Các Trang

Thứ Hai, 14 tháng 10, 2024

Thần học thiêng liêng (tiếp theo)

 


Huyền nghiệm: tiến trình

Tiến trình huyền nghiệm, hay chiêm thiên phú, bắt đầu với cung bốn hay cách tưới hai, được gọi là An tĩnh (quiétude). Kế đó đến Hoàn hiệp (union pleine), đến Xuất thần (extase) cũng gọi Ðính hôn thiêng liêng (fiancailles spirituelles), để rồi tận kết với Hôn nhân thiêng liêng (mariage spirituel).

Với An tĩnh, Chúa chỉ xâm chiếm ý chí (theo Tiên sa), xâm chiếm có lẽ mới đến "mũi nhọn linh hồn" gì đó. Với Hoàn hiệp, Chúa lấn thêm các "khiếu năng bên trong" (facultés intérieures) là trí hiểu (entendement), trí nhớ và trí tưởng (imagination). Có lẽ phải thêm cảm tính nữa, dù không được nói đến. Khi Chúa tiến ra đến giác quan và thân xác (trở nên cứng đơ), thì có Xuất thần. Theo Tiên sa, khi từ trong ra đến ngoài, tất cả được Chúa chiếm lĩnh một cách thường hằng và vững chắc, trong hành cũng như chiêm, thì người ta đạt Hôn nhân thiêng liêng.

Theo các nhà tu đức học, thì huyền nghiệm diễn ra cốt yếu không ở các khiếu năng thường, mà ở "mũi nhọn linh hồn" nào đó. Theo siêu tâm lý học Ấn độ cổ, huyền thức sinh ra từ cái khiếu năng siêu vi, vượt mọi khiếu năng thường, và đó là Buddhi, tuệ trí. Buddhi tuy chưa phải tinh thần, nhưng giãi sáng tinh thần. Buddhi là đỉnh chót của tâm nó tiếp xúc trực tiếp với Tinh thần thuần túy (Purusïa).

Tâm lý học ngày nay đã khám phá vùng tối tăm hay vô thức ở tâm, tại đấy cũng có biết, muốn, cảm, nhưng bằng thứ biết, muốn, cảm xa lạ với khiếu năng biết, muốn, cảm thông thường. Lại xem ra càng vào sâu vô thức, thì biết, muốn và cảm càng khó phân ly và phân biệt với nhau.

Vậy khi Tiên sa nói rằng Chúa chỉ xâm chiếm ý chí, chắc chị đã diễn tả kinh nghiệm khó hiểu, "gió không biết từ đâu" (Yo. 3.8) này theo hiểu biết tâm lý của người thời ấy. Thiết tưởng chị muốn nói đến cái sức hút ở bề sâu không đáy, mà lý trí đã không hiểu, lại chưa có phần nữa, nên còn cựa quậy, lang thang.

Chúng ta biết rằng cái thiên phú thì từ trong tiến ra, nên không phát hiện từ ngoài được. Cái thiên phú đã sẵn đó ở đáy vô thức, và đây là việc biết và yêu Chúa bởi ân sủng. Biết và yêu ở đây là do Tín-Vọng-Ái thiên phú, nên cũng vô thức luôn. Khi tầng ý thức (conscient) và tiền thức (préconscient) đã được quét dọn và sửa sang để chỉ còn hướng đi Ý Chúa, thì ánh sáng và sức nóng thiên phú kia sẽ tỏa dần đến vành đai, để do ân Chúa có thể lấn sang ý thức phần nào, khiến nó lóa mắt và kinh ngạc trước một cái gì chớp lên từ bề sâu, cái như vô sắc vô thanh đối với lý trí. Chỉ khi sức hút từ trong đủ mạnh, thì các khiếu năng bị hút theo cũng bặt im luôn. Im tiếng cuối cùng sẽ là cảm giác nó kéo theo sự ngưng trệ hoạt động của các chức năng thực vật.

Xét về hình thức và biểu hiện, huyền nghiệm Kytô-giáo khá giống với Samâdhi (đại định) Ấn, Phật giáo. Samâdhi là một kinh nghiệm đơn giản và diệu kỳ, gồm nhiều cấp nhưng quy về hai cấp chính: cấp hữu thức hữu niệm (samïprajnỵâta) và cấp siêu thức siêu niệm (a-samïprajnỵâta). Gọi hữu thức hữu niệm khi mà tri thức dù huyền bí và đơn giản, vẫn còn hiểu được bởi ý thức và qua ý tưởng. Ðồng thời vẫn còn đối tượng được biết khác với chủ thể biết, dù chủ thể nằm trong đối tượng ấy. Ánh sáng khi đó thật chói chang và niềm hoan lạc lớn lao.

Khi hoan lạc như tan ra trong một an tĩnh dị thường ở bề sâu, thì xem ra chỉ còn tinh thần thuần túy, cũng chẳng còn phân biệt vui buồn, khách (đối tượng) chủ nơi sự an định sâu xa và thoát tục này. Vâng, ánh sáng đã trở nên trong suốt, nên thấy hết mà chẳng thấy chi (rõ ràng ở đường nét, hình danh). Lại thấy đồng thời (chứ không theo diễn tiến trước sau của tư tưởng), thấy trong cùng một lóe chớp (sphutïa) bên trong và bằng một trực giác siêu thường (param pratyaksïam) nó đi thẳng đến đối tượng cụ thể, không trừu tượng. Và đây là đại định siêu niệm, siêu ý thức.

Trong giai đoạn trực tri này, mọi cảm giác và tư tưởng đều bặt im, khiến ta có thể gọi bằng ngôn ngữ Tiên sa là Xuất thần. Vì theo Tiên sa, trong xuất thần, mọi khiếu năng đều ngơi nghỉ, và cảm giác cũng "treo" luôn. Vậy xét về biểu hiện và hình thức, đại định siêu ý thức quả là Xuất thần. Còn đại định trước có gì khá giống với An tĩnh (Oraison de quiétude) khi mà, như Tiên sa diễn tả, ý chí được xâm chiếm nên lặng yên, còn mấy khiếu năng kia vẫn lang thang, nghĩa là còn hiểu biết, tư tưởng và lý luận.

* * *

Trở lại với Lâu đài của Tiên sa Avila, chúng ta hãy bắt đầu với bước thứ nhất:

An tĩnh (quiétude)

Huyền nghiệm khai mạc với An tĩnh khô khan (aride) nó chuẩn bị cho An tĩnh chính yếu là ngọt ngào (suave).

An tĩnh khô khan là một thứ đêm tối giác cảm, tối không do thiếu sáng cho bằng chói sáng, theo giải thích của Yoan Thánh giá. Vâng, Thiên Chúa bắt đầu gửi đến một ánh sáng hoàn toàn mới, hoàn toàn mạnh, khiến anh tối tăm mặt mày. Ðây là tri thức từ đức tin thiên phú, ở đáy vô thức chiếu lên. Ðây là sức nóng từ đức Ái thiên phú ở tinh thần tỏa đến. Bên trong và bên ngoài bắt đầu đối mặt. Vì đối mặt lần đầu nên chưa nhận ra nhau: tối tăm và khô khan là do đó. Không còn suy niệm, tức hành ý (discourir) được nữa, mà cũng chẳng còn cảm, hưởng chi.

Tuy không thấy sốt sắng như trước, nhưng tình yêu (ưa chuộng, d'estime) lại mạnh, khiến khổ vì vắng Chúa, lo vì sợ phiền lòng Ngài. Lại yêu thích thanh vắng và chẳng thiết gì cả. Chứ nếu khô khan trước Chúa mà chẳng ngán thụ tạo, thì đó không phải đêm tối, không do Chúa làm đâu.

Những cám dỗ có thể xảy ra trong kỳ này là cám dỗ đức tin, cám dỗ nhục dục, cám dỗ kiên nhẫn.

Khi tâm hệ phía ngoài đã quen với ánh sáng mới và tình yêu Chúa (yêu mà không thấy nóng) đã dọn quang rác rưởi của yêu mình, thì hồn sẽ hưởng một hoan lạc chưa từng biết, và đây là An tĩnh ngọt ngào (quiétude suave). Cái vị ngọt này không phát sinh mảy may từ cảm tính bề mặt, mà thấm từ sâu thấm ra, khác hẳn với thứ vượng cảm gặp trước đây trong chiêm thủ đắc (acquise) (Tiên Sa Avila phân hẳn vị ngọt ấy, mà chị gọi là Goût, khẩu vị, ra khỏi vượng cảm thông thường mà chị gọi là Contentement, vừa lòng - Lâu đài IV.1). Tuy tình cảm dạt dào, nhưng chìm trong thanh tĩnh. Sức hút mãnh liệt, khiến hồn neo vững ở bề sâu, dù bên ngoài còn sóng nhỏ vật vờ do lý trí và trí tưởng lang thang. Sức hút rồi có thể từng đợt mạnh hẳn lên, và một khiếu năng nào đó bị chiếm đoạt trong một thời gian ngắn ngủi.

Sức hút bề sâu và an định ngọt ngào sẽ bón thúc cho vườn đức hạnh trổ hoa muôn sắc, và ngăn cản thế tục không cho lôi kéo anh nữa. Thế nhưng sự ngọt ngào kia chỉ đến như từng cơn thủy triều, khiến cho nguy cơ tuột dốc còn đó, và hồn không thể lơ là canh gác được. Ngay cả lúc Chúa viếng thăm, hồn vẫn nhiều ít phải cố gắng. Ðây là cố buông mình theo ơn Chúa thúc động, cố kìm giữ cho khiếu năng khỏi khuấy động giấc ngủ thiêng liêng. Cố nữa đôi lúc để thêm một cọng rơm cho lửa đang cháy bằng một cái liếc mắt, một lời thở than ngắn ngủi. Vâng, một cọng rơm là đủ, chứ cả mớ củi (của lý luận hay bài kinh) có thể làm lửa kia tắt mất.

Ngoài những khi lửa cháy mạnh như thế, hãy lưu ý kẻo do sai lỡ, do tự mãn tự phụ mà lửa Ái ấy lụi tàn. Hãy tự khiêm và nuôi dưỡng lòng kính sợ. Hãy nhớ kỹ rằng chỉ có Chúa là tác giả của cơn say thiêng liêng kia, còn tôi chỉ việc ngửa tay đón nhận. Chẳng có thể tạo ra nó, tôi cũng không giữ nó nổi thêm một giây, do đó đừng gồng mình lên làm gì, chỉ hại thần kinh vô ích.

Nhiều kẻ yếu thần kinh, hễ tưởng gì thấy nấy, và đó là hoang tưởng, rất nguy hiểm. Nên nhớ, kẻ yêu Chúa thật là kẻ tìm Chúa chứ không tìm an ủi hay những kinh nghiệm lạ. Nhất là khi trong cái chuộng lạ, còn ẩn ngầm tính háo danh.

(Còn tiếp)
- Trích từ tác phẩm "Thần Học Thiêng Liêng" của Lm. Hoành Sơn - Hoàng Sỹ Quý, SJ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét