Các Trang

Chủ Nhật, 19 tháng 10, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - 16 thế kỷ đầu của Kitô giáo - Từ thời các sứ đồ cho đến năm 311: những cuộc bách hại

 


ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN

+ 16 THẾ KỶ ĐẦU CỦA KITÔ GIÁO

5. Từ thời các sứ đồ cho đến năm 311: những cuộc bách hại

Thế rồi Mùa Xuân của Dân Chúa sớm qua đi và Mùa Hạ nóng bức đã vội đến.

Sách Công vụ tông đồ cho ta thấy cái khó khăn đặc biệt của Giáo hội sơ khai mà khung cảnh Do Thái tạo nên. Một đàng, ai nấy rất đau lòng vì đa số người Do Thái không chấp nhận Tin mừng và tệ hơn nữa, họ còn tìm đủ cách để phá hoại, bôi nhọ, tẩy chay, khủng bố. Đàng khác, một số tín hữu gốc Do Thái đã muốn Hội thánh phải duy trì các luật lệ Do Thái cho tất cả các Kitô hữu khác, như việc cắt bì và các quy luật về việc ăn uống. Từ việc đó đã nảy ra nhiều vụ ly khai đau lòng xâu xé Hội thánh. Các thư trong Tân ước để lại bằng chứng là ngay trong Hội thánh sơ khai đã có nhiều người vấp phải những sai lạc về giáo lý, dựng nên những tà thuyết tai hại, nhưng cũng ngay từ đầu, Hội thánh đã đặt nặng vấn đề duy trì nguyên vẹn đức tin do các tông đồ để lại và loại trừ những nguyên nhân hủy hoại, cắt xén hoặc sửa đổi giáo lý mạc khải. Việc xác định danh sách các sách Kinh thánh hồi năm 150 nói lên ý chí đó.

Bên cạnh đó, Tin mừng được rao giảng và lúc đế quốc Rôma cực thịnh. Đế quốc này nguyên thủy là một nước Cộng hòa khởi đầu hơn 500 năm trước Công nguyên. Đến nửa sau thế kỷ I TCN, nó đã chuyển thành một Đế quốc, với các lãnh tụ Julius Caesar (100 TCN - 44 TCN) và Caesar Augustus (63 TCN - 14 SCN). Sự mở rộng cương thổ của Rôma đã đạt tới cực đỉnh vào thời hoàng đế Trajan (trị vì 98 -117), kiểm soát gần 6,5 triệu km2.

Hoàn cảnh chính trị thống nhất và kinh tế phồn thịnh làm cho việc đi lại rao giảng được thuận lợi, số người đón nhận Tin mừng tăng nhanh. Nhưng đế quốc Rôma đã sớm tỏ thái độ, họ ý thức được rằng có một cái gì đó đang bành trướng, rằng có một nhóm người cho dù rất trung thành với nhà nước, nhưng không chấp nhận uy quyền tuyệt đối của đế quốc. Rồi những lời vu khống và dư luận quanh co đã khơi mào cho những cuộc bách hại (chẳng hạn người Kitô hữu bị vu cáo đã gây ra vụ cháy thành Rôma dưới triều hoàng đế Néron năm 64).

Suốt ba thế kỷ, những cuộc bách hại đẫm máu phát sinh từ lý do này, nguyên cớ kia, đã không ngừng đàn áp các tín hữu. Tuy nhiên nguyên nhân cuối cùng thật ra chỉ vì họ là người Kitô giáo, tín đồ của một "tôn giáo mới", thành ra nhiều người trong giới cầm quyền đã rùng mình trước cái vô lý của sự bách hại, nhưng họ không có quyền chấm dứt sự bách hại đó, trong khi các tín hữu thì cứ khăng khăng giữ đức tin của mình. Trong một lá thư viết lối năm 111 – 113 của hoàng đế Trajan gửi cho Pline le Jeune, Tổng trấn Tiểu Á, ta đọc thấy rõ sự bối rối đó: "Sêconđiô thân mến, nhà ngươi đã theo đúng đường lối trong những chỉ thị về vụ xử án những người bị tố cáo là Kitô hữu. Đừng tìm cách để phát giác họ. Nhưng nếu có ai tố cáo họ cho nhà ngươi, và lời tố cáo đó có nền tảng, thì hãy phạt họ cho tới khi nào họ chịu chối không nhận mình là Kitô hữu, nếu kẻ nào chịu chối mình không là Kitô hữu (và chịu nhân danh các thần minh của chúng ta để làm chứng lời chối bỏ đó) thì dù trước đó nó có đáng bị tình nghi đến đâu đi nữa, nó cũng có thể được tha nhờ lời chối thề đó. Nhà ngươi đừng để ý gì đến những lời tố cáo nặc danh, bởi đó là chuyện rất phiền toái, và cũng không còn hợp với thời này nữa". Những lời đó là câu trả lời cho một lá thư của Pline viết đại lược như sau: "Tôi đã không tìm thấy họ có lỗi gì cả”. Nhưng dù thế nào, người ta vẫn phạt các Kitô hữu, vì họ "cố chấp" và vì những "dị đoan" của họ.

Nhiều bản tường thuật còn giữ được cho chúng ta thấy những cảnh dữ tợn đáng kinh hãi, và những cảnh anh hùng không hề biết tới khiếp sợ. Trong thời kinh hoàng đó, các Kitô hữu đã phải lén lút cử hành thánh lễ và các buổi cầu nguyện trong các đường hầm nghĩa địa (nay được gọi là các hang toại đạo), nhưng ngày nay trên vách hầm, lời còn đập vào mắt chúng ta nhiều nhất lại là: "PAX" - BÌNH AN!

Các Kitô hữu coi việc đổ máu làm chứng cho đức tin là một điều may mắn. Người ta khao khát số phận của các vị tử đạo. Người ta kính mến họ, không coi họ như những nhân vật quá khứ, trái lại, như những người hiện sống trên thiên đàng. Người ta xin họ chuvển cầu cùng Chúa cho những người còn ở trần gian. Ngày họ chết được gọi là ngày sinh nhật. Ta thấy việc tôn kính các thánh bắt đầu xuất hiện, vì vững tin vào cuộc sống mới ở bên kia cái chết?

Cũng trong ba thế kỷ này, xuất hiện những nhà tư tưởng thật lớn, khởi đầu cho dòng suy tư Kitô giáo về sứ điệp Tin mừng.

Về việc cai quản Hội thánh, theo lá thư của thánh Ignatiô thành Antiôkia gửi cho dân thành Smyrna vào năm 100, ta thấy lúc đó đã có một tổ chức thật rõ: mỗi giáo đoàn địa phương có một "giám mục”, các "niên trưởng”, (linh mục) và phó tế. Trong tác phẩm Chống các tà thuyết viết lối năm 190, thánh Irênê cũng ghi lại danh sách các giám mục kế tiếp nhau tại Rôma (tức là Giáo hoàng).

(Còn tiếp)

- "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét