Các Trang

Thứ Năm, 26 tháng 10, 2017

Hành Trình Tâm Linh: Chương 7 - Các linh đạo khác nhau


Chương 7: CÁC LINH ĐẠO KHÁC NHAU

Tiếng Chúa gọi mỗi người thường kèm theo một tiếng gọi khác: tiếng gọi để sống trong một gia đình thiêng liêng đặc thù. Trong Hội thánh có khá nhiều “linh đạo” khác nhau. Sự việc không giống nhau khi ta là một tu sỹ dòng Cát Minh hoặc dòng Biển Đức, hay đối với một giáo dân, khi thuộc về các nhóm Mân Côi hoặc Canh tân Đoàn sủng. Tại sao vậy?

Tại sao có những linh đạo đặc thù?

Rất đơn giản. Mỗi một linh đạo diễn tả một khía cạnh đặc thù của mầu nhiệm Thiên Chúa và giúp cho người ta sống linh đạo ấy. Giống như nó biểu thị một mặt đặc thù của một viên kim cương vậy. Nhưng không linh đạo nào là chính viên kim cương này cả. Hoặc thêm một thí dụ nữa, mỗi một linh đạo giống như một cánh cửa đặc thù dẫn vào thế giới của Thiên Chúa. Mỗi cửa đều khác nhau, nhưng mục đích thì giống nhau. Như vậy Hội thánh tựa như một bó hoa xinh đẹp bởi sự đa dạng và tính duy nhất nền tảng của nó.

Mỗi linh đạo đặc thù tập trung vào những yếu tố sống được xem như quan trọng nhất, vào những chủ đề huy động, động cơ, để từ đó phát xuất ra tất cả những điều còn lại. Một số linh đạo đặt nền tảng trên khát vọng về ơn cứu độ con người, một số khác về Thánh giá Chúa Kitô, số khác nữa về lòng tín thác và Mẹ Maria, về sự cấp bách của việc đại kết, về hoạt động của Chúa Thánh Thần, về việc dấn thân trong mầu nhiệm Hội thánh, v.v... Thông thường, tất cả các yếu tố này phải có một liều lượng khác nhau nơi mọi linh đạo. Nhưng, như trong các món cocktail, chính liều lượng là cái tạo ra sự khác biệt. Thí dụ: Đức Maria sẽ có vai trò ưu tiên trong các linh đạo liên kết với thánh Louis-Marie Grignion de Montfort hoặc chân phước Cha Chaminade, nhưng Mẹ sẽ có một vai trò khác trong một linh đạo đại kết.

Những linh đạo khác nhau này thì quan trọng đối với chúng ta. Quả thật, việc chúng ta thuộc về một gia đình hiểu và nâng đỡ chúng ta là một điều rất tốt. Nhìn thấy những người khác sống cùng một điều chúng ta đang sống, có cùng sở thích thiêng liêng như chúng ta, chúng ta được khích lệ, chúng ta cảm thấy mình được hiểu và khuyên bảo tốt hơn. Cũng có đôi khi, đang có một đường hướng thiêng liêng chủ đạo, chúng ta có thể đón nhận một điều gì đó mạnh mẽ từ một hình thức thiêng liêng khác. Chắc hẳn, không nên lẫn lộn các linh đạo, cũng đừng hành động một chiều theo lối “hoặc... hoặc...”. Thường thường, Chúa tiến hành theo lối “và... và...”. Ngài khiến các yếu tố khác nhau xuất hiện để đem chúng lại gần nhau và quy chúng về một mối nếu điều ấy có ích cho dự phóng của Ngài.

Đây không phải là nơi bàn về tất cả các linh đạo. Việc này cần cả một bài khảo luận lịch sử đầy đủ. Trái lại, như một thí dụ, có thể nên nói về một hai linh đạo. Việc này giúp chúng ta xác định vị trí và tìm kiếm linh đạo của mình, hoặc đúng hơn, giúp chúng ta cầu xin Chúa chỉ dẫn hoặc xác định cho mình. Hãy lưu ý rằng không một linh đạo nào tự nó là tốt hơn một linh đạo khác. Đối với người có bổn phận sống một linh đạo, thì mọi linh đạo đã được Hội thánh chuẩn nhận đều dẫn đến sự thánh thiện. Điều cốt yếu là biết được Chúa muốn tôi theo linh đạo nào. Các vụ đấu khẩu giữa các linh đạo là chẳng thú vị gì. Đó là những chuyện trẻ con và đôi khi chúng còn gây ra những hậu quả làm phương hại nặng nề đến sự hợp nhất của Hội thánh nữa.

Linh đạo của Trường phái Pháp

Thí dụ đầu tiên mà tôi muốn đưa ra là thí dụ của phong trào được gọi một cách không thích đáng là “Trường phái Pháp”, xuất phát từ thế kỷ XVII. Quả thật, những nghiên cứu lịch sử về linh đạo chỉ ra rằng nó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến đâu trong Hội thánh, đặc biệt qua các linh mục và rất nhiều hội như hội Nhà Tiệc ly của thánh nữ Thérèse Couderc hoặc hội Thánh gia của Cha Noailles. Cha sở họ Ars, trong số những cha khác, là người từng thấm nhuần linh đạo này. Nhưng có nhiều giáo dân trước đây cũng đã được nó tác động và hiện nay nó cũng đang tác động như thế, thường là một cách gián tiếp. Nó thực sự là một phương thế sâu xa để sống với Chúa.

Trường phái Pháp bắt nguồn từ Pierre de Bérulle (1575-1629), một trong những nhân vật tôn giáo thâm trầm nhất của lịch sử nước Pháp, là vị sáng lập hội Giảng thuyết Pháp và là người giới thiệu dòng Cát Minh Teresa vào nước này. Có những người làm thay đổi thế giới quanh họ. Bérulle là một trong số những người đó. Bourgoing, là môn sinh của ngài, nói rằng: “Người ta đã đánh giá ngài như một vị tuyên sấm , dường như thần khí của Chúa đã nói qua miệng ngài.”

Sự vĩ đại của Thiên Chúa và sự nhỏ bé của con người

Trong phần đầu của hành trình cá nhân, Bérulle bị đánh động bởi sự kiện đơn giản rằng Chúa là Chúa và con người chẳng là gì cả - hoặc đúng hơn con người tự mình chẳng là gì cả, nó chỉ là gì trong sự tham chiếu với Chúa và lệ thuộc vào Ngài. Như vậy Bérulle có một cái nhìn hướng rất thẳng lên Chúa, gợi lại một chút điều mà Chúa Giêsu từng nói với thánh nữ Catarina Sienna: “Con ơi, con hãy biết rằng Ta là Đấng tự hữu, và con là kẻ chẳng tự hữu.”. Gần chúng ta hơn, Maurice Clavel đã khám ra điều tương tự khi đọc Bérulle và ghi lại điều này trong nhan đề của một cuốn sách: Chúa là Chúa, tôn danh Chúa!

Bérulle cũng yêu cầu con người làm một cuộc cách mạng Copernic được tóm tắt trong lời nói đơn giản này: “Phải nhìn Chúa trước tiên chứ đừng nhìn vào chính mình.” Quả thật, chúng ta đang tự xây dựng cuộc đời cho chính mình trước hết. Nhưng chúng ta quên rằng mình chỉ là những thụ tạo, rằng chúng ta không tự sáng tạo chính mình, rằng chúng ta chỉ tồn tại qua mọi giây phút chỉ vì Chúa muốn thế, và rằng một ngày kia chúng ta sẽ trở về với Chúa. Đời sống của chúng ta, chính là Chúa. Nhận biết điều này, chính là đảo lộn trật tự của con người về các sự vật và trở về với “nhân đức tôn giáo”, nghĩa là trở về với việc nhìn cuộc đời một cách đúng đắn, bằng cách đặt Chúa ở khởi điểm và ở trung tâm mọi sự. Để làm điều đó, chúng ta phải có một con tim nhận biết thực tế nền tảng này. Bourgoing từng nói: “Điều mà Cha rất khả kính của chúng ta đã canh tân trong Hội thánh, cũng như phương tiện mà Chúa đã ban cho ngài để thực hiện nó, chính là tinh thần tôn giáo, là việc phụng tự tối cao bằng sự tôn thờ và lòng kính sợ.” Qua việc tôn thờ, ta phải nhận biết Chúa là Chúa tể và là Đấng Sáng tạo vũ hoàn, kết hợp với lời ca tụng về mọi điều mà Ngài đã ban cho chúng ta.

Như vậy trước hết con người là một kẻ tôn thờ. Chúng ta hiện diện trên mặt đất này chỉ là để tôn thờ, không những qua hành vi mà thôi, nhưng bởi chính bản chất, bởi tình trạng là người, với tất cả con người chúng ta. Chúng ta tôn thờ Chúa nhân danh cuộc sáng tạo mà trong đó chúng ta là các linh mục, nhân danh mọi người, và chúng ta liên lỉ cám ơn Chúa về những sự tốt lành và về tình yêu của Ngài đối với chúng ta. Đó chính là mục đích thứ nhất của cuộc đời con người. Quả thật, tự mình, chúng ta chẳng là gì cả, nhưng khi chúng ta bước vào trong ơn gọi đích thực của chúng ta, là ơn gọi tôn thờ Thiên Chúa, chúng ta đạt tới một sự vĩ đại không thể sánh ví ngay trên trần gian này.

Sứ mạng của Ngôi Lời nhập thể

Nhưng vấn đề là chúng ta thật sự không có khả năng yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa cho xứng hợp. Thiên Chúa thì vô cùng, và chúng ta thì rất đỗi bé nhỏ và chẳng có khả năng! Nên Chúa Cha đã sai phái Chúa Con xuống trần gian. Qua việc giáng trần và qua cái chết của Ngài, Ngài đã tôn vinh Chúa Cha theo cách mà rõ ràng không một ai có thể làm được. Chúa Giêsu cũng là Đấng tôn thờ đầu tiên. Từ đó mọi việc tôn thờ của chúng ta đều thông qua Ngài. Chúng ta như được bao gồm trong Ngài với mọi kinh nguyện của chúng ta:

              “Từ thuở đời đời, đã có một Thiên Chúa đáng tôn thờ vô cùng, nhưng vẫn chưa có một người tôn thờ vô cùng [...] Ôi Giêsu, giờ đây Ngài là Đấng tôn thờ ấy, là con người ấy, là tôi tớ vô cùng có quyền năng, có tư cách, có phẩm giá, để chu toàn phận vụ đó và để dâng lên lời tôn vinh Thiên Chúa.”

              “Chúa Giêsu đã được sai phái đến thế gian để tôn vinh bản thể thần linh, và sự tôn vinh xứng đáng với Thiên Chúa chỉ có thể được thực hiện bởi Thiên Chúa, vì mọi sự tôn vinh của các thụ tạo đều thiển cận và có giới hạn nên không xứng đáng với Thiên Chúa và vô cùng cách xa với sự tuyệt hảo của Ngài.”

Xuyên qua một ngôn ngữ khác với ngôn ngữ của chúng ta, và chúng ta phải cẩn thận đừng đánh giá nó, ta hiểu rằng cuộc đời của tất cả mọi người đều liên kết với cuộc đời của Chúa Giêsu. Bérulle đã “gặp gỡ cá nhân” với Chúa Giêsu một cách cao siêu. Cha đã suy xét lại trọn cuộc đời mình, trọn mối tương quan của ngài với Thiên Chúa, xuyên qua cuộc gặp gỡ này. Chính vì thế mà Đức giáo hoàng Urbanô VIII đã có thể gọi cha là “vị tông đồ của Ngôi Lời nhập thể”.

Cũng thế, trọn cuộc đời của chúng ta phải là một sự hợp nhất, hoặc, nói theo từ ngữ của Bérulle, một sự “kết chặt” với Chúa Giêsu. Chúng ta phải sống lại nơi bản thân mọi điều mà Chúa Giêsu đã sống, phải trải qua trong linh hồn ta các giai đoạn chính yếu của con đường Chúa đã đi, sống lại điều này nơi bản thân chúng ta hết mức có thể. Cha viết:

              Chúng ta phải không ngừng hợp nhất đời ta với cuộc đời của Chúa, các việc lao tác của ta với các việc lao tác của Ngài, và phải lấp đầy tư tưởng của ta bằng Ngài và bằng cuộc sống thần linh của Ngài, bằng các việc lao tác của Ngài và bằng mọi điều Ngài đã làm và đã gánh chịu, ở nội tâm cũng như ở ngoại giới, để chúng ta không còn chút thời gian cũng chẳng còn tâm trí nào mà nghĩ đến chính mình cũng như những khổ đau phiền muộn của chúng ta nữa.

Hy lễ của Đức Kitô và chức vụ tư tế

Chúa Giêsu đã biểu lộ tình yêu của Ngài với Chúa Cha, đã “tôn vinh” Cha theo cách thức trang trọng nhất bằng hy lễ của Ngài trên Thánh giá và bằng sự phục sinh của Ngài. Cho nên đỉnh cao của lời tụng ca và sự tôn thờ là Mình Thánh Chúa. Nơi đó gồm tóm mọi sự cao trọng và mỹ miều trên địa cầu:

              Thiên Chúa chỉ có thể được tôn kính cách xứng hợp bằng lễ vật thần linh này, vì trong lễ vật ấy bao gồm mọi tôn giáo và mọi sự thờ phượng Thiên Chúa. Không có lời ca tụng nào, sự kính trọng và tôn vinh nào mà chẳng được lễ vật ấy gồm tóm lấy, cũng không có điều gì trong Hội thánh mà chẳng từ đó phát sinh.

Đó là để nói đến tầm quan trọng của thánh lễ, là việc tưởng niệm cuộc Khổ nạn và sự phục sinh của Đức Kitô. Thánh Gioan Eudes, vị tiền hô của Vatican II, giải thích rằng, bởi phép thánh tẩy, mỗi Kitô hữu là một linh mục nhân danh hoàn vũ mà ca ngợi Thiên Chúa. Nhưng chức vụ tư tế thừa tác của các linh mục thì hẳn nhiên là khác biệt, và thánh nhân đã hợp nhất các vị này với Đức Kitô theo một kiểu chuyên biệt. Từ đó có một cái nhìn rất đẹp và cũng rất đòi hỏi về linh mục và về thánh lễ, mà trọn cả một phần trong đó vẫn còn giá trị một khi ta đã giải thích lại ngôn từ của nó.


Như vậy Trường phái Pháp là một hình thức linh đạo ít được biết đến so với linh đạo Biển Đức, Đa Minh, Phan Sinh, Cát Minh hoặc I Nhã chẳng hạn. Nhưng nó vẫn giữ nguyên hiệu lực. Hình thức tuy cũ rồi, nhưng điều sâu xa chính yếu vẫn luôn mời gọi.

(Còn tiếp)

Chủ Nhật, 8 tháng 10, 2017

Thọ

    
"Tử nhi bất vong giả, thọ"
(Chết mà không mất là sống lâu)
Lão Tử - Đạo đức kinh, chương 33
Lý Minh Tuấn dịch nghĩa

Sống lâu là sống làm sao.
Ai rồi cũng chết, thế nào sống lâu!
"Tử quy" là trở về đâu?

*

Thứ Ba, 3 tháng 10, 2017

Hành trình tâm linh: Một vài thí dụ về ơn gọi (tiếp theo)


Marthe Robin (1902-1981): trong Trái Tim Chúa Giêsu
Cho một lễ Hiện Xuống mới của tình yêu

Marthe Robin được rất nhiều người biết đến. Đó là một nhân vật lớn, nhưng các bài viết về bà thường chỉ dừng lại ở những khía cạnh ngoạn mục vốn không giải thích rõ về bà.

Marthe sinh ra trong một gia đình nông dân, tại Chateauneuf-de-Galaura (Drôme), trong giáo phận Valence. Nông trại nằm trong một thôn ấp hẻo lánh, trên một ngọn đồi. Là một đứa trẻ sinh động, thông minh, vui vẻ, bà bắt đầu nhanh chóng lâm bệnh. Vào tuổi mười sáu, bà bị bệnh viêm não. Cơn bệnh không ngừng phát triển và biến chuyển. Cơn bệnh càng tiến tới, ghim chặt bà xuống giường và khiến bà đau đớn kinh khủng, thì bà càng thoái bộ. Bà đã trải qua mười năm vật lộn với cơn đau da diết này và cố tìm một ý nghĩa cho đời mình. Lúc ấy Marthe ít được những người chung quanh giúp đỡ. Bà sống khá thất vọng, không tiền bạc, chẳng bạn bè, không lời khuyên nhủ, chẳng ai đỡ nâng và an ủi. Đó là thời gian rất khắc nghiệt trong cô lập, buồn bã, thắc mắc. Sau đó, bà đã nói rằng bà không mong ai phải trải qua điều mà bà đã từng trải qua: “Tôi đã tranh luận với Chúa... Tôi không mong ước một ai trong các bạn phải đấu tranh với Chúa.” Bà may mắn giữ được đức tin và, trong thinh lặng, Chúa chuẩn bị bà.

Tình trạng đột nhiên biến chuyển nhân một sứ vụ được rao giảng trong giáo xứ vào năm 1922. Bấy giờ bà nhận được như một dạng tuôn đổ Thần Khí và tức khắc hiểu ra ơn gọi của mình. Một sự sống mới xâm chiếm hồn xác bà. Mọi sự sáng tỏ và có ý nghĩa: sự nghèo khó của bà trở thành nơi mà Thiên Chúa có thể hành động và ban ơn của Ngài. Bà nhận được từ Trái Tim Chúa Giêsu trên thập giá ý nghĩa của cuộc đời bệnh tật của bà: hợp nhất với cuộc đời của Đức Kitô, cuộc đời bà có thể trở nên sinh nhiều hoa trái cho Hội thánh và cho thế giới: “Thánh Tâm Chúa Giêsu trên thập giá là nơi cư ngụ bất khả xâm phạm mà tôi đã chọn trên mặt đất này.” Marthe đã chọn cuộc sống đồng hình đồng dạng với cuộc sống của Chúa Giêsu bị đóng đinh: nên giống Ngài, yêu mến Ngài đến độ giống như Ngài. Nói cách khác, khi nên một với Chúa Giêsu, bà thông hiệp với với những đau khổ của Đức Kitô và Chúa Giêsu thông hiệp với những đau khổ của chính bà. Đời sống tâm linh của bà không diễn ra bên cạnh cơn bệnh nữa, nhưng ở ngay trong lòng cơn bệnh. Chúng ta có thể xác định nơi bà một sự đón nhận thực sự cơn bệnh ngay giữa nỗi khổ đau: “Sau nhiều năm lo âu khắc khoải, sau nhiều thử thách thể lý và đạo đức, tôi đã dám, tôi đã chọn Đức Kitô Giêsu.” Khi chấp nhận đau khổ vì tình yêu, bà làm cho đời mình sinh nhiều hoa trái. Bấy giờ Marthe hiểu rằng bà đã nhận được ơn gọi “hy tế”, nghĩa là hiến dâng trong sự đau khổ của tình yêu. Ơn gọi này được tô điểm bằng sự tiếp xúc với Đức Trinh Nữ Maria với một cách mạnh mẽ, dịu dàng và kiên trì làm bà trở nên một trong các tâm hồn vĩ đại sùng kính Mẹ trong thời ấy. Bà sống trong tình thân thuộc với Đức Maria đến độ bà gọi Mẹ là “má”. Ngay khi còn thơ bé, Marthe đã có tâm tình con thảo với Thánh Nữ Đồng Trinh: Ngài sẽ luôn là mẹ và là nhà giáo của bà: “Chính nhờ Mẹ Maria, với Mẹ Maria và trong Mẹ Maria mà tôi sẽ đến với Chúa Giêsu và sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa.” Bà biết rõ Mẹ đến độ bà tạo cảm hứng cho một số thần học gia, cung cấp cho họ các nguồn mạch tư tưởng canh tân về Mẹ Maria.

Sau đó khởi sự một thời kỳ thăng tiến và tìm tòi, giữa vô số khó khăn, nhân cách thiêng liêng của Marthe Robin bắt đầu dần dà được xếp đặt đâu vào đó. Chúa Giêsu xâm chiếm tất cả mọi vùng của con người bà một cách lần hồi, Ngài hiện diện không rời bà ngày đêm, cộng thêm với hoạt động đầy xúc động của Đức Trinh Nữ Maria. Sự hợp nhất này được tỏ lộ vào năm 1932 bằng việc in dấu thánh làm bà càng trở nên đồng hình dạng với Chúa Giêsu trên Thánh giá hơn nữa. Kể từ đó, bà sống lại cuộc Thương khó của Đức Kitô hằng tuần. Trong cùng suốt thời kỳ này, bà bắt đầu khám phá ra Chúa Cha là ai. Bà trải nghiệm tình yêu mạnh mẽ này và từ đó bà không ngừng làm chứng về tình yêu ấy cho những người chung quanh. Chắc hẳn, với khoa Thánh mẫu học của bà, đó là một trong các cống hiến lớn lao cho linh đạo và cho suy tư của thời ấy.

Năm 1933, Chúa còn vén lộ cho bà rõ hơn về sứ mạng của bà trong Hội thánh: tạo lập một công trình mới “để Nước Chúa rộng lan trong toàn Hội thánh và để phục hưng toàn thể thế giới bằng lời giảng dạy sẽ được ban cho, tác động siêu nhiên và thần thiêng của lời giảng dạy này sẽ trải rộng khắp hoàn vũ.” Nói cách khác, Marthe đã được kêu gọi để khai sinh, bởi sự đau khổ được tiến dâng, một cộng đoàn sẽ cộng tác vào việc canh tân Hội thánh và thế giới, điều mà sau đó được gọi là “một lễ Hiện xuống mới của tình yêu”. Ít lâu sau, vào năm 1936, bà gặp Cha Georges Finet, vị linh mục sẽ giúp bà thành lập Cộng đoàn Bác ái (Foyers de Charité). Đây thật là một cuộc phiêu lưu mang tính nhân bản và tâm linh.

Đời sống nội tâm của bà tiếp tục biến chuyển. Bà đã có một thời kỳ dài nghi ngờ và đấu tranh sau cuộc chiến, và đã phải trải qua một cuộc xét lại bản thân triệt để. Vào năm 1948, mọi sự lắng dịu xuống. Càng lúc bà càng lột bỏ mình hơn, nhưng cũng càng lúc càng sinh hoa trái nhiều hơn. Khi Marthe Robin chết vào năm 1981, Cộng đoàn đã có mặt trên khắp thế giới.

Ảnh hưởng của Marthe Robin thật mênh mông và quả thật ăn khớp với sứ mạng của bà. Bà đã tiếp đón hơn một trăm ngàn người trong căn phòng nhỏ bé của bà, và đã làm đảo lộn cuộc đời của hàng ngàn người trong số họ. Bà đã lập nên Cộng đoàn Bác ái, đã đổi mới hình ảnh của Thiên Chúa như người Cha, đã khích lệ người ta hiểu biết sứ mạng làm mẹ của Mẹ Maria trong thế giới thời ấy, đã giúp một số lớn các cộng đoàn mới, đã tạo lại sự năng động cho việc Phúc âm hóa. Trong thế giới của chúng ta, nơi mà con người không còn tìm thấy ý nghĩa của sự đau khổ nữa, Marthe đã trao cho sự đau khổ của bà một ý nghĩa bằng cách thông dự vào mầu nhiệm của cái chết và sự sống lại của Đấng Cứu Độ thế nhân. Ta sẽ không thể viết lịch sử tôn giáo của thời đại mình mà không liên tục gặp gỡ bà.


Marie Chúa Ba Ngôi (1903-1980):
Hợp nhất với chức tư tế của Đức Kitô

Marie Chúa Ba Ngôi (Marie de la Trinité) là một nhân vật bắt đầu được người ta biết đến đôi chút. Chắc hẳn đó là một trong các nhà huyền nhiệm lớn người Pháp của thế kỷ XX. Chính bà đã lưu ý rằng thánh Gioan Thánh giá, thánh Teresa Avila, thánh Teresa Lisieux hoặc Élisabeth Chúa Ba Ngôi đã chẳng từng sống điều mà bản thân bà đã được ban cho, và việc này chắc hẳn là chính xác. Đó đơn giản là một vấn đề của ơn gọi cá nhân trong kế hoạch của Thiên Chúa.

Paule de Mulatier sinh ra trong một gia đình kỹ nghệ gia công giáo ở Lyon. Ngay từ thời thơ ấu, bà đã cảm nhận được tiến gọi tu trì. Vị đồng hành tâm linh thuyết phục bà vào dòng Cát Minh, nhưng bà cảm thấy mình được gọi sống đời chiêm niệm, và bà đã nhắm đến một hội dòng mới: các nữ tu Đa Minh miền nông thôn (les Dominicaines des campagnes), vừa mới được Mẹ Saint-Jean thành lập trong vùng Jura. Bà đã giữ một vai trò rất quan trọng trong hội dòng còn non trẻ này, nhưng cuối cùng bà lại bị trầm cảm rất nặng và được chữa lành vào năm 1953. Bấy giờ bà lại nắm giữ những phận vụ quan trọng trong cộng đoàn, rồi trở thành một nhà tâm lý trị liệu được đánh giá cao. Sau khi đã làm trợ tá cho Mẹ sáng lập cho đến khi Mẹ chết, bà sống đời ẩn tu tại Flavigny, vùng Bourgogne, trước khi qua đời vì bệnh ung thư năm 1980.

Marie Chúa Ba Ngôi đã nhận được trong đời bà nhiều ân sủng cơ bản, rất rõ ràng, mà bà đã may mắn ghi chép lại. Chúng quan trọng đối với chủ đích của chúng ta, vì chúng vẽ ra khúc quanh của một ơn gọi thiêng liêng sâu thẳm.

Ơn đầu tiên xảy ra vào ngày 11 tháng tám 1929. Bà đang tĩnh tâm với cộng đoàn của mình, một cuộc tĩnh tâm như là “một dạng hấp hối. Đó là một sự sụp đổ toàn bộ, một sự mất mát không chỉ những phương tiện mà tôi ước mong tìm được trong đời tu, nhưng cũng còn như một sự đánh mất Thiên Chúa, khắc khoải, lo sợ, bị lột bỏ hết mọi sự, tôi đau khổ trong linh hồn, trong mọi chốn thẳm sâu của linh hồn, tôi chưa hề cảm nhận như thế bao giờ. Kế đó tôi đã hiểu rằng Thiên Chúa đã cho phép, đã muốn điều ấy như một sự chuẩn bị, một sự thanh luyện”. Trong một thời gian khi đang thờ lạy, trong sự lột bỏ rất mạnh mẽ, bà đã “như được chìm ngập trong Thiên Chúa”, trong chính bản thể Thiên Chúa, trong thiên tính, như lời bà nói. Rồi bà đã nhận được “sự hiểu biết về phụ tính thần linh, của Thiên Chúa và của Chúa Cha”, và sự hiểu biết về tình yêu của Cha dành cho linh hồn con người: “... không phải trong tình yêu của linh hồn đối với Thiên Chúa, nhưng trong tình yêu khôn ví khôn tả của Thiên Chúa đối với linh hồn”. Ít lâu sau, ngay trong cùng buổi chiều ấy, bà đã nhận được một sự hiểu biết đầy trìu mến của Chúa Con và của tình yêu khôn tả Chúa Cha dành cho Con của Ngài, rồi bà đã nhận được sự hiểu biết về huyền nhiệm Cứu chuộc, về sự cứu độ nhờ máu Đức Kitô: “Tôi đã thấy trọn vẹn lòng thương xót trong máu, tôi đã thấy rằng mọi linh hồn, trong ý muốn của Chúa Cha, được thanh luyện, được rửa sạch, được thánh hóa trong máu này nhờ Máu tuôn đổ một cách huyền nhiệm.” Nói cách khác, chiều hôm đó bà đã gặp hai trong Ba Ngôi thần linh, mà từ đó bà luôn cảm nhận hiện diện liên lỉ trong bà. Nhưng sứ mạng thiêng thiêng của bà vẫn chưa sáng tỏ trọn vẹn.

Ngày 9 tháng giêng 1940, Chúa lại tỏ hiện thêm một lần nữa với bà: “Tôi đã nhận biết lần đầu tiên Chúa Chúng Ta hiện diện trong tôi với tất cả sự viên mãn của chức vụ tư tế của Ngài [...] Ngài tỏ cho tôi [...] các chiều sâu thẳm của chức vụ ấy và đưa tôi ngụp lặn trong đó. Đó là một điều thuộc về trật tự các ơn thuộc bản thể, tác động cách trực tiếp và độc nhất đến trung tâm của linh hồn, và lưu lại đó một dấu ấn không thể tẩy xóa sẽ thâm nhập vào vĩnh cửu.” Ngày 3 tháng giêng 1941, trong cùng một đường lối của chức tư tế cứu độ của Đức Kitô, bà thấy mình được cứu rỗi nhờ Máu Chúa Giêsu: “Quá khứ của tôi như một vực thẳm, và Bửu Huyết lấp đầy nó; Máu ấy lấp đầy tất cả, và vực thẳm biến mất, và Bửu Huyết đã tràn trào phủ lấp mọi sự [...] Tôi đã nhìn với hết sức mình: vực thẳm không còn là một vực thẳm đắng cay và tội lỗi nữa, nhưng tận nơi sâu thẳm và với hết khả năng của mình, nó đã trở nên quý giá như Máu, quý giá nhờ Máu, và ngay chính vì sự dữ này mà Chúa đã chọn vực thẳm ấy để đổ tràn Máu vào.” Sau ơn nhận được lần thứ bốn, ngày 9 tháng giêng 1941, đến ngày thứ sáu tuần thánh, 12 tháng tư 1941, bà đã nhận được tiếng gọi tự hiến cho Vinh Quang của Chúa trong chức tư tế của Ngài: “Bấy giờ tôi đã thấy một chuỗi huy hoàng, một khối hợp nhất tráng lệ, một con dốc Vinh Quang, từ tận chân lên tới đỉnh, bởi chức tư tế của Đức Kitô: và sự việc trở nên đơn giản.”

Nói cách khác, Marie Chúa Ba Ngôi đã nhận được một ơn gọi ngay bên trong ơn gọi tu trì. Ơn gọi này, trong trường hợp của bà, thuộc trật tự huyền nhiệm, và không có ai nghi ngờ về ơn gọi ấy cho đến khi bà chết, ngoại trừ các vị đồng hành tâm linh của bà. Bà đã nhận được tiếng gọi hợp nhất với chức tư tế của Đức Kitô. Dĩ nhiên, đó không phải là sự phong chức linh mục, nhưng là sự hợp nhất trong hiến dâng và cầu nguyện. Ngài đã cho bà hiểu được rằng thế giới tội lỗi biết chừng nào, nhưng Đức Kitô cũng dùng Máu châu báu của Ngài để cứu vớt nó biết bao nhiêu, và điều ấy làm Trái Tim Chúa Cha vui mừng biết bao. Bà đã có thể kết hợp vào chuyển động tình yêu của Đức Kitô vốn đã định hướng và lấp đầy đời bà như từ bên trong.

*

Các thí dụ mà chúng ta vừa nêu ra liên quan đến những người đã thành công trong đời mình và đã nhận được sứ vụ mà Thiên Chúa chuẩn bị cho họ. Họ đã đi tới cùng sứ vụ này, hoặc bằng hoạt động bên ngoài, hoặc đơn giản bằng kinh nguyện và đời sống huyền nhiệm.


Tuy nhiên, ta đừng tưởng rằng đó là những sự việc ngoại lệ. Mỗi người trong chúng ta là đối tượng của một tiếng gọi tương tự. Ta phải cầu xin Chúa tỏ lộ tiếng gọi ấy khi đến thời đến buổi, phải ước ao nhận biết tiếng gọi đó, và sống trong tình yêu và ân huệ hằng ngày trong lúc chờ đợi tiếng gọi ấy được vén mở.

(Còn tiếp)