BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU QUAN HỆ NGÔN NGỮ
CỦA CÁC NHÓM TỘC LẠC VIỆT CỔ
Bài viết đã
gởi hội thảo Nghiên cứu ngôn ngữ, văn hóa, giáo dục Trung Quốc-Việt Nam tại
Nam Ninh, Quảng Tây ngày 16/12/2011
Xem:
I. Đặt vấn đề :
Việc các nhóm người thuộc các ngữ hệ
khác nhau Choang, Lê (ngữ hệ Thái-Kadai), Di (ngữ hệ Hán Tạng), Việt, Mường
(ngữ hệ Môn-Khmer) đều được sử sách Trung Quốc gọi chung là Lạc Việt hẳn
phải có một lý do nào đó. Về văn hóa thì các nhóm này có đặc điểm nổi bật và
dễ thấy nhất là có sử dụng trống đồng, nhưng còn về ngôn ngữ, chữ viết thì
sao? bài viết này bước đầu sẽ chỉ ra một vài điểm chung trong ngôn ngữ của
các nhóm tộc Lạc Việt, về chữ viết sẽ có một bài khác.
II. Một số tư liệu về quan hệ ngôn
ngữ trong nhóm Lạc Việt:
1. Ngựa (mã
馬):
Phần lớn các nhóm Tai-Kadai (trong đó
tộc Choang là chính) đều gọi ngựa là "Mã", giống với tiếng Hán, nhưng vẫn có
một số nhóm gọi khác ! Hình chụp trên cho thấy Ba Cáp và Lang Giá gọi ngựa
là "nga", Hạn Lạp Cáp đọc là "ihɛ", người Lê gọi là "ka" (tạm không quan
tâm tới dấu thanh).
Tra trên bản đồ Google thì Lang Giá
郎架
ở Quý Châu, còn Ba Cáp
巴哈
ở phía bắc tỉnh Quảng Tây, sát gần địa giới tỉnh Quý
Châu chứ không gần biên giới Việt Nam, cả hai vùng này đều khá xa với vùng
đồng bằng sông Hồng là đất bản bộ của người Việt, vậy mà lại gọi con ngựa là
"nga" rất giống người Việt !
2. Ngủ (thụy
睡):
Tương tự từ "ngựa" là từ "ngủ". Các
nhóm Tai-Kaidai chính là Choang và Đồng gọi là "nin", "nun" (đọc gần như
"nân" người Tày đọc là "nòn" (theo Từ Điển nôm Tày, Hoàng Triều Ân chủ
biên). Nhưng An Thuận gọi là "ngka", Lục Chi và Ba Cáp gọi là "ngu", Lang
Giá là "?u". Thủy Lạp Cáp là "ngau", Hạn Lạp Cáp là "?ow", Lê là "kau"...
Đều có liên hệ gần với tiếng Việt "ngủ", trong đó Lục Chi và Ba Cáp trùng
hoàn toàn với tiếng Việt "ngu" (nếu không quan tâm thanh điệu).
Điều đáng quan tâm nữa là, An Thuận ở
ngay gần Quý Dương thủ phủ tỉnh Quý Châu, còn đặc khu Lục Chi ở khoảng giữa
tỉnh Quý Châu giáp với tỉnh Hồ Nam, cũng giống như An Thuận là rất xa biên
giới Việt Nam hiện nay, còn Ba Cáp tuy ở Quảng Tây nhưng sát địa giới Quý
Châu chứ không gần biên giới với VN (xem bản đồ :
Trên diễn đàn Việt học (viethoc.org)
người viết đã dẫn trang WEB của chính người TQ ([www.12edu.cn] style="font-size: 14.0pt" lang="VI">
), trang đó đã gọi vùng lưu vực sông Tương ở Hồ Nam
là "Cổ Lạc Việt Chi Địa", mà từ Lục Chi xuôi theo dòng Trường Giang không xa
là tới vùng Tương Giang đổ vào Hồ Động Đình, là đất cổ của người Việt (Kinh)
theo truyền thuyết.
Chú ý âm "ngka" của An Thuận có thể
dùng làm trung gian giải thích âm "ka=ngựa" và "kau=ngủ" của người Lê ở Hải
Nam, có thể âm cổ xưa là "ngka" và "ngkau", về sau tiếng Lê đã rụng tiền âm
tiết "ng-".
3. Đầy (mãn
滿):
An Thuận gọi đầy là "tei" (tây), nếu để
ý rằng phụ âm "đ-" của tiếng Việt vốn tương ứng "t-" của tiếng Mường, còn
bảo lưu nhiều tiếng Việt cổ, tức là thời xưa tiếng Việt đọc "đầy" là "tầy",
thì có thể nói rằng tiếng "tây" của An Thuận hoàn toàn giống tiếng Việt Cổ.
4. Về chữ "ngưu" là "bò" hay "trâu" ?
Trích "Đồng-Thái ngôn ngữ dữ văn hóa",
xem tài liệu tham khảo (3) :
Tư liệu sách của TQ ở hình trên thấy
trình bày khá dài, viện dẫn tới cả âm thượng cổ (nguyên thủy Đồng Thái ngữ,
xin tóm lược như sau:
- Thủy ngưu là con trâu được xác định
là sản vật riêng của Lĩnh Nam, âm đọc khá thống nhất là "vai" (tiếng Choang)
hay gần như "kuai" (tiếng Thái).
- Hoàng ngưu tức con bò thì tên gọi có
nhiều sai biệt.
Nhóm 1 : "po, pu, peu..." gần với "bò"
của tiếng Việt
Nhóm 2 : "mo, mua..." gần với âm "mò",
là con bò trong tiếng Mường
Nhóm 6 : "ngu, ngiu..." chắc do ảnh
hưởng của tiếng Hán (ngưu
牛,
âm pinyin là niu).
Còn các nhóm kia khá lộn xộn, trong đó
có nhóm Choang Liễu Giang gọi bò là "tsw" tức là gần với "tru" của tiếng
Việt-Mường cổ, chính là con trâu, và một nhóm Choang nữa ở Vũ Minh gọi là "ɕɯ",
cả "tsɯ" và "ɕɯ"
đều có liên hệ ngữ âm gần với chữ "sửu" trong tên 12 con giáp.
Các thông tin trên cho thấy quan hệ móc
nối dây truyền : Sửu=>Tru=>Trâu=>Ngưu=>Bò mà tác giả Nguyễn Cung Thông từng
đề cập trong thuyết về "nguồn gốc VN của 12 con giáp" không phải không có
căn cứ.
5. Tư liệu bổ sung về tên gọi con trâu
trong tiếng Di:
Về nhóm người Di (Bộc), vốn là nhóm tộc
bản địa cổ xưa ở vùng trung lưu Trường Giang (Hồ Bắc và Hồ Nam), địa bàn cư
trú khá gần nhóm Lạc Việt (có tài liệu TQ nói lưu vực Tương Giang "cổ Lạc
Việt chi địa" cũng từng có người Di Bộc sinh sống). Ngôn ngữ nhóm này hiện
được xếp vào họ Hán Tạng, nhưng có thể đã có nhiều tiếp xúc trao đổi với các
nhóm Lạc Việt, ví dụ từ "ngưu
牛"
(trâu-bò) tiếng Di là "lɯ" (đọc gần như lu), khá gần với "t-lu", "tru",
"trâu" trong ngôn ngữ Việt-Mường cổ, xin xem hình chụp lại từ cuốn "Trung
Quốc thiểu số dân tộc ngôn ngữ":
Tên địa danh của các nhóm Di-Bộc cũng
thường có tiền âm tiết "cổ", "cù", "kẻ" giống các nhóm Lạc Việt, xem phần
dưới.
6. Thổi
吹:
Liên Sơn và Phù Tuy gọi "xuy
吹"
là "tshui" gần với "thổi" của tiếng Việt (xuy hỏa=thổi lửa) .
6. Hợi, Đồn = Cúi, Lợn.
Các nhóm tộc chính trong ngôn ngữ
Tai-Kadai đều gọi con lợn (heo, dã trư
野猪)
là "mu". Riêng nhóm Choang vùng Liễu Giang và Nghi Sơn gọi là "hjai" gần với
"hợi 亥",
theo nhà nghiên cứu Nguyễn Cung Thông thì "hợi" có nguồn gốc từ "cúi" của
người Việt. Ngoài ra có các nhóm Ung Bắc, Khâu Bắc còn gọi dã trư là "tun",
"tu:n", cũng gần với âm "đồn" là tiếng gọi con lợn ở một số địa phương VN.
Tra cứu địa đồ lần nữa thì Liễu Giang
và Nghi Sơn đều ở phía bắc của Nam Ninh, thủ phủ Quảng Tây, chứ không phải ở
vùng biên giới tiếp giáp VN.
7. Khâu Bắc gọi ba tiêu
芭蕉
là "chuối" (cây chuối) :
8. Vũ Minh gọi "kỵ
騎"
là "cưỡi":
III. Quan hệ trong các tên địa danh
Lạc Việt.
Tư liệu từ sách “Đồng-Thái ngữ ngôn dữ
văn hóa”, Lý Cẩm Phương, Dân tộc xuất bản xã, Bắc Kinh, 2002. Trang
289 -290 :
Lược dịch:
Các từ chỉ địa danh Câu
(cẩu ), Cô, Giao phân bố khắp cả đông tây của đất Bách Việt như: Câu chương,
Câu dung, Câu ngô, Câu vô, Câu dịch, Câu dương, Câu Dũng đông, Câu dư chi,
Câu đinh, Cô hùng di, Cô phát nhiếp phản, Cô mạc, Cô hạ, Cẩu lậu, Cô tô, Cô
tăng, Cô miệt, Giao chỉ.
Các chữ đầu địa danh có
lúc có thể tỉnh lược, như Câu Dịch, Câu Dũng Đông cũng viết Dịch, Dũng Đông,
điều này cho thấy chữ “câu” là chữ đặc trưng để chỉ tên. Các chữ chỉ tên này
có âm thượng cổ Hán ngữ là : câu=ku9, cẩu=*kugx , cô=*kag,
giao=*kragw. Các chữ đó đều thuộc Kiến mẫu (見),
có vận bộ gần nhau, nên âm đọc rất gần, đều là chữ ghi âm tên chỉ làng xóm
trong các nhóm Bách Việt.
Nhóm ngữ tộc Đồng - Thái
có nhiều thứ tiếng, mà đều gọi thôn trại là “bản”, Tráng tộc còn đọc là ka1baan3,
âm đầu “ka1” (ke) chỉ dùng làm từ đứng đầu tên thôn trong Tráng
ngữ (chứ không dùng đơn), hiện nay thường được viết là "gia": Gia vi, Gia
đảng, Gia đồn, Gia phong, Gia hoà, Gia thị vân vân ...
Các kiểu địa danh này số
lượng không thật nhiều nhưng địa vực phân bố lại rộng, nhiều khả năng là di
tích cổ ngữ.
Tiếng Ngật Ương còn bảo
lưu khá nhiều thành phần Đồng Thái ngữ cổ xưa, tiếng Ngật Lão trong địa danh
13" (Loan tử trại), ở Bình Bá có qɒ33mpau73
(Cẩu trường). Các âm câu, cô, giao với ka, qă khá gần nhau, chính là ghi âm
của từ đầu chỉ địa danh vùng Bách Việt (chủ yếu là tên xóm làng).
Giao Chỉ
阯 về sau viết Giao Chỉ
趾, người xưa nhìn chữ mà sinh
nghĩa, nên nói “Người phương
Nam, ngón chân cái cong vẹo, khi đứng thẳng
thì các ngón chân này giao nhau, nên thành danh !”. Phạm Thành Đại đời Tống
trong “Quế hải ngu hành chí” từ rất sớm đã phê phán, bác bỏ cách giải thích
này. Sau đời Hán tại quận Giao Chỉ cũ từng lập các huyện Giao Hưng, Giao
Cốc, chữ Giao đó vẫn là theo từ đầu địa danh trong tiếng Bách Việt mà ra.
Câu còn dùng làm từ đầu
trong tên người vùng Bách Việt, như: Câu Tiễn, Câu Dư.
Các từ này với các từ chỉ
địa danh vốn bất đồng. Đồng Thái ngữ có một số danh từ chỉ người mà chữ đầu
có âm gần với “câu ”. Chẳng hạn như: Mao Nam có từ ka6laau4
(trượng phu ), Thuỷ có qa3man1 (tha môn ), Ngật Lão
có qɒ3tau5 (nam nhân ), qɒ33ʐɒ13
(nữ nhân ). Chữ "câu" ở đầu các tiếng chỉ người này có khả năng liên quan
với các từ chỉ tên người, chính là chữ thường đặt ở đầu tên người trong Bách
Việt ngữ.
Toàn bộ đoạn trên trích từ
sách của TQ, cho thấy chính các nhà nghiên cứu người Trung Quốc cũng đã
thẳng thừng bác bỏ lối giải thích mang tính miệt thị, rằng tên gọi Giao Chỉ
nghĩa là “ngón chân giao nhau” !
Các địa danh bắt đầu bằng
tiếng Kẻ (như Kẻ Chợ, Cổ (như Cổ loa) có mặt dày đặc trên vùng đồng bằng
bắc Bộ và Thanh Hóa, đều có quan hệ với các âm cô, cẩu, giao, gia… của các
nhóm tộc Choang, Di ở TQ.
Sau đây phân tích kĩ hơn
tên gọi Kẻ Chợ:
- Nhiều bài viết (như
bài viết của GS Ngô Đức Thọ trên Văn hóa Nghệ An:
đã khẳng định Giao Chỉ 郊
阯 chính là
phiên âm của Kẻ Chợ:
Trên trang
WEB :
cũng chú chữ “giao郊”
có thượng cổ âm là “ke?” (Xem phần “Cơ bản giải
thích”, mục “Âm vận tham khảo”), âm này trùng với âm Việt cổ “kẻ”, gián tiếp
khẳng định “giao chỉ”= “kẻ chợ”.
- Âm thượng
cổ của 郊
theo Karlgren phục nguyên là
ko ̆g
, còn Vương Lực phục nguyên là
keô,
có lẽ dạng ko ̆g
đã đưa đế âm “cổ”, còn dạng
keô
có thể đưa đến cả âm “kẻ” và “cổ”, cả cai dạng này đều cực kì thông dụng
trong các địa danh ở đồng bằng Bắc Bộ, như Cổ Loa, Kẻ Lũ .v.v. xem thêm tư
liệu :
[vanhac.org] style="font-size: 9.0pt">
- Chợ tức
“thị” 市
Vương Lực khôi phục âm thượng cổ là
ʑiə
khá gần âm “chợ” của tiếng Việt, “chỉ” “阯
hay 趾”
cũng thế, Vương Lực khôi phục âm thượng cổ là
tɕiə ,
Baxter khôi phục là
tjəʔ , cũng gần với âm “chợ” của người Việt.
- Nảy ra
câu hỏi vì sao người TQ khi lập chính quyền đô hộ lại đặt tên nước ta là
“Giao Chỉ 交阯”.
Theo phân tích của chúng tôi thì tên Giao Chỉ= Kẻ Chợ là do người ở vùng đất
Ngô-Sở-Việt đã dùng để gọi đất nước Văn Lang từ lâu trước thời Tần, dựa theo
tên của vùng kinh đô Văn Lang mà người Văn Lang gọi là Kẻ Chợ, người vùng
Ngô-Sở-Việt thời Tiên Tần đã ghi âm “chợ” bằng chữ Hán “chỉ”, đến thời Hán
khi thôn tính Văn Lang và đặt thành quận huyện thì người Hán cũng chỉ dùng
lại tên và chữ có sẵn thời tiên Tần đó thôi. Chú ý là Sử Ký của Tư Mã Thiên
và sách Quế Hải Ngu Hành Chí của Phạm Thành Đại đời Tống đều dùng chữ chỉ bộ
phụ 阯,
không phải chữ chỉ 趾
là chân. Còn nghĩa “ngón chân” của
趾
thì tra Khang Hy tự điển cũng không hề có, không hiểu
từ thời nào có cách giải thích tầm bậy “chỉ là ngón chân, nên giao chỉ là
ngón chân giao nhau”. Phải chăng vì đã có chữ chỉ bộ thủ
指 là
ngón tay nên người ta liên tưởng ra chỉ
趾
bộ túc phải là ngón chân? trong khi thực ra nó có
nghĩa là chân chứ không phải riêng ngón chân.
Chú ý câu
"Mầy ở kẻ nào?" đã có trong Từ điển Việt Bồ La của A.D. Rhode, 1651 - nghĩa
là "Quê bác ở đâu? ...", rõ ràng kẻ có nghĩa là “vùng”, “xứ”. Còn chợ thì
Chỉ Nam Ngọc Âm có chú “Bang Kỳ - Kẻ Chợ khỏe bền muôn thu”, tức chợ là chỗ
kinh đô, tương đương thị
市
trong chữ thành thị 城市,
chứ không phải chỉ có nghĩa hẹp “chợ là chỗ mua bán”.
Bang kỳ: KẺ CHỢ khoẻ bền muôn
thu
邦畿:几助劸卞門秋
(Ảnh từ các bản
Chỉ Nam Ngọc Âm do GS Ngô Đức Thọ công bố
- Nhân tiện
bàn thêm về tên thành "Cổ Loa
古螺"
thời An Dương Vương, đây chắc chỉ là phiên âm Hán của một tên Nôm, chữ Cổ ở
đầu là từ chỉ địa danh, cũng là một dạng phiên âm của “kẻ”, chứ không có
nghĩa là "cổ, cũ" như nhiều người hiểu lầm (thời An Dương Vương thành vừa
mới xây xong, làm sao lại cổ được ?)
Tài liệu tham khảo:
"Về niên đại ra đời chữ Nôm Choang
và chữ Nôm Việt" [Discussing about the history arising of Zhuang script
and Nôm script], Tạp chí Hán Nôm [Han Nom Research Quartely], No. 1
(104)/2011.
“Đi tìm lý giải khoa học về con số hơn bốn ngàn
năm lịch sử Việt Nam”
[In search for a scientific evidence for the 4,000 year history of
Vietnam], Tạp chí Nghiên Cứu và Phát
Triển [Journal of Research and Development], No. 5(82)/2010
"Đồng-Thái ngôn ngữ dữ văn hóa", Lý Cẩm Phương,
Dân tộc xuất bản xã, Bắc Kinh - 2002.
“Từ điển chữ Nôm Tày”, Hoàng Triều Ân chủ biên,
Trung tâm khoa học xã hội và nhân vǎn quốc gia, Viện nghiên cứu Hán Nôm,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội - 2003.
Cổ Tráng tự tự điển “古壯字字典”,
tổ trưởng tổ biên tập Tô Vĩnh Cần
苏永勤, Quảng Tây
Dân tộc Xuất bản xã. 1989. Bản điện tử (PDF).
中国音韵学研究(
高本汉
法语原著)Bernhard
Karlgren Etudes Sur La Phonologie Chinoise (Stockholm 1915 - Gotembourg
1926). Bản PDF.
中上古汉语音的纲要、
高本汉、
齐鲁书社、
济南。
1987
The Austroasiatics in Ancient South China,
梅祖麟言语学论文集。
商务印书馆出本。2000。
Trung nguyên âm vận (Chu
Đức Thanh, 1324, bản scan không có thông tin năm
in lại)
"A Handbook of Old Chinese
Phonology" GS William Baxter (1992, New York, Berlin).
王
力
“古
漢
語
字典”,Vương
Lực “Cổ Hán ngữ tự điển”.
“從原始漢藏語到上古漢語-以及原始藏緬語的韻母演變”
. 龔煌城
Cung Hoàng Thành
中央研究院 ,
第㆔屆國際漢學會議論文集語言組 2003.
中国少数民族语言 Trung Quốc thiểu số dân tộc ngữ ngôn, Tứ Xuyên Dân tộc
Xuất bản xã. 1987. Bản điện tử (PDF).
中国少数民族语言Trung Quốc thiểu số dân tộc văn tự. 1991, không có thông
tin NXB và tác giả vì không có trang bìa. Bản điện tử (PDF).
Giáo trình Lịch sử ngữ âm tiếng Việt. Nguyễn Tài
Cẩn, NXB Giáo Dục, Hà Nội. 1995
Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán
Việt. Nguyễn Tài Cẩn. NXB Đại học Quốc gia , Hà Nội. 2000
Các trang mạng :
bản đồ tỉnh Quý Châu
[baike.baidu.com] lang="FR"> trang
nghiên cứu về chữ Choang
[www.12edu.cn] lang="FR">
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét