nhà thờ Phát Diệm là nét đặc trưng của văn hóa Việt Nam:

• Đặc tính phong thủy được Cụ lưu tâm cách đặc biệt: “Tiền thủy, hậu sơn” tạo nên một cảnh quan hài hòa, tôn thêm vẻ hùng vĩ cho quần thể, đồng thời cũng tạo nên một không gian trầm tĩnh dễ đưa hồn vào cầu nguyện, gẫm suy.

• Kiến trúc với những vòm cuốn, mái cong cao vút trên nền trời trong xanh tạo đường nét mềm mại, thanh cao, duyên dáng: quần thể to lớn, vĩ đại, nhưng không thô kệch. Đi sâu vào chi tiết một chút, chúng ta thấy các biểu tượng rất cao quý Việt Nam được ngài sử dụng vào những vị trí thích hợp nhằm thông truyền một sứ điệp Tin Mừng phù hợp với tâm thức Việt Nam... Tựu trung, khi đến với nhà thờ đá Phát Diệm, người Việt Nam dễ nhận thấy mình ở trong đó và cũng cảm thấy có cái gì đó là của riêng mình.

• Cụ Sáu: một đức tin được nhập thể 

Trong dụ ngôn người gieo giống (Mt 13, 3 – 9), Chúa Giêsu nói đến mảnh đất tốt mà trong đó hạt giống Lời Chúa được gieo vào sẽ sinh hoa kết trái phong phú dồi dào. Mảnh đất ấy không gì khác hơn là tâm hồn con người và truyền thống văn hóa, tôn giáo của một cộng đoàn. Nơi tâm hồn con người là nét nhân văn được thể hiện qua đời sống nhân bản và văn hóa. 

Cụ Sáu: mảnh đất tốt được tuyển chọn. Khẳng định đó hoàn toàn có lý vì hai lý do:

• “Ca vè Cụ Sáu” nhấn mạnh đạo đức gia đình như là yếu tố nền tảng mà trên đó mọi nhân đức nhân bản, kể cả đức tin được xây lên. Thiếu yếu tố cơ bản này, con người chỉ là mảnh đất sỏi đá, gai góc, không thích hợp để hạt giống Tin Mừng mọc lên. Cụ Sáu ý thức sâu xa mối dây liên kết bất khả phân ly giữa nhân đức nhân bản và đức tin, nên khi giáo dục đức tin cho giáo dân, ngài dạy họ các đức tính nhân bản. Đọc “Ca vè Cụ Sáu”, độc giả nhận thấy một sự liên kết hài hòa gần như đồng hóa giữa đức tính nhân bản và đức tin: Trong nhân bản có đức tin và trong đức tin có nhân bản.

• Quần thể kiến trúc nhà thờ Phát Diệm là lời tuyên xưng đức tin sống động của Cụ vào Thiên Chúa và vào các chân lý cứu độ Kitô giáo. Những bức phù điêu, chạm bong trên các tường và các bàn thờ là cuốn Phúc Âm rút gọn diễn tả các “mầu nhiệm cả” trong đạo. Chúng ta có thể nói như Thánh Phaolô về Cụ Sáu: “Tôi biết tôi đã tin vào ai, và xác tín rằng: Người có đủ quyền năng bảo toàn giáo lý đã được giao phó cho tôi, mãi cho tới ngày Ngài đến” (2Tm 1, 12 ). Đức tin của Cụ quả là sâu sắc, thế nên, không còn lời nào phù hợp hơn để diễn tả ngoài khẳng định này “Cụ Sáu: một đức tin đã được nhập thể”. 

• CHA PHÊRÔ TRẦN LỤC: CÔNG TRÌNH HỘI NHẬP VĂN HÓA

Trong 34 năm làm cha xứ Phát Diệm, Cụ Sáu đã lo giáo dục nhân bản qua những ca vè, cũng như đời sống đạo đức cho giáo dân. Đặc biệt xây dựng quần thể nhà thờ Phát Diệm. Cả hai công trình này đều thể hiện sâu sắc đặc tính hội nhập văn hóa Việt Nam.

• Ca vè Cụ Sáu chứa đựng những nét hội nhập văn hóa

“Ca vè” là loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian Việt Nam, rất phổ thông và thịnh hành trong giai đoạn từ thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20. Người dân thường dùng câu ca dao, dân ca, bài vè để chuyển tải ý muốn của mình, nhằm giáo dục, phê phán hiện tình con người và xã hội. Ngôn ngữ Việt Nam tự thân đã có thanh trắc, thanh bằng, âm điệu trầm bổng, nên khi nói người ta có cảm tưởng như một bài ca. Với đặc điểm về cung điệu như thế, người nghe rất dễ lọt tai với thể loại văn vần, thơ ca, vè. Loại hình văn hóa này đã ăn sâu vào ký ức của người dân Việt Nam, từ thuở còn nằm nôi nghe lời ru của mẹ, đến khi nằm yên trong “quan tài” vẫn còn được nghe những bài ca theo thể thơ ca, vè như thế.

Cụ Sáu sử dụng ca vè vào mục đích giáo dục nhân bản và cũng uyển chuyển, tinh tế nhắc nhở đời sống đức tin, bổn phận giáo dục đức tin cho con cái:

“Việc phần hồn trước dạy làm dấu,

Kêu Giêsu, Thánh mẫu quan thầy

Kinh hàng ngày sự cần phải học

Mẹ dạy con trằn trọc hôm mai”.

Đọc Hiếu tự ca, độc giả nhận thấy Cụ Sáu không dừng lại trong việc giáo dục nhân bản, nhưng trên nền tảng nhân bản, Cụ muốn gieo trồng đời sống đức tin như là cùng đích của một đời sống nhân bản phải đạt tới. Phần kết của Hiếu tự ca, Cụ Sáu nhấn mạnh đạo hiếu không chỉ là bổn phận tự nhiên, mà hơn thế, do chính Chúa truyền ban, nên khi thực hành đạo hiếu là thực thi Lời Chúa, nhờ đó kẻ thực hành sẽ được hạnh phúc đời này và đời sau: 

“Hãy lắng tai nghe lời Chúa hứa,

Ai hết lòng thảo hiếu mẹ cha,

Sẽ ban phần thưởng này là

Sống lâu dưới thế để mà trả công

Về sau phúc trọng muôn phần

Chúa còn trả lại vô cùng hẹp chi

Mấy lời hiếu tự phải ghi

Chôn lòng mà giữ chớ khi nào rời. Amen”.

Do đi đúng vào căn tính người Việt, Ca vè Cụ Sáu đã được đón nhận nồng hậu nơi giáo dân Phát Diệm: người ta đọc, học, thực hành Ca vè Cụ Sáu, mãi cho tới ngày nay, nhiều cụ vẫn còn thuộc lòng. Việc đưa lời Chúa, nhắc nhở sống và thực hành đức tin vào ca vè chính là cách thức hội nhập văn hóa đúng nghĩa.

Cho tới nay, Phát Diệm vẫn còn giữ được truyền thống đạo đức, nề nếp gia phong, tinh thần đoàn kết, trọng chữ hiếu cũng là nhờ sự kiên trì giáo hóa, miệt mài gieo trồng đức tin của vị linh mục đáng kính, cha Phêrô Trần Lục.

• Quần thể nhà thờ Phát Diệm: công trình hội nhập văn hóa

Khu quần thể nhà thờ Phát Diệm là công trình hội nhập Tin Mừng vào nền văn hóa, tôn giáo Việt Nam, trong tổng thể, cũng như từng chi tiết. Trong khuân khổ của bài thuyết trình, chúng ta chỉ đề cập tới 3 điểm nền tảng sau đây:

• Hội nhập Tin mừng trong nghệ thuật kiến trúc xây dựng

Khi nói về kiến trúc cổ Việt Nam, nhiều người lầm tưởng là bản sao của kiến trúc Trung Hoa, nhưng thật ra, kiến trúc cổ truyền Việt Nam khác nhiều so với lối kiến trúc Trung Hoa, nhất là về phần cấu tạo mái cong. Kiến trúc phần mái của người Trung Hoa dùng phương pháp “chồng đấu, tiếp rui”, trong khi người việt dùng “tàu đao, lá mái” để cấu tạo mái cong”.

Cụ Sáu xây dựng khu quần thể theo đúng phong cách bản địa Việt Nam: mềm mại, thanh cao, trầm tĩnh, nhờ đó hồn Tin Mừng đã được thổi vào nghệ thuật kiến trúc dân tộc. Trong công trình nhà thờ Phát Diệm, Cụ đóng vai trò trung gian, “mai mối” để cho Tin Mừng và nghệ thuật kiến trúc bản địa thực hiện cuộc đối thoại “vô ngôn” sâu sắc và hiệu quả: “Đây không phải lời, cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai, nhưng tiếng chúng đã vang cùng trái đất và lời chúng truyền rao khắp cả địa cầu” (Tv 18, 4 – 5). 

Do vậy, người Việt Nam đến với Phát Diệm là nhận ra chúng mình khi cùng nhau quy tụ dưới mái của công trình kiến trúc, và hơn nữa, nhận ra nguồn cội thiêng thánh của mình khi tịnh ngôn, tịnh tâm lắng nghe “quần thể nhà thờ Phát Diệm” tâm sự về Tin Mừng cứu độ đã nhập thể trong nghệ thuật kiến trúc thuần túy Việt Nam. 

• Hội nhập Tin Mừng trong văn hóa “đình làng” 

Khu quần thể nhà thờ Phát Diệm, theo chiều Nam – Bắc, bắt đầu là “ao hồ”, “sân phương đình”, “phương đình”. Cấu trúc này được rập khuân theo mô hình văn hóa nông thôn Việt Nam, văn hóa làng. Cây đa, bến nước, sân đình là biểu tượng của làng đã đi vào văn chương và được thi vị hóa. “Đình làng” có thể được xem là địa chỉ riêng của mỗi người, đặc biệt trong những dịp hội làng, hay mỗi khi có việc làng. Bởi vậy, đình làng được xây dựng với những tiêu chí rất đặc biệt như: luật phong thủy, địa điểm, phương hướng. Lý tưởng nhất là đình có địa điểm thoáng đãng nhìn ra sông nước, nếu không có được ao hồ thiên nhiên thì dân làng phải đào ao, đào giếng để có mặt nước phía trước đình cho đúng thế “tụ thủy”, vì họ cho đó là điềm thịnh mãn cho làng. Trong đình, gian giữa, có bàn thờ, thờ vị Thành hoàng của làng, một chiếc trống cái cũng được để trong đình để đánh lên mỗi khi có việc làng, trống đánh theo “nhịp ngũ liên” mời gọi, thúc giục dân chúng về hội làng. Mọi sinh hoạt hành chính, tế tự, hội hè, rước sách, khao vọng, đón người đỗ đạt... đều diễn ra tại đình làng. 

Tin Mừng được nhập thể trong văn hóa đình làng:

Trước hết trên nóc đình làng là “lưỡng long chầu nguyệt”, nhưng theo nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh (trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương) thì phải gọi là “lưỡng long chầu mặt trời” (vì vòng tròn có ngọn lửa bốc cháy). Hai con rồng là biểu tượng sức mạnh âm – dương trong vũ trụ. Vòng tròn ở giữa là mặt trời, tượng trưng cho thái cực viên mãn của vũ trụ. Con rồng bên trái là âm, con rồng bên phải là dương”. 

Nóc phương đình Phát Diệm được đặt cây thánh giá, chầu hai bên là hoa văn họa tiết hình triện long hóa. Nếu hình tròn bốc lửa là tượng trưng cho cho thái cực viên mãn của vũ trụ, thì Chúa Giêsu chính là mặt trời công chính và việc Ngài nhập thể chính là thánh giá. Cụ Sáu không gạt bỏ “lưỡng long chầu mặt trời”, nhưng chỉ cho mọi người “mặt trời” là Chúa Kitô. Cây thánh giá trên nóc phương đình đích thực là sự nhập thể của Tin Mừng vào quan niệm về vũ trụ của người Việt Nam. Chúng ta có thể so sánh điểm hội nhập văn hóa này với câu truyện mà Thánh Phaolô đã trình bày trong bài giảng cho giới trí thức trên đồi A-rê-ô-pa-gô (cf. Cv 17, 22 – 29). 

Nếu cây trống cái trong đình làng mỗi lần gióng lên triệu tập dân làng đến tế lễ trời đất, thành hoàng, lễ hội truyền thống hoặc hội họp bàn việc làng, thì trên gác cao của phương đình chuông nam ngân nga trầm bổng gởi lời tự sự tới mọi người: “Tôi ca tụng Chúa thật, tôi kêu gọi dân chúng, tôi tập hợp các giáo sĩ, tôi khóc người qua đời, tôi đẩy lui dịch tễ, tôi điểm tô ngày lễ”. Cụ Sáu đã trang trí phương đình theo kiểu cách sinh hoạt cung đình: sập đá, bàn thờ (trước đây còn cả hai ghế đá đặt hai bên bàn thờ); trong tâm trí Cụ Sáu, Đức Giêsu là vua vũ trụ và lời Người giảng dạy như Đấng có uy quyền. Tin Mừng nhập thể trong sinh hoạt “đình làng”; không thay thế, nhưng làm cho sinh hoạt ấy được thăng hoa, được thần hóa. Quả thật, Cụ Sáu đã khơi “nguồn nước hằng sống” là Chúa Giêsu cho dân làng Phát Diệm đang thường xuyên tụ họp trong đình làng của mình để tìm “nguồn nước” cho thỏa cơn khát tâm linh. 

• Hội nhập Tin Mừng vào văn hóa kể chuyện: đặc điểm của văn hóa Á châu

Á châu ít dùng ngôn ngữ trừu tượng, họ thích dùng hình ảnh, câu chuyện để dạy dỗ, để chuyển tải tư tưởng. Kể chuyện là loại hình sinh hoạt văn hóa Á châu. Tông huấn “Giáo Hội tại Á châu” đề nghị “khoa sư phạm gợi nhớ” sử dụng chuyện kể, dụ ngôn và biểu trưng: “Ai cũng biết kinh nghiệm thực tế của Á châu không chủ yếu là đường thẳng hay ý niệm, nhưng là đường xoáy ốc và biểu trưng, là những gì thuộc về trực giác, hấp dẫn, gợi mở, thẩm mỹ”.

Cụ Sáu am tường cảm thức văn hóa kể chuyện của người dân Việt, nên trên các bức tường của phương đình, mặt tiền Nhà Thờ Lớn, 5 nhà nguyện nhỏ, Cụ cho chạm những bức phù điêu diễn tả những mầu nhiệm Chúa Cứu Thế: từ việc Người giáng sinh, đời thơ ấu ẩn dật, đến đời hoạt động công khai, đặc biệt là biến cố tử nạn, phục sinh và lên trời vinh hiển. Mỗi bức phù điêu là một câu chuyện kể về cuộc đời Đức Giêsu như sách Tin Mừng diễn tả. Hội nhập Tin Mừng vào văn hóa kể chuyện cho người Việt Nam sẽ truyền cho họ cảm xúc ngạc nhiên, thích thú, ấn tượng, để rồi được lôi cuốn và thuyết phục.

• TIẾP BƯỚC CHA ANH TRONG HÀNH TRÌNH HỘI NHẬP VĂN HÓA 

Hội nhập văn hóa của đức tin Kitô giáo là sứ vụ đặc thù và cũng là một dấn thân mục vụ của Giáo Hội tại Việt Nam, bởi vì chúng ta luôn mong muốn: “một Giáo Hội nhập thân nơi dân chúng, một Giáo Hội bản xứ và hội nhập văn hóa”.

Hội nhập đức tin vào văn hóa bản xứ sẽ chạy dài suốt dòng thời gian mãi cho tới ngày Chúa lại đến.

Tiếp bước cha anh trong hành trình hội nhập văn hóa nơi địa phương này gồm hai việc quan yếu sau đây:

• Trân trọng giữ gìn, bảo tồn nguyện vẹn di sản cha ông để lại

Do ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu, thiên tai và bom đạn chiến tranh, quần thể nhà thờ Phát Diệm bị hư hại nặng nề. Hai lần tu sửa đáng ghi nhớ:

Lần thứ nhất được thực hiện ngay sau trận bom ngày 15-8-1972. Đức Cha Phaolô Bùi Chu Tạo quyết định sửa chữa ngay. “Công việc bắt đầu vào tháng Mân côi năm ấy, chúng tôi tra tay vào công việc lấp các hố bom, xẻ gỗ đóng lại 52 cánh cửa chung quanh nhà thờ, đi mua ngói ở các nơi về lợp lại. Không những giáo dân ở Phát Diệm, mà còn cả anh chị em giáo dân bên Bùi Chu, trong Thanh Hóa cũng đóng góp: cho thóc, cho gạo nuôi thợ”. Hàng mấy trăm con người làm việc miệt mài, bất chấp máy bay hàng ngày bay lượn trên đầu, mặc cho súng bắn, họ vẫn cứ làm. Công việc tấp nập như thế hàng hai ba tháng, sau đó còn phải sửa chữa những nhà thờ nhỏ và sân, hai năm trời mới xong. Có được thành quả sửa chữa mỹ mãn như vậy, là vì con cháu ý thức được công lao tổ tiên xây dựng.

Lần thứ hai đại tu toàn bộ quần thể nhà thờ Phát Diệm. Bắt đầu từ thập niên tám mươi của thế kỷ XX, dưới sự chỉ đạo của Đức Cha Giuse Nguyễn Văn Yến, từng hạng mục được trùng tu. Nguyên tắc làm việc: “tuyệt đối trung thành với nguyên mẫu, chỉ thay những phần không thể giữ lại được, và không được phép thay những cột đã được xức dầu thánh hiến. Cuối tháng 05-2000, công việc trùng tu hoàn thành mỹ mãn”.

Bên cạnh việc bảo tồn nguyên vẹn di sản cha ông để lại, các thế hệ con cháu còn phải tích cực hơn nữa nghiên cứu công trình hội nhập đức tin vào văn hóa dân tộc của tiền nhân, để cảm nhận giá trị vĩnh hằng và tính thời sự của Tin Mừng trong công trình kiến trúc đồ sộ này. Một dấu ấn được ghi để dám “thi gan” cùng tuế nguyệt, đó là lễ cung hiến nhà thờ chính tòa Phát Diệm ngày 06 tháng 10 năm 1991. Đức Cha Phaolô Bùi Chu Tạo, nhân danh Giáo Hội, đã “đội triều thiên” cho công trình của Cụ Sáu.

• Cam kết, dấn thân rao giảng Tin Mừng bằng việc hội nhập văn hóa

Như đã minh chứng trong bài thuyết trình: khát khao của dân Chúa tại Việt Nam là được nhìn thấy “một Giáo Hội nhập thân nơi dân chúng, một Giáo Hội bản xứ và hội nhập văn hóa”. Viễn tượng này chỉ có thể thành hiện thực khi toàn thể dân Chúa, đặc biệt, các nhà chuyên môn, cam kết, dấn thân trong lãnh vực khó khăn, phức tạp và tế nhị này. Dựa vào những chỉ dẫn của tông huấn: Giáo Hội tại Á châu đoạn 22, chúng ta tập trung vào những điểm quan yếu sau đây:

• Lãnh vực thần học: 

Văn hóa thờ “Ông Trời” cũng là một cách thức bày tỏ tự thâm sâu đáy lòng con người về một thượng đế có ngôi vị, thông biết mọi sự, làm chủ muôn loài, thưởng phạt công minh. Phải chân nhận, trong văn hóa, tôn giáo thờ “Trời” rất gần với mạc khải về Thiên Chúa ngôi vị trong Kinh Thánh. Tin Mừng có thể hội nhập trong văn hóa thờ “trời”, hít thở và hấp thụ chất dinh dưỡng từ nền văn hóa ấy.

Hội nhập văn hóa trong lãnh vực kitô học trong nền văn hóa “đình làng” và trong văn hóa kể chuyện Chúa Giêsu rất được đón nhận nơi anh chị em đồng bào của mình (kể chuyện Chúa Giêsu cách sống động bằng chính cuộc đời mình).

• Lãnh vực phụng vụ

Tâm thức người Việt là say mê thờ phượng, lễ hội tôn giáo và lòng đạo đức bình dân. Tinh thần tôn giáo truyền thống Việt Nam là mảnh đất tốt để đức tin hội nhập trong nghi thức thờ phượng truyền thống vốn có. Tuy nhiên không dừng lại ở những cử chỉ, hình thức giả tạo bề ngoài, nhưng phải làm thế nào để đức tin Kitô giáo được sống trọn vẹn trong môi trường văn hóa và thực tế cuộc sống của người dân. Nhiệm vụ của hội nhập văn hóa trong lãnh vực phụng vụ là tìm kiếm những phương cách hữu hiệu để nuôi dưỡng các hình thái thích hợp biểu lộ đức tin chân chính và đẩy lui mọi hình thức mê tín dị đoan trong việc tế tự, thờ phượng và cầu nguyện.

• Lãnh vực đào tạo

Đào tạo nhân sự theo phong cách Á châu rất được quan tâm. Trong cuốn: Đào tạo linh mục, định hướng và chỉ dẫn của hội đồng giám mục Việt Nam, xuất bản năm 2012, lưu tâm cách đặc biệt mô hình đào tạo các linh mục theo phong cách Á châu gồm bốn nét đặc trưng:

• Linh mục, con người trưởng thành.

• Linh mục, con người của sự thiêng thánh.

• Linh mục, con người của đối thoại.

• Linh mục, con người khiêm tốn phục vụ

“Như vậy, trong bối cảnh Á châu có nhiều tôn giáo, nhiều nền văn hóa lớn và đa số là dân nghèo, các giám mục Á châu, sau khi trình bày yếu tố nền tảng: con người trưởng thành của linh mục, đã làm đậm nét hình ảnh người linh mục Á châu trong tương quan với Chúa, với người khác, nhất là với các tôn giáo khác và với người nghèo”. Mô hình đào tạo linh mục theo phong cách Á châu sẽ góp phần tạo nên những con người của hội nhập văn hóa và từ nơi họ tiến trình hội nhập Tin Mừng vào nền văn hóa bản xứ sẽ có cơ may phát triển và gặt hái nhiều thành quả tốt đẹp.

Kết luận:

Hội nhập văn hóa là một đòi hỏi cấp bách trong sứ vụ đến với muôn dân của Giáo Hội. Sứ vụ này đã được thực hiện trước tiên nơi Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể. Ngài trở nên khuân mẫu về hội nhập văn hóa cho Giáo Hội mọi nơi và mọi thời.

Nhờ sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội thực hiện công trình hội nhập văn hóa theo mô hình Ngôi Lời nhập thể, nghĩa là, làm cho Tin Mừng nhập thể trong một nền văn hóa đặc thù, và giới thiệu nền văn hóa ấy vào trong đời sống Giáo Hội. Con đường hội nhập văn hóa là con đường làm cho Giáo Hội địa phương không còn xa lạ, ngoại lai trước mắt đồng bào của mình, nhất là thể hiện đặc tính Công Giáo và đặc tính “duy nhất trong đa diện” và “đa diện trong duy nhất” của Giáo Hội Chúa Kitô.

Công trình hội nhập văn hóa của Cụ Sáu tại Phát Diệm là một dấu ấn đậm nét, một thành quả lớn lao trên đời sống giáo dân và đồng bào Việt Nam. Một truyền thống đạo đức sâu sắc, bền bỉ và một Giáo Hội mang bản sắc địa phương, đó chính là nhờ công lao Cụ Sáu.

Con đường hội nhập văn hóa chỉ có khởi đầu mà không có kết thúc. Tiếp bước Cụ Sáu, chúng ta cam kết dấn thân lên đường thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng theo phong cách Việt Nam: hội nhập Tin Mừng vào nền văn hóa Việt Nam. Công việc đầy dẫy thử thách, cam go, phức tạp, tế nhị, nhưng hãy cứ lên đường trong niềm vui và hy vọng vì có Chúa Thánh Thần đang cùng hoạt động.

Nhờ ơn Chúa và sự hăng say nhiệt thành tông đồ, chắc chắn Giáo Hội sẽ đáp ứng được nguyện vọng của con dân Việt Nam là sớm được thấy: “một Giáo Hội nhập thân nơi dân chúng, một Giáo Hội bản xứ và hội nhập văn hóa”. Thật mong ước lắm thay.

Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê

Giám đốc TCV. Phaolô Phát Diệm



TÀI LIỆU THAM KHẢO

• Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo Hội (Ad gentes).

• Đức Gio-an Phaolô II, Thông điệp sứ vụ Đấng Cứu Độ (Redemptoris Missio, ngày 07.12.1990).

Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu (Ecclesia in Asia, ngày 06.11.1999).

• Ca vè Cụ Sáu.

• Tòa giám mục Phát Diệm, Nhà thờ Phát Diệm, nxb. Tôn giáo, 2009.

• HĐGMVN, Đào tạo linh mục – Định hướng và chỉ dẫn, nxb. Tôn giáo, 2012.

• HĐGVN, Hiệp thông, số 76 (tháng 5 & 6 năm 2013). 

• Vinh-sơn Trần Ngọc Thụ, Lịch sử giáo phận Phát Diệm (1901-2001), Paris, 2001.

• Hoàng Xuân Việt, Thắng cảnh Phát Diệm – Địa linh nhân kiệt và kỳ quan, UBĐKCG, 1991.

• Phạm Ích Khiêm, Văn hóa học và văn hóa thế kỷ XX, Viện thông tin khoa học xã hội, 2001.

• Lê Thanh Đức, Đình làng Miền Bắc, Hà Nội, 2001.

• Kiến thức ngày nay: “khoa học và đời sống”, số xuân 2012.


Nguồn: http://vietcatholic.net/News/Html/111956.htm