Các Trang

Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2024

Đường Lên Núi Cát Minh - Quyển 1 - Chương 8: Mê thích khiến linh hồn nên tối tăm và mù quáng

 


ĐƯỜNG LÊN NÚI CÁT MINH
QUYỂN 1

CHƯƠNG 8
MÊ THÍCH KHIẾN LINH HỒN NÊN TỐI TĂM VÀ MÙ QUÁNG*

1 - Tác hại thứ ba mà các mê thích gây ra cho linh hồn là chúng khiến linh hồn thành mù quáng tối tăm. Kìa xem, hơi nước khiến không khí thành tối tăm và ngăn cản không cho mặt trời soi sáng, tấm gương mờ không sao nhận rõ hình ảnh được, nước đục không thể phản chiếu rõ ràng khuôn mặt con người soi mình trong đó. Cũng vậy, linh hồn nào để mình bị các mê thích cầm giữ, thì về phương diện trí hiểu, nó cũng bị mù tối, không còn chỗ cho mặt trời của lý trí tự nhiên cũng như mặt trời siêu nhiên của Đức Khôn Ngoan Thiên Chúa chạm đến và soi sáng. Cho nên tác giả thánh vịnh có nói: "Tội ác con đổ xuống trên mình, làm tối tăm mặt mũi" (Tv 39/40,13).

2 - Chính vì thế, trí hiểu trở thành u mê, lòng muốn bị tê liệt, dạ nhớ trở nên lú lẫn, tóm lại các hoạt động cần thiết của linh hồn đều bị hỗn loạn. Bởi lẽ, về phương diện hoạt động, các quan năng này lệ thuộc vào trí hiểu, nên rõ ràng một khi trí hiểu bị cản trở, chúng cũng thành hỗn loạn mất trật tự. Cho nên vua Đavít mới nói: "Hồn vía con rụng rời kinh khiếp" (Tv 6,4). Tác giả muốn nói các quan năng của linh hồn ông đã bị xáo trộn. Thật vậy, như đã nói, trí hiểu không có khả năng thâu nhận vẻ chói sáng của Đức Khôn Ngoan Thiên Chúa, như thể khí trời đầy mây không có khả năng thâu nhận ánh sáng mặt trời. Lòng muốn không còn bén nhạy để yêu mến Thiên Chúa bằng một tình yêu tinh ròng, cũng như tấm gương bị hơi thở làm mờ đục không còn phản ảnh được rõ ràng nét mặt người soi. Dạ nhớ cũng vậy, bị mờ mịt những bóng tối của mê thích, nó không còn phản ảnh được hình ảnh Thiên Chúa cách trong sáng, như thể nước đầy bùn không sao cho thấy rõ được khuôn mặt đang soi mình trong đó.

3 - Mê thích khiến linh hồn thành tối tăm và mù quáng, bởi vì đã là mê thích thì bao giờ cũng mù quáng, tự nó chẳng có chút hiểu biết nào về mình, nên lý trí phải luôn dẫn dắt nó như dẫn người mù. Do đó mỗi lần linh hồn để cho mê thích hướng dẫn, là mỗi lần nó bị mù tối. Vì, nếu một người sáng mắt lại nhờ một người mù đặc dẫn đường thì chẳng khác nào hai người đều mù. Đúng như lời Chúa phán trong Tin mừng Mátthêô: "Mù mà dẫn đàng cho mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố" (Mt 15,14). Đôi mắt chẳng ích lợi cho con thiêu thân bao nhiêu, vì sự mê thích vẻ đẹp của ánh sáng khiến mắt nó bị lóa và sa vào lửa. Cũng thế, có thể nói rằng kẻ nào nuôi mình bằng sự thỏa mãn mê thích cũng giống như con cá bị lóa mắt, đối với nó, phải nói rằng ánh sáng đã vô tình đóng vai trò bóng tối, khiến nó không nhận ra thứ mồi thợ câu đang nhử nó. Vua Đavít cho chúng ta hiểu rõ điểm này, khi ông nói về những người như thế: "Lửa đã giáng xuống trên chúng và chúng không thấy được ánh sáng [Đúng ra, nguyên văn Thánh vịnh 57/58, 9-10 là: “Như thể trẻ sinh non không thấy mặt trời, ước gì lửa giận của Chúa cuốn chúng đi”], thứ lửa nung nóng bằng nhiệt năng và làm lóa mắt bằng ánh sáng. Đó cũng là điều sự mê thích tạo nên trong linh hồn, nó nung nấu dục vọng và làm lóa mắt trí khôn, đến nỗi trí khôn không thể thấy được ánh sáng của mình nữa. Nguyên nhân của tình trạng lóa mắt là thế này: Khi người ta đặt trước đôi mắt một ánh sáng lạ, năng lực thị giác liền bị thu hút hết vào cái ánh sáng ngay trước mắt này và không còn thấy được thứ ánh sáng nào khác. Sự mê thích cũng vậy, nó vồ vập lấy linh hồn gần tới độ như thể nằm ngay trong linh hồn, khiến linh hồn lảo đảo trong thứ ánh sáng ấy và thỏa thích trong nó, và không còn được hưởng thứ ánh sáng đầy thông minh sáng suốt của mình. Người ta sẽ chẳng được nhìn thấy thứ ánh sáng thông minh ấy bao lâu chưa khai trừ sự lóa mắt do mê thích gây ra.

4 - Vì thế, chúng ta có lý để than phiền sự dốt nát của một số người đang tự chuốc lấy nhiều việc đền tội khác thường và nhiều lối thao luyện theo ý riêng. Họ cứ tưởng rằng chỉ cần làm mấy việc ấy là đủ để được nên một với Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Thế nhưng, làm sao có thể nên một được như vậy nếu họ không chuyên chăm loại trừ các mê thích của họ. Nếu các linh hồn ấy chuyên chăm như thế thì chỉ cần chịu khó nhọc bằng phân nửa trong một tháng cũng được lợi nhiều hơn là tập luyện đủ thứ trong nhiều năm. Bởi vì, như thể cần phải lao động vất vả thì đất đai mới phì nhiêu, nếu không thì chỉ sinh cỏ dại, cũng vậy, phải giết chết các mê thích đi để linh hồn được tiến bộ. Nếu không, tôi dám nói rằng linh hồn ấy sẽ không đạt được hoàn thiện và cũng không lớn lên được trong sự nhận biết Thiên Chúa và nhận biết chính mình. Tất cả những gì nó làm cũng chẳng sinh ích lợi gì hơn khi người ta gieo hạt giống trên mảnh đất không được cày bừa. Do đó, bao lâu chưa dập tắt các mê thích thì vẫn chưa tẩy trừ được tăm tối và ngu muội khỏi linh hồn. Những mê thích ấy như thác lũ, mà cũng có thể ví được như những hạt bụi nơi con mắt, chưa gạt chúng đi thì chúng còn ngăn cản không cho mắt thấy.

5 - Vua Đavít đau lòng khi thấy sự mù quáng của những người như vậy, một đàng họ bị các mê thích ngăn cản không cho nhận ra vẻ sáng của chân lý, một đàng họ bị Thiên Chúa phẫn nộ, nên ông đã cảnh giác họ phải cẩn thận: "Như ốc sên vừa bò vừa rữa... ước gì lửa giận của Chúa cuốn chúng đi nhanh hơn lửa gai bén tới nồi" (Tv 57/58,10). Nghĩa là trước khi những mê thích của chúng kịp lớn mạnh như bụi gai rậm, Thiên Chúa đã diệt trừ chúng như sâu bọ. Bởi vì, đối với những mê thích sống trong linh hồn, để chúng có thể nghe được tiếng Ngài, Thiên Chúa sẽ dùng hình phạt và sự nghiêm trị ở đời nay hay đời sau, mà khiến chúng tan biến đi. Tức là Ngài thanh tẩy chúng. Lại còn nói rằng: "Ngài sẽ làm chúng tan biến trong cơn giận" là bởi vì khi giết chết các mê thích, người ta phải hứng chịu nỗi khổ do sự tàn phá chúng gây ra trong linh hồn.

6 - Ôi phải chi người ta biết được giá trị của thứ ánh sáng thần linh họ bị tước đoạt do sự mù tối mà các nghiêng chiều và các mê thích gây ra cho họ, và phải chi người ta biết được rằng nếu ai không chịu hy sinh những nghiêng chiều và mê thích ấy sẽ gặp tai ương và thiệt hại mỗi ngày đến mức nào! Họ không nên tự phụ mình hiểu biết sâu sắc và được nhiều ơn Chúa, để nghĩ lầm rằng dù mình có nghiêng chiều và mê thích đi nữa, những thứ này cũng không làm tối tăm mù quáng, cũng không khiến mình dần dần bị rơi vào chỗ càng lúc càng tồi tệ. Thật vậy, ai có thể ngờ rằng một người già giặn trong khôn ngoan và đầy dẫy ơn huệ Thiên Chúa như vua Salômôn mà còn rơi vào chỗ mù quáng, lòng muốn bị bạc nhược đến nỗi đã lập nhiều bàn thờ dâng kính các ngẫu tượng và thờ lạy chúng ngay trong tuổi già của ông? Ông ra nông nỗi ấy chỉ vì nghiêng chiều quyến luyến các bà vợ và không chịu chăm lo gạt bỏ các mê thích và những hoan lạc của tim ông (x. 1V 11,4). Chính ông đã nói về mình trong sách Giảng viên rằng: "Tôi đã không để lòng mất một thú vui nào" (x. Gv 2,10). Việc buông theo các mê thích này mãnh liệt đến nỗi, dù lúc đầu ông thực sự khôn ngoan đấy nhưng về sau, vì ông không chịu gạt bỏ chúng, dần dần ông đã bị chúng làm cho mù quáng, tâm trí ra mê muội, và cuối cùng chúng đã dập tắt hẳn nguồn ánh sáng khôn ngoan lớn lao Thiên Chúa đã ban cho ông, thành thử tới tuổi già, ông đã lìa bỏ Thiên Chúa.

7 - Vậy, một người hết sức am tường về khoảng cách muôn trùng giữa điều thiện và điều ác mà các mê thích còn hoành hành mãnh liệt đến thế, thì thử hỏi, đối với sự dốt nát của chúng ta, nếu chúng ta không chịu kiềm chế các mê thích ấy thì còn gì mà chúng chẳng làm nổi? Quả thật, như lời Thiên Chúa nói với ngôn sứ Giôna khi phán về dân thành Ninivê, chúng ta đúng là những kẻ chưa phân biệt tay phải với tay trái (x. Gn 4,11). Từng bước trong cuộc sống ta còn tưởng ác là thiện và tưởng thiện là ác, chỉ vì chúng ta ngu muội. Mà nếu các sự mê thích lại vào hùa với những tăm tối tự nhiên của ta, thì điều gì sẽ xảy ra, nếu chẳng phải là như Isaia đã than phiền, khi ông nói về những người ưa chiều theo các mê thích của họ: "Tựa như người mù men theo tường, chúng ta mò mẫm, mò mẫm như người không có mắt. Chúng ta lảo đảo cả trưa lẫn chiều, đang sung sức mà như người đã chết" (Is 59,10). Bởi vì người nào đã để cho các mê thích biến mình thành mù quáng thì ngay giữa chân lý và điều xứng hợp, họ vẫn chẳng thấy được gì hơn khi họ ở trong tăm tối.

Nguyên tác: Subida al Monte Carmelo của Thánh GIOAN THÁNH GIÁ. Bản dịch của NGUYỄN UY NAM và Lm. TRĂNG THẬP TỰ.
(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét