Các Trang

Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2024

Đạo làm người



Tác giả: Hoàng Sỹ Quý, SJ.

 

Ý thức luân lý

 

Con vật chỉ phản ứng theo bản năng, nghĩa là cái bản năng “trời ơi” ấy làm thay cho nó hết. Duy chỉ con người mới hành động thật, nghĩa là làm tự mình, do lý trí soi lối và ý chí quyết định. Nên khởi động là ở việc cân nhắc và quyết định này, chứ không phải ở hoạt động cơ bắp và thần kinh. Chính vì thế, đắn đo và quyết muốn đã được gọi là hành vi (act) rồi, để khi tòa án luận tội thì phải dựa vào đó mà xét. Vâng, dù anh quyết giết người mà chưa giết được, thì anh đã phạm tội trước lương tâm anh, còn tòa án thì kết tội anh cố ý mưu sát.

 

Sở dĩ con người có trách nhiệm, không về động tác bên ngoài cho bằng về hành vi nội tâm (cũng là nội tại, immanent), vì chỉ nội tâm mới là giang san riêng của tôi, chỉ ở nội tâm tôi mới thực là chủ, là tổng tư lệnh. Ở nội tâm đó, tôi vừa là nhà lập pháp, vừa là quan tòa và kẻ thi hành án luôn. Và đây là lương tri, hay tiếng nói lương tâm.

 

Do đâu mà có cái lương tâm lạ lùng ấy? Freud giải thích nó bằng then máy của Siêu ngã. Đây là uy quyền người cha cùng với những cấm đoán bị “đồng hóa” (identification) hay hội nhập vào đứa bé, thành một thứ Tôi trên tôi nó kiềm chế và kiểm soát tôi. Có điều Freud không cho biết vì sao có cái hương vị luân lý đi kèm, khiến “quyết lệnh luân lý” (impératif moraux) phân biệt với những loại cấm cản, ức chế (inhibition) khác. Lại nữa, cưỡng bách luân lý luôn giả thiết tự do, đến nỗi khi không còn tự do, dù do hoàn cảnh bên ngoài, dù do bệnh tâm thần bên trong, thì cưỡng bách luân lý cũng tiêu tan.

 

Chúng tôi không nghĩ như Nho giáo và các triết gia Cổ Trung Hoa, rằng con người khi sinh ra, nhất là người nguyên thuỷ, đã có ngay những đức như nhân nghĩa trong mình. Mà thực ra, họ chỉ có một thứ nhạy cảm luân lý hay cảm thức thiện ác, để rồi từ thứ nhạy cảm này, với sự trợ giúp của lý trí và kinh nghiệm, sẽ khám phá ra dần dần cái gì là hợp với tính người, tức thiện, và cái gì nghịch lại, tức ác. Chứ hồi đầu, loài người chỉ có một cảm nhận chung chung, nó là một thứ nguyên tắc tối ư tổng quát:

– Điều thiện thì nên làm, điều ác thì phải lánh!

 

Chứ còn cái gì là lành hay ác thì lại khác, khiến cho về lâu về dài và từ vùng trời này đến vùng trời kia, có thể có những quy tắc luân lý cụ thể trái ngược nhau, ít là ở bề nổi và về mặt thực hành.

 

Đạo làm người

 

Nếu Tây Trúc chỉ trọng có tôn giáo, và coi luân lý chỉ có ích trong giai đoạn vô minh, luân hồi thôi; và nếu Tây phương tuy đề cao luân lý đấy, nhưng coi nó là vấn đề riêng của loài người; thì Á Đông chẳng những để luân lý bao trùm luôn tôn giáo – hay nói cho đúng hơn, đặt bổn phận đối với Trời và thần thánh, tức tôn giáo, lồng cả trong Đạo làm người, tức luân lý – mà còn đặt luân lý vào trong cái Đạo tối thượng nó bao trùm cả Thiên Địa Nhân. Vâng, luân lý chỉ là một trong những hiển thể của Đạo, và gốc của nó nằm ở Mệnh Trời.

 

Theo Lão tử, Đạo ở gốc của nó thì không gọi được tên, không định được dạng, không hiển ra bằng đức và quy luật rõ ràng. Và đây mới là Thường đạo. Ngay Trời được coi là gốc của tất cả, thì nơi Trời, Đạo cũng có hai mặt Vô danh và Hữu danh như thế:

Vô danh vạn vật chi thuỷ,

Hữu danh vạn vật chi mẫu.

 

Còn con người, nếu sống đạo sâu xa, đến như thành một với đạo: “đồng ư đạo (1), thì người ta cũng không cần nghĩ đến Đức, huống nữa đức này hay đức kia (2):

“Mất đạo rồi mới có đức,

Mất đức rồi mới có nhân…”(3)

 

Có thuyết cho rằng Nhân đạo là do Trời định, có thuyết lại cho rằng do tự nhiên thôi, không cần Trời phải muốn thế mới thành như thế.

 

Theo tôi nghĩ, nên dung hòa giữa hai ý kiến, bằng cách vượt trên cả luật tự nhiên lẫn thiên ý. Như thế cũng phù hợp với cách hiểu của khoa học hôm nay về đạo của đất, tức quy luật của tự nhiên.

 

Vâng, theo ý tôi, Trời chỉ cần đặt giữa hư không một Thiên mệnh hay ý hướng, để giữa hư không ấy nổ lớn một Bigbang, rồi từ cái bắt đầu nó như có như không, giữa năng lượng và hạt này, mà vật chất sinh ra, vật chất ấy tự tìm lối cho mình hướng về cái mới chỉ là ý Trời hằn in trên nó. Tìm đường, nó phải dò dẫm, mày mò, để rồi mỗi khi tiến được một bước, nó liền để vết cho tất cả sau đó lặp lại (répétition): vết ấy chính là quy luật, chứ quy luật không có sẵn trước đâu. Nên quy luật đúng là tự nhiên, mà cũng đúng là ý Trời. Nếu hướng nhắm của Trời là sự sống, và giữa sự sống là con người, thì nơi con người ấy cũng có một Thiên mệnh chiếu in thành Tính, để với cái Tính lý tưởng và cái Đạo “thường đạo” chung chung này, con người cũng sẽ dò dẫm tìm đường, tự khai phá lấy cho mình một hệ thống các đức và quy luật luân lý chúng hướng dẫn hắn trên đường thành thánh, thành nhân.

 

Hướng nhắm là Đạo, nhưng vững Đạo là ở Đức

 

Tính là cái đích phải vươn tới, Đạo là đường đi nói chung, nhưng thể hiện Đạo ra trong cuộc sống lại là Đức, và cụ thể hơn, là các đức như nhân, nghĩa, v.v… Cho nên để đạt đạo trong điều kiện hiện sinh của loài người, không thể không trui rèn các đức tính, chúng hiển lộ Đạo và làm cho Đạo vững lên:

– Chí vu Đạo, cứ vu Đức

 

Nếu Lão tử chỉ nói về Đạo, thì thực tế hơn Khổng tử chỉ bàn về các đức. Về đức Khổng Khâu kể ra, nào là Cung khoan tín mẫn huệ, nào là Nhân nghĩa lễ trí tín, nào là Kiệm khiêm tiết trực và Trung thứ hiếu đễ. Nhưng đức mà Khổng tử năng nhắc đến và nhấn vào nhiều là Nhân Trí Dũng, là Thành và Trung Dung. Có thể nói đây là những đức trụ (cột) của tòa nhà đạo đức Khổng giáo.

 

Luân lý Hy-La cũng có những đức trụ (vertus cardinales) mà Cicero ghi rõ trong tác phẩm De officiis (Về các bổn phận) của ông, và đây là: Tiết độ, khôn ngoan, công bình và can đảm. Trong bốn đức ấy, có đến ba thuộc cương, còn khôn ngoan thuộc phán đoán hơn nên không kể. Trái lại, trong năm đức trụ Nho giáo, rõ ràng thuộc cương chỉ có Dũng và Thành, và chúng được lòng Nhân nhuần thấm khiến cho ôn dịu lại. Hơn thế, trong tâm ý của đức Khổng, ngũ đức nói trên mang một ý nghĩa rất sâu xa.

 

Cao sâu nhất có lẽ là Thành và Trung Dung, mà Đức Khổng dành cho cả một cuốn sách: sách Trung Dung.

 

Dẫn nhập cho Trung Dung, Trình tử định nghĩa Trung như sau: “Bất thiên chi vị Trung”, không thiên lệch, đó là Trung. Câu nói ấy khiến có thể hiểu là Đừng đi quá, hay Tránh thái quá và bất cập. Quả đúng là có “tránh thái quá và bất cập” đấy, nhưng đây chỉ là kết quả hay cái ngọn thôi. Để hiểu đúng Trung là gì ở gốc của nó, thì cứ việc đọc tiếp liền sau đó, nơi lời diễn giải đầu tiên của Đức Khổng.

Hỉ nộ ai lạc chi vị phát, vị chi Trung;

Phát nhi giai trùng tiết, vị chi Hòa!

(Mừng giận buồn vui khi chưa phát sinh, thì đó là Trung;

Phát sinh mà đúng hợp [với cảnh, việc], thì đó là Hòa)

 

Nói cách khác, Trung có gì giống như trạng thái nội tâm lúc chưa xảy ra biến cố: không ghét, ham, mừng, giận, nghĩa là không nghiêng lệch bên này hay bên kia; để khi biến cố xảy ra rồi, thì phản ứng nếu phù hợp và đúng mức cần, thì đó là hòa hợp với đạo. Vừa đúng mức, chứ không để cho thành kiến, đố kỵ hay quan hệ thân, thù chi phối mảy may, thì đúng là Khách quan rồi. Cũng đúng là Bất thiên (indifferentia) của tu đức học Kitô giáo, tình trạng không thiên lệch giống như khi chưa xảy ra sự việc, để khi xảy ra thì phản ứng đúng mức theo bổn phận và đạo làm người đòi hỏi, chứ không do thiên lệch mà làm quá, cũng không do sợ nể mà bất cập.

 

Thật ra, nếu chỉ Trung thôi thì chưa có gì nói lên tình cảm gắn bó với lẽ phải và sự thật, nên sánh đôi với Trung, cần phải thêm đức Thành nữa. Thành không phải chỉ là nghĩ sao nói thế. Thành trước hết phải là có sao nghĩ vậy, đánh giá đúng như vậy, nghĩa là Thành với tâm và lương tri, và như thế cũng là khách quan, là Trung luôn.

 

Nếu luôn thành và trung với lương tri như thế, thì lương tri không còn chi che khuất, sẽ khiến Đạo ngày càng hiện rõ, thành như trong suốt, và đây là Trí, là Minh: Trí hướng về hiểu biết thuyết lý, còn Minh hướng về cụ thể và thực hành. Vậy Minh là phân định (discernement) nó giúp người ta đánh giá một ý nghĩ là đúng hay sai, cũng như giúp ứng phó thế nào cho hợp đạo trong một trường hợp cụ thể. Một đánh giá có tính thực hành thôi, chứ hiểu tại sao lại thế, thì cần phải Trí nữa.

 

Có điều, để từ phân định mà chuyển thành hành động, thì phải có thêm Dũng, không phải cái “dũng của người phương Bắc” để xông pha giữa rừng gươm lửa đạn, mà cái “dũng của người phương Nam” để chiến đấu với chính mình.

 

Lại nữa, để hành động thẳng ngay mà vẫn còn tính, tình người, thì lại phải có thêm lòng Nhân. Với lòng nhân, người ta dễ cảm thông nỗi khổ của người khác và tôn kính sự sống nói chung, như Trần Trọng Kim nhận xét:

– “Nhân là đầu các điều thiện, chủ bồi dưỡng sự sinh của trời đất” (4).

 

Vì là đầu các điều thiện, Nhân thành đỉnh cao của cả tòa nhà đạo đức, mà ở đấy mọi đức tỏa sáng Nhân và dung hợp với nhan đề làm nên một nhân cách hoàn mỹ, một con người hoàn bị:

– “Quân tử thể Nhân, tức dĩ trưởng nhân” (5).

 

Trong lúc chưa đạt tới đỉnh cao ấy, thì các đức cương nhu đối nghịch phải sánh đôi để mài giũa và bổ túc cho nhau, nhờ đó tránh thái quá hay bất cập. Vâng, trực quá sẽ tàn nhẫn, khoan dung và từ bi quá sẽ nhu nhược và khuyến khích sự ác.


(Còn tiếp)
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét