Các Trang

Thứ Sáu, 31 tháng 5, 2024

Đời sống thần bí Kitô giáo (Phần 2)




2.3 Hành trình cuộc hôn phối thần linh

Các nhà nghiên cứu thần bí đều cho rằng thánh Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá thuộc về trường phái thần bí hôn phối thiêng liêng. Quả thật, cảm nghiệm thần bí của các ngài cho chúng ta thấy rõ sự kết hợp nên một giữa linh hồn với Thiên Chúa được mô tả như cuộc tình thần linh. Trong cuộc tình ấy, Đấng Tình Quân Thiên Chúa “tìm mọi cách” để kết hôn với Tình Nương linh hồn; còn linh hồn khát khao đến ốm liệt vì yêu. Tất nhiên, cuộc hôn phối thần linh phải trải qua giai đoạn đính hôn trước khi được thành hôn thiêng liêng.

Như một cuộc tình, Thiên Chúa đi bước trước khơi lên lòng khao khát mãnh liệt hiệp nhất nên một nơi linh hồn. Phần linh hồn, một khi đã trúng vết thương tình của Thiên Chúa, không mỏi mệt lên đường tìm kiếm cho đến ngày hợp nhất. Theo thánh Gioan Thánh Giá, sau khi đã trải qua nhiều thao luyện tâm linh, Thiên Chúa đưa linh hồn vào một trạng thái cao vời để kết hợp nên một trong yêu thương. Nơi đó diễn ra cuộc đính hôn thiêng liêng giữa linh hồn và Ngôi Lời, Con Thiên Chúa.[79] Với thánh Têrêsa A-vi-la, cuộc đính hôn này diễn ra ở cư sở thứ sáu của lâu đài nội tâm. Thiên Chúa đưa linh hồn vào đính ước này trong cơn ngất trí, khi linh hồn không còn lệ thuộc vào giác quan.[80] Như hai người nam nữ khi đính hôn thuộc về nhau, linh hồn thuộc quyền sở hữu riêng của Thiên Chúa, là hôn thê của Người.

Tựa như cô gái trong ngày đính hôn, Thiên Chúa cũng “tiết lộ” cho linh hồn những điều lớn lao về Người. Tô đẹp cho linh hồn sự cao cả uy nghi, trang sức cho nó những ân tứ và nhân đức, mặc cho linh hồn nhận thức về Thiên Chúa và danh dự của Người. Linh hồn bắt đầu một tình trạng an bình, hoan lạc và dịu ngọt của tình yêu.[81] Trong niềm vui sướng ấy, linh hồn chẳng làm gì ngoài việc kể lại và ca hát những điều cao cả của Người Yêu Dấu:“Ở đó Chàng đã cho tôi hết lòng hết dạ. Đã dạy tôi một khoa học hết sức dịu ngọt. Và tôi đã thực sự hiến dâng cho Chàng tất cả, không trừ lại gì. Ở đó tôi đã cùng Chàng kết tóc xe tơ”.[82]

Trong cuộc đính hôn thiêng liêng này, Thiên Chúa ban cho linh hồn tình yêu Ngài, dạy cho nàng sự khôn ngoan và huyền bí. Còn linh hồn, nàng cũng thực sự trao dâng tất cả cho Chàng, không giữ lại gì cho mình và cho bất cứ ai. Hai lòng muốn đã thuộc về nhau, buông mình cho nhau, mãn nguyện đến nỗi bên này không từ chối bên kia điều gì. Tuy nhiên, như hai người yêu sau ngày đính hôn, họ thuộc về nhau nhưng không liên lỉ ở bên nhau vì có thể xa nhau. Cũng thế, với lễ đính hôn thiêng liêng, linh hồn vẫn chưa liên lỉ ở trong Thiên Chúa, vì sự nên một chưa được liên tục. Tất cả là tình yêu và mong đợi lễ thành hôn thiêng liêng.

Hồng ân của lễ thành hôn thiêng liêng làm cho linh hồn liên lỉ ở lại trong thâm cung lòng mình với Thiên Chúa. Thiên Chúa đưa linh hồn vào lễ cưới thiêng liêng bằng thị kiến tri thức, được diễn ra trong cư sở thứ bảy của tòa lâu đài nội tâm.[83] Nơi đó Thiên Chúa Ba Ngôi tự thông ban chính Ngài cho linh hồn. Ngài biểu lộ cho linh hồn thấy vinh quang trên trời qua một thể thức tuyệt diệu hơn bất kỳ một an ủi thiêng liêng nào. Linh hồn cảm thấy khoái trá đến nỗi chính thánh Têrêsa cũng không biết lấy gì để diễn tả, và điều có thể hiểu là linh hồn nên một với Thiên Chúa.[84] Vì như lời thánh Phaolô:“Ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người” (1Cr 6,17). Trong cuộc hôn phối thiêng liêng này, linh hồn nhận được nụ hôn mà nàng đã cầu xin Đức Lang Quân.[85]

Thánh Gioan Thánh Giá diễn tả hôn phối thiêng liêng này trong Khúc ca thứ 38. Linh hồn cầu xin được yêu mến Thiên Chúa cách tinh tuyền và hoàn hảo, như cách Ngài đã yêu mến nó, và xin Ngài hãy ban cho nó vinh quang Ngài đã tiền định trong vĩnh cửu :

Và ở đó xin Người tỏ cho em 
Điều hồn em hằng khao khát
Và rồi, hỡi Người là sự sống của em 
Ở đó xin Người hãy cho em
Điều Người đã cho em từ ngày ấy.

Linh hồn thấy chưa thỏa lòng dù đã đạt được sự biến đổi nơi Thiên Chúa ở đời này, dù tình yêu đã thật bao la, linh hồn cũng không thể yêu Thiên Chúa bằng một tình yêu hoàn hảo như Ngài đã yêu. Điều linh hồn khát khao là đạt được tình yêu ngang hàng với Thiên Chúa. Đó là sự bình đẳng trong tình yêu. Quả thế, một người đang yêu chỉ có thể hài lòng khi cảm thấy mình đã yêu nhiều như mình đã được yêu. “Điều ấy” chính là vinh quang tối hậu, tức là thấy được chính Bản Thể Thiên Chúa. Vì hạnh phúc con người là được nhìn thấy Thiên Chúa. Có điều, tại sao ở đây linh hồn lại bảo rằng ước vọng của nó là yêu mến Chúa, chứ không phải là được nhìn thấy Ngài. Có hai lý do trả lời cho vấn nạn này.

Thứ nhất, vì tất cả là tình yêu mà tình yêu lại nằm dưới quyền kiểm soát của lòng muốn, và đặc điểm của tình yêu là cho chứ không phải nhận. Còn đặc điểm của trí hiểu, vốn là chủ thể của cái vinh quang tối hậu lại là nhận chứ không phải cho. Ở đây, vì linh hồn đang say sưa yêu nên không đặt ưu tiên vào vinh quang mà Thiên Chúa sẽ ban, nhưng lại quan tâm đến sự hiến mình cho Ngài bằng một tình yêu đích thực, nên chẳng màng gì đến lợi ích riêng.

Thứ hai, vì ước vọng nhìn thấy Thiên Chúa được bao hàm trong ước vọng yêu mến Ngài. Vì với tình yêu linh hồn trả cho Thiên Chúa những gì nó mắc nợ Ngài (nợ tình), đang khi với trí hiểu linh hồn chỉ nhận lãnh mà thôi.[86] Cho nên linh hồn khao khát xin được yêu Chúa như Chúa đã yêu mình:“Những điều Ngài khao khát con cầu xin, con sẽ xin; và những gì Ngài không khao khát, con cũng không thể khát khao. Thỉnh nguyện của con giờ đây là được nên đáng quí, đáng yêu trước mặt Ngài, vì những thỉnh cầu của con đến từ Ngài, và chính Ngài khiến con thực hiện những thỉnh nguyện này”.[87]

Như vậy, điều mà linh hồn hằng khao khát thì đã rõ, nhưng còn “ngày ấy” mà linh hồn muốn nói ở đây là ngày nào? Và “điều ấy” được thực hiện thế nào trong “ngày ấy”. Ngày ấy là ngày vĩnh cửu của Thiên Chúa, ngày Thiên Chúa đã tiền định cho con người được hưởng vinh quang. Ngày cử hành hôn lễ Chiên Thiên Chúa, bởi Hiền Thê của Ngài đã điểm trang lộng lẫy.[88] Ngày linh hồn sẽ được sở hữu vĩnh viễn điều chính Thiên Chúa đã tiền định từ vĩnh cửu, khi quyết định tạo dựng nên nó. Điều thánh Phaolô bảo là:“mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người chẳng hề nghĩ tới” (1Cr 2, 9). Vì thế, ở đây linh hồn như muốn nói:

Ôi Đức Lang Quân của em, điều Người đã cho em chính là sức nặng của vinh quang Người. Vậy hãy cho em điều ấy trong ngày đính hôn và hôn lễ của em, ngày đó tâm hồn em chan chứa vui mừng, khi em được rời khỏi xác thịt và bước vào những hang động thật cao của loan phòng Người. Người sẽ biến đổi em thành Người một cách vinh quang, và chúng ta sẽ cùng uống chất ngọt tư những quả lựu ngọt ngào.[89]

Như vậy, dù tình trạng hôn phối thiêng liêng đem lại cho linh hồn sự biến đổi hoàn toàn ngay ở đời này, thì linh hồn vẫn không có được sự hoàn hảo của tình yêu vĩnh cửu. Cho nên điều ấy chỉ có thể đạt được trong hạnh phúc Thiên đàng, khi diện đối diện với Thiên Chúa, linh hồn mới biết và yêu Ngài như Ngài biết và yêu nó.

Cảm nghiệm thần hiệp trong tình trạng hôn phối thiêng liêng nói trên đã chứng minh giả thuyết nêu ra trong phần dẫn nhập : đích cùng cảm nghiệm thần bí là kết hợp nên một với Thiên Chúa ở đời này chưa phải là vinh quang tối hậu, hạnh phúc tuyệt đối, đích cùng của Ki-tô giáo. Cảm nghiệm thần bí chỉ là “khai vị” vào đời sống vĩnh cửu. Kết hợp thần bí là cách thức Thiên Chúa đến với con người, cũng là khát vọng của con người hợp nhất với Thiên Chúa ngay trong cuộc sống trần gian. Còn hạnh phúc vĩnh cửu con người chỉ đạt được trong cuộc sống đời sau.

(Còn tiếp)
- Trích trong tác phẩm "Đời sống thần bí Ki-tô giáo qua cảm nghiệm của thánh Têrêsa Avila và thánh Gioan Thánh Giá" của Phêrô Tạ Văn Tuân.

Thứ Hai, 27 tháng 5, 2024

Đời sống thần bí Kitô giáo (Phần 2)




1. Qua một cuộc hành trình

Cả Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá đều mô tả tiến trình thần bí qua cuộc hành trình linh hồn kết hợp với Thiên Chúa. Dù cách gọi tên, hình ảnh mô tả khác nhau, nhưng bản chất vẫn là việc Thiên Chúa thanh luyện để con người xứng đáng kết hợp nên một với Ngài. Hành trình bảy cư sở trong Lâu đài nội tâm được soi sáng nhờ cầu thang mười bậc của Khúc linh ca, và ngược lại.

1.1. Lâu đài nội tâm – hành trình bảy tầng

Têrêsa Avila đã phân tích các cấp độ đời sống tâm linh cũng như những hiện tượng kèm theo cách hết sức rõ ràng. Trong“Lâu đài nội tâm”, những chặng đường của đời sống thần bí từ khởi đầu cho đến khi kết hiệp với Thiên Chúa, được thánh nữ mô tả qua bẩy cư sở (phòng, tầng, bậc) của tòa nhà tâm linh. Trong mỗi cư sở đó, Thiên Chúa thông ban ân huệ, và Ngài trao ban chính Ngài cho linh hồn ở cư sở cuối. Mỗi người tùy theo ân huệ và lòng nhân từ Thiên Chúa ban, cùng với tâm hồn khiêm nhường tiến vào đón nhận, chiêm ngưỡng, sống trong các cư sở đó.

Ở cư sở thứ nhất, vẻ đẹp của linh hồn được mô tả như một tòa lâu đài pha lê trong suốt và tinh tuyền. Linh hồn người công chính thì chính là Thiên đàng. Người ta tiến vào cư sở này bằng suy niệm và cầu nguyện, cả khẩu nguyện và tâm nguyện. Cũng trong cư sở này Thiên Chúa tỏ cho linh hồn biết Ngài cao cả, và sự yếu hèn của mình, nên cần khiêm nhường tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa. Ai muốn vào cư sở thứ hai phải dẹp bỏ những công việc và bận tâm không cần thiết.

Ở cư sở thứ hai linh hồn bắt đầu thực hành việc nguyện gẫm. Linh hồn muốn tiến xa nhưng lại không kiên quyết đủ, không xa tránh các dịp tội nên rất nguy hiểm. Chính Chúa tìm mọi dịp, mọi cơ hội để không ngừng thúc đẩy linh hồn khao khát và cố gắng sống tình bạn với Ngài. Trong cư sở này sẽ có cuộc giao tranh khủng khiếp giữa linh hồn và ma quỉ, gây nên nhiều đau khổ cho linh hồn. Trong cuộc chiến này kiên trì cầu nguyện là tối cần cho linh hồn. Nếu bỏ cầu nguyện, linh hồn sẽ càng ngày càng xa Chúa. Hơn nữa, vì cửa dẫn vào lâu đài là cầu nguyện.

Nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa, kiên trì cầu nguyện và chiến đấu với cám dỗ, linh hồn tiến vào cư sở thứ ba. Thánh Têrêsa cho rằng ở trần gian nhiều linh hồn đã vào được cư sở này.[47] Ở cư sở này linh hồn được Thiên Chúa ban những ơn trọng đại. Khi ấy linh hồn ước muốn không xúc phạm đến Thiên Chúa, tránh phạm tội nhẹ, thích làm việc hãm mình, hồi tâm lâu giờ, thi hành nhiều việc bác ái. Tuy nhiên, trước khi chiếm đoạt linh hồn, Thiên Chúa để cho có thời kỳ cầu nguyện khô khan kéo dài, qua đó Ngài thanh luyện linh hồn. Có khô khan là để linh hồn nhận ra cách Thiên Chúa thanh luyện và biết kiểm điểm chính mình. Ngài tạm rút ơn an ủi thiêng liêng để linh hồn nhận ra giới hạn của mình, đồng thời biết khiêm nhường tin tưởng vào Thiên Chúa. Thời gian này linh hồn cần bền chí và khiêm nhường tuyệt đối, biết vui vẻ đón nhận điều Thiên Chúa ban và cả điều Ngài không ban.

Khi tiến vào cư sở thứ tư, linh hồn bắt đầu thực hành việc nguyện gẫm an tĩnh.[48] Nơi đây các tài năng của linh hồn đều bị thu hút vào Thiên Chúa. Linh hồn ở tình trạng này không được tìm kiếm an ủi thiêng liêng mà cứ khiêm nhường đón nhận điều Chúa ban. Vì lao nhọc tìm kiếm là vô ích nếu từ nguồn không ban. Ở tình trạng này, linh hồn có sức cuốn hút người khác nên sẽ đem lại lợi ích lớn lao cho Hội Thánh và gây hại nhiều cho ma quỉ, cho nên ma quỉ hành động ráo riết để tiêu diệt. Chính vì thế, linh hồn phải khiêm nhường phó thác và không
được háo danh. Cư sở thứ tư là khúc rẽ quan trọng trong hành trình thiêng liêng, bắt đầu tình trạng thần bí. Từ đây Thiên Chúa chủ động thanh luyện linh hồn, linh hồn thụ động đón nhận ơn Ngài ban.

Ở trong cư sở thứ năm, linh hồn thực hành việc nguyện gẫm kết hợp.[49] Khi đó Thiên Chúa kết hợp với linh hồn trong chính linh hồn, theo ý Ngài muốn, tự do ra vào và ban ơn. Chúa vào thâm sâu linh hồn không qua giác quan và nội quan nào. Thiên Chúa biến đổi linh hồn từ con tằm xấu xí trở thành con bướm trắng đẹp. Còn linh hồn sung sướng được tiêu hao và chết đi ngàn lần vì Người, khát mong được chịu thử thách nặng nề, nóng lòng làm những việc hãm mình, ở trong cô tịch để cho mọi người nhận biết Chúa. Không có gì ở trần gian làm cho linh hồn thỏa mãn. Ngay cả mối dây cốt nhục, bạn hữu không còn ràng buộc được linh hồn. Linh hồn được bình an sâu thẳm.

Trong cư sở thứ sáu, linh hồn được mang vết thương tình nên có đau khổ nội tâm. Đây là cách Thiên Chúa thanh luyện linh hồn, gọi là thanh tẩy thụ động. Vết thương tình là việc Thiên Chúa bất ngờ đến như một tia sáng chiếu rọi đâm thấu tâm hồn làm linh hồn tỉnh thức. Linh hồn hạnh phúc và sẽ rất hạnh phúc nếu vết thương đó không lành lại. Trong tình trạng đó Thiên Chúa nói lời yêu thương bằng thứ vô ngôn. Thiên Chúa cho linh hồn nhận thức Ngài đang hiện diện nhưng không tỏ lộ để cho linh hồn hưởng Ngài. Hạnh phúc này còn sướng khoái hơn cơn ngây ngất trong bậc nguyện ngắm an tĩnh. Vì trong cư sở này linh hồn thực hành cầu nguyện tận hiệp.[50] Trong tình trạng đó thường diễn ra cơn ngất trí.

Cư sở thứ bảy còn được gọi là Thiên đàng thứ hai. Thiên Chúa nhận linh hồn làm hôn thê. Trước khi hoàn tất lễ thành hôn thiêng liêng, Chúa đem linh hồn vào trong cung điện của riêng Người. Trong đó, Chúa kết hợp với linh hồn trong chính mình và làm cho linh hồn như câm như mù, như Người đã hoán cải Phaolô.[51]

Chúa đưa linh hồn vào cư sở này bằng một thị kiến tri thức. Trong đó chính Chúa Ba Ngôi tự mặc khải chính Ngài cho linh hồn. Linh hồn nhận biết được nhờ nhìn thấy, dù cả con mắt xác thịt và con mắt linh hồn đều chẳng trông thấy gì. Linh hồn “nhìn thấy” vì cả Ba Ngôi đều hiệp thông với linh hồn. Trước khi diễn ra cuộc thành hôn thiêng liêng có lễ đính hôn thiêng liêng. Đính hôn thiêng liêng là tình trạng Thiên Chúa và linh hồn không liên tục ở bên nhau. Còn thành hôn thiêng liêng thì Thiên Chúa và linh hồn nên một. Đúng hơn, linh hồn không còn cảm thấy mình mà chỉ có Chúa. Chúa và linh hồn vui hưởng nhau trong thinh lặng thẳm sâu. Chúa dạy dỗ và làm cho linh hồn trở nên giầu có cách êm đềm lặng lẽ. Chúa ban cho linh hồn nụ hôn mà hôn thê cầu xin Đức Lang Quân. Khi ấy linh hồn quên mình hoàn toàn, ước muốn chịu đau khổ mãnh liệt mà không làm cho linh hồn rối loạn, khát khao ý Chúa được thể hiện. Chúa có làm gì thì linh hồn cũng cho là tốt. Chúa mặc khải chính mình cho linh hồn và đem linh hồn vào một nơi ma quỉ không vào được. Trong cư sở này không còn ngất trí nữa.

Ở tình trạng này linh hồn phải làm gì? Linh hồn cần nhớ tất cả những ơn Chúa ban cho không phụ thuộc vào hoạt động của mình, mà hệ tại ở việc linh hồn hoàn toàn khiêm nhường phó thác mình cho Thiên Chúa. Vì nền tảng của cả lâu đài là sự khiêm nhường. Đời sống thiêng liêng tiến bộ bằng cách chế ngự ý riêng. Người ta sống đời thiêng liêng thực sự khi trở thành nô lệ cho Thiên Chúa. Được Thiên Chúa đóng dấu hiệu là thánh giá Chúa Kitô. Đó là bảo chứng ta đã trao tự do cho Ngài.

Trong lời tái bút tác phẩm Lâu đài nội tâm, thánh Têrêsa đã khéo nhắc các nữ tu cũng như các độc giả: chính Ông Chủ mới có thể dẫn các chị vào được tòa lâu đài.[52] Vì Ông Chủ hoàn toàn tự do ra vào lâu đài và ban ơn, cho ai, khi nào, cách nào Ngài muốn. Cho nên, để tiến bước con người phải ngoan ngùy đón nhận điều Thiên Chúa ban và cả khi Ngài không ban, vì“Gió muốn thổi đâu thì thổi” (Ga 3,8).

Với Lâu đài nội tâm, thánh Têrêsa đã mô tả cuộc hành trình thần bí thật rõ ràng. Theo đó, ân sủng Thiên Chúa vẫn không ngừng mời gọi con người vươn cao trên đỉnh hoàn thiện. Dù mỗi người mỗi cách, thời nào thánh đó. Tuy nhiên, những kinh nghiệm thần hiệp thánh Têrêsa Avila để lại, như một bản chỉ đường cho đời sống thiêng liêng của ai biết khiêm nhường và ngoàn ngùy theo sự hướng dẫn của Thiên ý.

1.2. Đêm tối linh hồn – cầu thang mười bậc

Trong tác phẩm Đêm dày, thánh Gioan Thánh Giá đã mô tả thật tuyệt vời tiến trình thần hiệp bằng hình ảnh cầu thang bí mật. Ngài cũng gọi đó là chiếc thang chiêm niệm, phát xuất từ Thiên Chúa. Cầu thang ấy được gợi hứng từ chiếc thang tổ phụ Giacóp đã thấy trong giấc mơ.[53] Chiếc thang được bắc từ đất lên trời. Trên thang có các thiên thần lên lên xuống xuống vì Thiên Chúa ở trên đỉnh thang. Chiếc thang có mười bậc, là khoa học yêu mến.[54] Nơi đó Thiên Chúa ban ơn hiểu biết thần phú để:“vừa soi sáng linh hồn, vừa khiến linh hồn đắm
đuối yêu thương, và từng bước nâng linh hồn lên tới Thiên Chúa, vì chỉ có tình yêu mới nối kết được linh hồn với Thiên Chúa”.[55] Bằng tình yêu, linh hồn bước từng bậc lên tới đỉnh thang để được nên một với Thiên Chúa. Thánh nhân cũng trình bày những dấu hiệu và hiệu quả mỗi bậc, linh hồn theo đó để biết mình đang ở bậc nào trong mười cung bậc tình yêu này.

Bậc tình yêu thứ nhất, linh hồn phải “gầy mòn tiều tụy” vì nỗi nhớ Thiên Chúa. Tình Nương trong sách Diễm Ca đã diễn tả bậc tình yêu này: “Này thiếu nữ Giêrusalem, tôi van nài các bạn : gặp người tôi yêu dấu, xin cho nhắn rằng : tôi đang ốm tương tư” (Dc 5,8). Như một người ốm, linh hồn tựa kẻ si tình, mất đi sự hứng thú đối với mọi sự. Đó chính là nỗi nhớ người yêu, nhớ tình, ốm vì yêu. Trong cơn bệnh này linh hồn không còn tìm thấy sự nương tựa, thú vui, an ủi hay nghỉ yên nơi bất cứ điều gì.[56] Đây là ơn thanh tẩy bằng chiêm niệm, dấu hiệu khởi đầu cuộc hành trình hiệp nhất thần linh. Cho nên từ bậc thang này linh hồn sẽ tiến ngay lên bậc thứ hai.

Bởi đã “ốm vì yêu” và sẽ chết nếu không được chữa lành, nên ở bậc này linh hồn liên lỉ tìm kiếm Thiên Chúa trong mọi sự. Mọi tư tưởng, lời nói hay trao đổi, dù ăn, ngủ, thức hoặc làm bất cứ việc gì linh hồn đều quy hướng về Người Yêu Dấu.[57] Đây là nỗi khắc khoải của tình yêu. Chính nhờ tình yêu này, linh hồn được phục hồi và lấy lại được sức mạnh để tiếp tục tiến bước trong cuộc thanh tẩy thiêng liêng thần nhiệm.

Trong bậc thứ ba của chiếc thang yêu thương, linh hồn được thúc đẩy hoạt động không biết mỏi mệt vì Thiên Chúa. Bởi lò than hừng hực yêu thương đang khiến linh hồn nóng bỏng, nên: “Dù có làm được những việc lớn lao cho Người Yêu Dấu, linh hồn vẫn coi là nhỏ nhoi, dù làm được nhiều nó vẫn coi là ít ỏi, thời gian phục vụ Ngài tuy dài nó vẫn coi là ngắn”.[58] Với một tình yêu nồng nàn và mãnh liệt đến thế, linh hồn sẽ muộn phiền và đớn đau khôn tả khi nhận ra mình đã làm được quá ít cho Thiên Chúa. Linh hồn sẽ được an ủi biết bao nếu được chết đi ngàn lần vì Thiên Chúa.[59] Tác động của tình yêu mãnh liệt này làm phát sinh nơi linh hồn hiệu quả lạ lùng : linh hồn thấy mình thực sự tội lỗi hơn mọi người khác. Vì tình yêu đang dạy cho linh hồn biết Thiên Chúa đáng yêu kính vô ngần và tuy linh hồn đã làm được nhiều việc cho Thiên Chúa, nhưng nó lại thấy tất cả đều bất toàn, thiếu sót, nên khiến thêm đau buồn và xấu hổ.[60] Nhờ thanh luyện này, linh hồn đã xa khỏi thói háo danh, tự phụ và tật hay kết án kẻ khác[61] nên linh hồn nhẹ nhàng tiến lên bậc thang kế tiếp.

Trong bậc thang thứ tư, linh hồn có khả năng chịu đau khổ vì Người Yêu Dấu cách thường xuyên và không mệt mỏi. Tình yêu khiến cho mọi gánh nặng dù to lớn và vất vả trở thành nhẹ nhàng.[62] Bởi vì, linh hồn thấy rõ Thiên Chúa ban cho mình vô vàn hồng ân, cho nên “tất cả nỗi lo lắng của linh hồn là làm thế nào có thể làm hài lòng Thiên Chúa, dù phải trả giá tới đâu đi nữa”.[63] Lại nữa, ở bậc thang này linh hồn luôn bước theo Thiên Chúa với một tình yêu chân thực và ước muốn chịu đau khổ vì Ngài, nên được Thiên Chúa thường xuyên viếng thăm khiến linh hồn tràn ngập niềm hoan lạc khôn tả.[64] Vì thế, linh hồn khao khát Thiên Chúa cách mãnh liệt và được Ngài đưa lên bậc thang thứ năm.

Vì quá yêu, quá khao khát hiểu Người Yêu Dấu và mong được hiệp nhất với Ngài, nên trong bậc thang tình yêu này linh hồn sẽ mệt mỏi và ngột ngạt nếu sự trì hoãn dù chỉ trong chốc lát.[65] Sự khao khát lên đến cực độ vì lúc nào linh hồn cũng nghĩ đến việc được gặp Người Yêu Dấu. Và nếu không đạt được niềm ao ước ấy nó như ngất đi, bởi :“kẻ đang yêu sẽ chết mất nếu chẳng được thấy người yêu”.[66] Thánh Gioan Thánh Giá cho rằng trong bậc thang này linh hồn được vỗ béo trong tình yêu,[67] no thỏa cơn đói khát ấy, linh hồn chạy nhanh lên bậc thang thứ sáu.

Nhờ nhiều lần được Thiên Chúa “chạm đến” nên trong bậc thang thứ sáu này, tình yêu làm tăng sức mạnh khiến linh hồn bay lên nhẹ nhàng để chạy nhanh đến Thiên Chúa.[68] Tiên tri Isaia đã cảm nhận về tình trạng này khi viết : “Những người cậy trông Đức Chúa, thì được thêm sức mạnh. Như thể chim bằng, họ tung cánh. Họ chạy hoài mà không mỏi mệt, và đi mãi mà chẳng chùn chân”(Is 40, 31). Lý do khiến linh hồn trở nên nhanh nhẹn là vì đức ái đã triển nở và linh hồn hầu như đã được hoàn toàn thanh tẩy.[69]

Trong bậc thang tình yêu thứ bẩy sự bạo dạn quyết liệt là ân ban cho linh hồn. Ai đã tiến vào đến tình trạng này, đức ái làm cho họ tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả[70] nơi Thiên Chúa. Tựa như ông Môsê mạnh dạn cầu xin Thiên Chúa tha cho dân nếu không thì Ngài hãy xóa tên ông trong sổ hằng sống, [71] Tình Nương cũng bạo dạn thốt lên: “Ước gì chàng hôn ta những nụ hôn chính môi miệng chàng” (Dc 1,1). Làm sao mà linh hồn dám bạo dạn như thế ? Vì linh hồn đã thấy Đức Vua dủ lòng thương và nâng cao phủ việt hướng về nó,[72] nên những linh hồn được diễm phúc tiến vào bậc này phải luôn luôn giữ lòng khiêm nhường.

Nhờ sự bạo dạn và tự tin được Thiên Chúa ban cho, linh hồn tiến đến cùng Ngài với tình yêu cuồng nhiệt. Đó là tình trạng ở bậc thang thứ tám, nơi đây linh hồn mạnh mẽ tiến tới ôm ghì lấy Người Yêu Dấu, và sẽ chẳng chịu buông ra cho đến khi hiệp nhất với Ngài.[73] Tình Nương trong sách Diễm ca đã thể hiện cảm nghiệm ấy: “Vừa rời họ mà đi, tôi đã gặp người lòng tôi yêu dấu. Tôi vội níu lấy chàng và chẳng chịu buông ra, cho đến khi đưa vào nhà thân mẫu, tới khuê phòng người đã cưu mang tôi”(Dc 3,4). Nơi bậc thang này tình trạng hiệp nhất làm cho linh hồn được mãn nguyện, nhưng không liên tục, vì vẫn chưa đạt được sự hoàn thiện trọn hảo, linh hồn vẫn chưa được thanh luyện trọn vẹn, nên dễ dàng bằng lòng với tình trạng vui sướng này mà không can đảm bước tiếp lên bậc thang hoàn thiện.

Ở bậc thang thứ chín của tình yêu, linh hồn lìa khỏi xác, bốc cháy thật dịu dàng trong Thiên Chúa. Đây là tình trạng của những người hoàn thiện, ở trần gian rất ít người đã vào được bậc thang này.[74] Sự dịu dàng và đầy hoan lạc là quà tặng của Chúa Thánh Thần ban cho linh hồn, bởi linh hồn đã được ơn hiệp nhất với Thiên Chúa. Quả thật, những ơn lành mà Thiên Chúa ban cho linh hồn thì nhiều vô kể. Bởi trong bậc thang này, linh hồn được thanh tẩy kỹ lưỡng bằng tình yêu cho nên không phải thanh luyện ở luyện ngục.[75] Và từ đây, linh hồn sẽ tiến vào bậc thang cuối cùng, bậc thang không còn thuộc về cõi đời này nữa. [76]

Nơi bậc thang thứ mười, linh hồn được hoàn toàn đồng hóa với Thiên Chúa, được hưởng kiến Thiên Chúa cách tỏ tường và trực tiếp.[77] Như lời thánh Gioan, linh hồn hoàn toàn nên giống Thiên Chúa: “chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1Ga 3,2).Sự nên giống Thiên Chúa không có nghĩa là linh hồn có được những khả năng như Thiên Chúa, mà là thực sự trở nên giống Thiên Chúa bằng cách tham dự vào bản tính của Ngài.[78] Đích điểm cuộc hành trình cũng là đỉnh của chiếc thang, nơi Thiên Chúa ngự, ở đó linh hồn được kết hợp nên một với Thiên Chúa, thông phần vào bản tính thần linh của Ngài. Đây cũng là ý nghĩa của cuộc thanh luyện, Thiên Chúa thanh tẩy để con người xứng đáng trở nên giống Ngài, do hiệu quả của ơn thần hóa

(Còn tiếp)
- Trích trong tác phẩm "Đời sống thần bí Ki-tô giáo qua cảm nghiệm của thánh Têrêsa Avila và thánh Gioan Thánh Giá" của Phêrô Tạ Văn Tuân.

Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2024

Đời sống thần bí Kitô giáo (Phần 2)




1. Mô tả qua các hình ảnh

Bằng các hình ảnh đối lập như bóng tối và ánh sáng, ngọn lửa và củi khô, nhất là hình ảnh vết thương tình ái, thực tại thần bí được thánh Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá mô tả hết sức sinh động. Những hình ảnh hữu hình này sẽ giúp nhận hiểu thực tại vô hình là ân sủng và tình yêu Thiên Chúa.

1.1. Bóng tối và ánh sáng

Bóng tối và ánh sáng là hình ảnh đối lập sắc nét nhất giúp nhận hiểu ân sủng Thiên Chúa tác động trên thân phận con người trong thực tại thần bí. Từ bóng tối của giác quan cần được ánh sáng chiếu tỏa, đến bóng tối tâm linh phải được chiếu rọi bằng ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa. Để qua đó con người nhận ra sự thật là họ không chỉ cần ánh sáng mà còn phải học biết yêu bóng tối.

Có bóng tối của tội lỗi, kiêu ngạo cần ánh sáng của ân sủng tình yêu chiếu rọi. Có bóng tối giác quan, bóng tối tâm linh ước mong ánh sáng của an ủi, khát khao kết hợp. Có bóng tối của đau khổ bệnh tật, ganh tị, bỏ rơi, phải được rọi sáng bởi bình an, quảng đại, chữa lành. Có bóng tối trong thanh tẩy khô khan, ánh sáng làm thanh khiết, bừng cháy. Bóng tối bởi ẩn khuất che giấu, ánh sáng trong gặp gỡ, kết hợp. Tuy nhiên, bóng tối lớn nhất, đau khổ lớn nhất khi linh hồn khắc khoải lo mình đã đánh mất Thiên Chúa, hoặc bị đã Thiên Chúa bỏ rơi. Tựa tâm trạng của Đức Giêsu trên thập giá:“Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27,46). Bóng tối bởi quá yêu mà không thể ngay lập tức lấp đầy khát vọng hợp nhất của con tim. Có đau khổ là bởi đau khổ ấy đến từ tình yêu.

Một thực tế khá nghiệt ngã, hễ ai muốn cuộc đời mình trở thành ánh sáng cho người khác, thì người ấy phải chấp nhận đi trong bóng tối. Bóng tối khủng khiếp nhất không phải là đau khổ vì vắng bóng Chúa, nhưng là sự khát khao gặp Chúa mà không gặp được. Và đau đớn hơn cả bóng tối chính là cơn khát về Người. Đó cũng là cảm nghiệm của vị thánh thành Calcutta của thế kỉ 20 :

Chính cái cảm giác mất mát khủng khiếp này, bóng tối khôn cùng này, nỗi cô đơn này, sự khao khát Chúa vô tận này đã khiến lòng con đau đớn vô cùng. Bóng tối đến nỗi con không thấy được, cả bằng con tim lẫn lý trí. Vị trí của Chúa trong con tim con bị bỏ trống. Khi nỗi đau quá lớn, con chỉ biết mong mỏi, mong mỏi Chúa.[34]

Có bóng tối để giúp người ta nhận ra ánh sáng. Chúa dùng chính kinh nghiệm bóng tối nơi người này để chiếu sáng cuộc sống cho người kia. Khi nhận ra cách Thiên Chúa hành động trên cuộc đời mình, Mẹ Têrêsa Calcutta đã khiêm nhường bày tỏ ước nguyện :“Nếu tôi được trở thành một vị thánh, chắc chắn tôi sẽ là vị thánh của ‘bóng tối’. Tôi sẽ tiếp tục ở xa Thiên đàng để thắp sáng cho những con người đang phải sống trong bóng tối trên trái đất này”.[35]

Khi bóng tối tạo nên do nỗi đau trong con tim bởi khát khao tìm kiếm mà Người Yêu Dấu cứ như vắng mặt. Khi sự nhớ nhung tưởng chừng như không gì thỏa lấp được khát vọng của con tim, thì bất ngờ Chúa lại đến, tuôn đổ ân sủng tình yêu của Ngài cho linh hồn. Cuộc gặp gỡ trong tình yêu không ai có thể thay thế được :“Ai mà trong giây lát có thể đổ chan hòa ánh sáng vào tâm hồn tăm tối dày đặc như thế. Người làm mềm một trái tim coi như bằng đá, và đổ tràn nước mắt dịu dàng vào một nơi mà từ lâu sự khô khan đã tàn phá”.[36] Trong ánh sáng ân sủng ấy, linh hồn ước ao được nhìn thấy Chúa bằng chính đôi mắt của mình :

“Và ước gì đôi mắt em được thấy Người

Vì Người là ánh sáng của đôi mắt ấy” (khúc ca 10).

Hẳn nhiên, Thiên Chúa là ánh sáng siêu nhiên của đôi mắt linh hồn. Thiếu ánh sáng ấy, linh hồn sẽ rơi vào tối tăm. Vì thế, linh hồn ước mong được trông thấy Người, vì chỉ mỗi mình Người là ánh sáng để đôi mắt ấy nhìn vào. Nó không muốn sử dụng đôi mắt ấy vào chuyện gì khác ngoài việc ngắm nhìn Người.

[37] Bởi vì:“Ngài quả là nguồn sống, nhờ ánh sáng của Ngài chúng con được nhìn thấy ánh sáng” (Tv 36, 10).

Điều lạ lùng đối với con người là Thiên Chúa đã dùng bóng tối để chiếu sáng, và biến ánh sáng thành đêm tối để thanh luyện họ trong đau khổ. Cảm nghiệm điều ấy, tác giả thánh vịnh tự nhủ: “Ước gì bóng tối bao phủ tôi và ánh sáng quanh tôi thành đêm tối! Nhưng đối với Ngài, tối tăm chẳng có chi mù mịt, và đêm đen sáng tỏ như ban ngày, bóng tối và ánh sáng cũng như nhau” (Tv 138, 11-12). Đêm đen là đêm tối tâm linh, đêm chiêm niệm sẽ bùng lên thành ban ngày, trở thành ánh sáng chiếu soi trí hiểu và thanh tẩy lòng muốn con người, để họ xứng đáng kết hợp nên một với Thiên Chúa.

Như vậy, trong cuộc hành trình thiêng liêng con người không chỉ yêu ánh sáng mà còn phải “thích” bóng tối. Chỉ khi biết đón nhận bóng tối mới có hy vọng được chiếu sáng.

1.2. Ngọn lửa và củi khô

Thánh Gioan Thánh Giá đã dùng hình ảnh ngọn lửa và củi khô để mô tả cách thức Thiên Chúa thanh tẩy linh hồn để biến đổi nó nên một với Ngài. Như ngọn lửa tác động lên củi, đốt cháy và biến củi thành lửa, Thiên Chúa ban ân sủng trên linh hồn, thanh luyện và biến đổi nó thành chính Chúa.

Hành trình biến củi thành lửa được thánh nhân mô tả : khi lửa táp vào củi thì trước hết nó làm cho củi phải khô đi, rồi tống khứ thứ ẩm ướt trong củi ra ngoài, củi phải trào ra số nước còn tồn đọng bên trong. Tiếp đến, lửa thui cho củi thành đen đủi, xấu xí, thậm chí còn bốc mùi khó chịu. Càng làm cho củi khô dần, lửa càng lôi củi về phía ánh sáng, loại bỏ hết mọi thứ linh tinh xấu xa và tăm tối nghịch với lửa. Cuối cùng, lửa bén vào củi đốt cháy, biến củi thành lửa và làm cho nó xinh đẹp như lửa.[38] Cũng vậy, trước khi cho linh hồn được hiệp nhất với Thiên Chúa, lửa thần linh của tình yêu Thiên Chúa phải thanh tẩy nó khỏi mọi xấu xa đối nghịch. Lửa làm cho những điều xấu xa của linh hồn bật ra ngoài, khiến linh hồn đen đủi, tối tăm đến nỗi có vẻ như tồi tệ, thậm chí đáng tởm hơn trước. Thiên Chúa dùng “ánh sáng tối tăm” của ơn chiêm niệm thần linh chiếu rọi, giúp linh hồn thấy rõ mình quá xấu xa, đến nỗi không những chẳng đáng Thiên Chúa đoái thương, mà còn đáng Thiên Chúa ghê tởm. Linh hồn nhờ đó trở nên dịu hiền, khiêm nhường vì nhận biết sự thật nơi mình. “Ánh sáng tối tăm” chính là đêm tối giác quan và tâm linh. Bằng khô khan, trống rỗng, Thiên Chúa thanh tẩy hết những gì nhơ bẩn và cảm giác nơi linh hồn, Ngài biến đổi nó nên giống Ngài, xứng đáng đón nhận và nên một trong tình yêu.

Ở đời này ngọn lửa thanh luyện linh hồn đạt sự hoàn hảo của tình yêu gây đau đớn, vì còn mang tính thiêu đốt và tàn phá. Giống như lửa thiêu cháy củi và làm cho củi thành lửa rồi thành than. Mặc dù than được biến đổi thành đồng dạng với lửa, nhưng khi thiêu đốt than, lửa cũng hủy diệt và biến than thành ra tro. Trong Khúc linh ca 39, thánh Gioan Thánh Giá còn nói về “ngọn lửa thiêu đốt mà không gây đau đớn”, đó là lửa tình yêu Chúa Thánh Thần. Lửa thiêu đốt để đưa đến kết thúc và hoàn tất mỹ mãn trong tình yêu mà không gây đau đớn. Vì muốn cho hoàn hảo, tình yêu phải có hai đặc tính : vừa thiêu đốt linh hồn; vừa biến đổi linh hồn thành Thiên Chúa.[39] Điều này chỉ có được khi đã đạt tới tình trạng toàn phúc, khi ngọn lửa kia chỉ còn là tình yêu hoan lạc. Vì khi linh hồn đã được biến đổi trong ngọn lửa Thánh Thần thì được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, cùng mãn nguyện trong hạnh phúc với Thiên Chúa. Không còn đau đớn, khổ tâm do bên hơn bên kém, như khi linh hồn chưa được thanh luyện đạt tới tình yêu hoàn hảo. Bởi tình yêu hoàn hảo mang đặc tính ngang hàng. Ở tình trạng này, Thiên Chúa đã biến đổi và đặt linh hồn ngang hàng với Ngài để yêu nó. Đó là cảm nghiệm được thánh Gioan reo lên trong tác phẩm “Ngọn lửa tình nồng”:

Ôi ngọn lửa tình yêu hằng sống! 
Thiêu hủy tôi, Ngài làm tôi biến đổi 
Từ cái chết Ngài làm nên sự sống 
Ôi những ngọn đèn cháy sáng!
Chiếu huy hoàng vào hang hốc giác quan, 
Nơi trước đây tăm tối mù lòa,
Nay chuyển hóa thành những điều tuyệt hảo, 
Thành sức nóng và thành ánh sáng
Cho Đấng Chí Ái tôi yêu.[40]

Mượn hình ảnh ngọn lửa đốt cháy củi khô, thánh Gioan Thánh Giá mời gọi chúng ta chiêm ngắm ngọn lửa tình yêu thanh luyện và biến đổi linh hồn. Qua đó, một hành trình thần bí được hé mở : từ tăm tối thành sức nóng và ánh sáng; từ thanh tẩy đến chiếu sáng, từ chiếu sáng đến hợp nhất nên một với Thiên Chúa.

1.3. Vết thương tình ái

Vết thương tình ái là hình ảnh thần bí thể hiện rõ nét sự kết hợp hoàn hảo về giáo thuyết giữa Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá. Quả thật, thị kiến vết thương tình ái được Têrêsa mô tả trong Tiểu sử Tự thuật và Lâu đài nội tâm sẽ dễ hiểu khi được chiếu rọi qua cảm nhận của Khúc linh ca. Têrêsa thuật lại thị kiến ấy như sau:

Con thấy có một thiên thần lấy hình người, ở bên tay trái con … Chắc đây là vị người ta vẫn thường gọi là Thần Sốt Mến, tay cầm một cây giáo bằng vàng, nơi đầu mũi giáo bằng sắt, con trông thấy hình như có lửa. Ngài đâm mũi sắt này vào tim con mấy lần, thấu tận tạng phủ con. Khi Ngài rút ra, con cảm thấy như ngài rút cả tâm can con ra theo, bấy giờ con bừng cháy lửa yêu mến Chúa.[41]

Lẽ thường khi cơ thể người ta trúng thương, vết thương càng sâu thì càng đau và khó chữa. Trái lại, vết thương tình Têrêsa đã trúng thì nỗi đau đớn mãnh liệt đó lại gây nên sự ngọt ngào lớn lao :“nó gây cho con phúc lạc lớn lao hơn bất cứ niềm hoan lạc nào mà toàn thể vụ trụ này có thể tạo nên”.[42] Tại sao vậy? Theo thánh Gioan Thánh Giá, vết thương tình chính là nỗi nhớ Người Yêu Dấu say đắm, bởi đã được Ngài đón nhận và hé mở cho biết tình yêu vô tận và vẻ đẹp tuyệt hảo của bản thể Ngài. Nỗi nhớ ấy làm cho người bị trúng thương không thể được chữa lành nếu không được gặp mặt chính người đả thương. Tuy nhiên, vết thương đó càng sâu bao nhiêu thì người bị trúng thương càng sướng khoái bấy nhiêu và lại ước mong nó không lành lại.[43]

Vết thương ấy xuất hiện sau một lần xuất thần : khi Người Yêu Dấu đem người mình yêu đến một nơi mà chẳng ai khác có thể đến được để thổ lộ tâm tình,[44] hé mở cho nó một chút vẻ đẹp đích thực của Bản Thể Ngài, thông truyền cho linh hồn chính Ngài, tựa như trong một cuộc đính hôn nhiệm lạ. Dù chỉ xẩy ra trong khoảnh khắc nhưng cả ngàn năm sau linh hồn cũng chẳng thể nào quên. Chân lý về chính bản thể Ngài được mặc khải cho linh hồn lớn lao đến nỗi trí khôn con người có học biết cả ngàn năm cũng không thể bằng một chút mặc khải ấy. Vì thế, linh hồn mong ước vết thương ấy không lành cho tới khi nó được hợp nhất nên một với Người Yêu Dấu trong cuộc kết hôn thần bí. Điều mà thánh nhân gọi là “vết phỏng êm ái”.

Thánh Gioan Thánh Giá cho rằng có sự bình đẳng trong tình yêu giữa Người Yêu Dấu và linh hồn.[45] Trong sự bình đẳng ấy, chính Người Yêu Dấu cũng trúng thương, bởi chính Người nhớ thương và khát khao hợp nhất nên một với linh hồn. Sự đau đớn vì vết thương của người yêu cũng chính là nỗi khát khao chịu khổ của người được yêu. Vì khi đó cả hai đã thuộc về nhau, là của nhau rồi. Còn linh hồn, vì đã hoàn toàn dứt khoát không nhận một bạn tình nào khác, nhưng Đấng Lang Quân lại không màng đến những ước muốn mãnh liệt lễ đính
hôn sớm được hoàn thành của họ,[46] nên đau khổ khôn nguôi. Có điều tại sao cả hai đều khát khao yêu thương mà lại không thể thỏa mãn tình yêu? Chính sự khác biệt về hữu thể khiến cho Người Yêu Dấu không thể hiệp nhất nên một với người mình yêu, khi chưa được thanh luyện.

Theo thánh Gioan Thánh Giá, cần phải có tia sáng của đêm tối thanh luyện tâm hồn người yêu nên trong sạch, tinh tuyền mới có thể xứng đáng hợp nhất. Chính vì thế, vết thương tình làm cho người được yêu đau khổ mà chẳng có nguồn an ủi nào có thể thỏa lấp, nếu không có sự hiện diện của Người Yêu Dấu. Cho nên, vết thương tình chính là quà tặng mà Người Yêu Dấu trao ban cho người yêu trước khi có cuộc hợp nhất trọn vẹn. Người chưa “yêu và được yêu” khó mà cảm nghiệm được nỗi khổ của kẻ yêu mà không thể gặp gỡ, cũng không thể ngay lập tức lấp đầy khát vọng của con tim. Cũng chẳng có thày thuốc nào chữa lành được vết thương tình, chẳng gì có thể làm cho người yêu được thỏa mãn ngoài chính người mình yêu. Chỉ trên Thiên đàng vết thương ấy mới được chữa lành.

Vết thương tình là một ân huệ, nên chẳng ai có thể đòi hỏi hay ước mong được trúng vết thương ấy. Người Yêu Dấu hoàn toàn tự do trao ban cho ai, vào lúc nào Ngài muốn, và luôn trao ban cách nhiệm lạ. Vì thế, có người bị trúng thương mà không biết ai đã làm và vết thương đó như thế nào. Có điều chắc chắn là Người Yêu Dấu chỉ trao ban cho ai đã hoàn toàn trao hiến trọn vẹn trái tim cho Người.

(Còn tiếp)
- Trích trong tác phẩm "Đời sống thần bí Ki-tô giáo qua cảm nghiệm của thánh Têrêsa Avila và thánh Gioan Thánh Giá" của Phêrô Tạ Văn Tuân.

Thứ Tư, 22 tháng 5, 2024

Đời sống thần bí Kitô giáo (Phần 2)




3. Sự kết hợp hoàn hảo[25]

Trong Hội Thánh thời ấy, người ta đã biết đến sự kết hợp thánh thiện giữa Phanxicô Átsisi và Clara. Với Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá, một mẫu gương sự kết hợp hoàn hảo khác được lộ diện. Sự kết hợp không chỉ trong cuộc sống, công việc mà cả giáo thuyết, đến độ muốn hiểu người này phải hiểu người kia.

3.1. Trong cuộc sống

Có bao điều khác biệt giữa Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá. Khác biệt về giới tính, tính cách, tuổi tác, trình độ học vấn, địa vị gia đình …, nhưng giữa họ có một điểm chung, chỉ cần điểm chung này các khác biệt được hợp nhất cách hoàn hảo: cả hai người đều say mê Thiên Chúa.

Cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá diễn ra năm 1567, khi ấy cha Gioan mới 25 tuổi, còn Têrêsa đã sang tuổi 52, thế mà như họ đã gặp nhau lâu rồi. Sau cuộc gặp gỡ đó, Têrêsa có được câu trả lời cho bao nhiêu kinh nguyện xin Chúa ban cho người có khả năng thực hiện cuộc cải tổ. Cha Gioan chính là câu trả lời tuyệt diệu của Thiên Chúa đáp lại khát vọng đó. Đối với Têrêsa, cha Gioan là“một trong những linh hồn thanh khiết nhất và thánh thiện nhất Thiên Chúa có được trong Hội Thánh”.[26] Bởi thế, Têrêsa coi Gioan như một người vừa là “con của mẹ” vừa là “cha linh hồn của tôi”.[27] Thật vậy, chính thời gian cha Gioan làm linh hướng tại tu viện Nhập Thể, Têrêsa nhận được ơn kết hôn tâm linh với Chúa Ki-tô và cũng tại đây, cha Gioan được thị kiến thấy Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Và trong ngày lễ Chúa Ba Ngôi, cả hai nhà cải tổ cùng xuất thần.[28]

Nếu Têrêsa từng nói rằng trong khắp cả vùng Castille, ngài không tìm được một ai như cha Gioan,[29] thì cha Gioan cũng không tìm được một ai khác giầu kinh nghiệm thần hiệp như mẹ. Quả thế, muốn cố gắng đào sâu về mẹ Têrêsa hãy đến với cha Gioan và khi tìm hiểu cha Gioan thì sẽ khám phá vẻ đẹp nơi tâm hồn mẹ Têrêsa.[30]

3.2. Trong công việc

Sự cộng tác giữa Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá đến độ hoàn hảo là trong thời gian Têrêsa làm Bề Trên tại tu viện Nhập Thể, còn cha Gioan làm linh hướng. Chính trong thời gian này, mối quan hệ tâm linh giữa hai nhà cải tổ được đào sâu. Cha Crisogono nói rằng mẹ Têrêsa và cha Gioan tựa như hai bàn tay làm việc trên cùng một dự phóng.[31] Chúa đã kêu gọi hai vị đến tu viện này để làm một công việc duy nhất là biến đổi 130 nữ tu ở đây. Có thể nói, chỉ trừ khoảng thời gian cha Gioan bị giam tại Toledo, công cuộc cải tổ dòng kín ngành nữ và nam được thực hiện bởi hai con người mà chỉ một công việc.

3.3. Trong giáo thuyết

Sự kết hợp hoàn hảo giữa hai vị thánh đặt nền tảng cho nền linh đạo Cát- minh được kết tụ trong giáo thuyết về đời sống tâm linh họ để lại cho hậu thế. Giáo thuyết của Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá bổ sung cho nhau cách thiết yếu. Tất cả được hàm chứa trong tình yêu, sự khó nghèo, đức khiêm nhường, đau khổ và thần bí.

Trước hết, phải nói ngay là giáo thuyết của hai vị dành cho các tu sỹ Cát-minh và những người sẵn sàng và can đảm đón nhận con đường hẹp của thập giá. Những người khiêm nhường thẳm sâu, biết buông mình để cho Chúa sử dụng;

họ muốn đi qua sự trần trụi của tâm linh, những người say mê sự thánh thiện hay ít là có thể đi đến sự say mê đó. Phương pháp tu đức của họ chủ yếu hướng đến thần bí, vì thế giáo thuyết mang tính kiên quyết, không khoan nhượng.[32] Thật vậy, con đường tâm linh về đức nghèo khó và trông cậy là nền móng học thuyết của Gioan Thánh Giá, còn đức khiêm nhường và cầu nguyện là nền tảng của học thuyết mà Têrêsa đã để lại cho Hội Thánh. Nhưng sự nghèo khó tâm linh phải được hiểu trong đức khiêm nhường, và thái độ trông cậy tuyệt đối nơi Thiên Chúa lại đến nhờ phút giây đắm chìm trong cầu nguyện, chiêm ngắm.

Rồi nữa, để tiến bước trên đường tâm linh, Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá mời gọi người ta đi vào con đường thanh luyện. Giáo thuyết của hai vị lấy tình yêu để hiểu đau khổ, thanh luyện bằng tình yêu, vì tình yêu kết hợp con người với Thiên Chúa cách nhiệm lạ.

Cuối cùng, học thuyết tâm linh của hai vị không hình thành từ suy tư của lý trí mà đến từ cảm nghiệm của con tim, trong cầu nguyện, chiêm niệm và xuất thần. Ngôi Lời Thiên Chúa được cảm nhận nơi Đức Giêsu làm người như một Đấng Tình Quân, Bạn Tình – Người Yêu Dấu rất gần gũi, thân tình chứ không phải là Đức Ki-tô của môn Ki-tô học.

Như vậy, người ta không thể phủ nhận sự kết hợp hoàn hảo về giáo thuyết của hai vị thánh đặt nền tảng cho nền linh đạo Cát-minh. Quả thực, người ta sẽ không thể đón nhận sự khó nghèo trần trụi của con tim mà thánh Gioan Thánh Giá mời gọi, khi chưa sống thái độ khiêm nhường thẳm sâu, nền tảng sự tăng trưởng đời sống nội tâm thánh Têrêsa đã trình bày. Cũng thế, người ta sẽ chẳng thể bước vào cuộc thanh tẩy bằng đêm tối, được coi là trung tâm học thuyết thánh Gioan Thánh Giá, nếu chưa lặng lẽ và kiên trì thực hành việc cầu nguyện của bậc thày Têrêsa. Và điều có ý nghĩa nhất là sự kết hợp nên một giữa linh hồn với Thiên Chúa cuộc hôn phối thần linh, được thánh Têrêsa cảm nghiệm ở cư sở thứ bảy của Lâu đài nội tâm, sẽ được minh giải nơi Ngọn lửa tình nồng của thánh Gioan Thánh Giá.

(Còn tiếp)
- Trích trong tác phẩm "Đời sống thần bí Ki-tô giáo qua cảm nghiệm của thánh Têrêsa Avila và thánh Gioan Thánh Giá" của Phêrô Tạ Văn Tuân.


Thứ Ba, 14 tháng 5, 2024

Mắt Tình

 


Mắt Ngài đâm thấu tim con,
Thời gian ngừng lại không còn chảy trôi.
Lạy Trời! Con lạy Tình ơi!


Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2024

Đời sống thần bí Kitô giáo (Phần 2)




1. Đôi nét về tiểu sử

Có nhiều cách để hiểu một con người. Với một thánh nhân, ngoài việc tìm hiểu con người, sự nghiệp và ảnh hưởng của họ, cần khám phá ra cách thức ân sủng Thiên Chúa biến đổi một người trở nên thánh theo ý Ngài.

1.1. Thánh Têrêsa A-vi-la

1.1.1. Con người

Biến cố ngã ngựa trên đường Đa-mát[7] đã chia đôi cuộc đời của một con người: Saun của Do-thái giáo thành Phaolô của Ki-tô giáo. Cũng vậy, thị kiến hình ảnh đầu tiên[8] cũng làm cho Têrêsa Avila – con người của thế gian, trở thành một Têrêsa Giêsu – người của Thiên Chúa như thế.[9]

Người con của thế gian ấy chào đời ngày 18 tháng 3 năm 1515 trong một gia đình quí tộc, tại La Moneda gần Avila, với tên gọi là Teresa Sanchez de Cepeda y Ahumada. Thân phụ của Têrêsa là ông Alonso Sanchez de Cepeda, một người đạo đức và thích đọc sách, nhất là sách đạo đức. Thân mẫu là bà Beatriz d’Avila Y Ahumada, một phụ nữ nhân đức, đoan trang, tiết hạnh và thích đọc tiểu thuyết trinh thám.[10] Sự khác biệt của cha mẹ đã tạo nên một Têrêsa vừa khát khao sự thánh thiện vừa muốn sống sự đài các của một tiểu thư lãng mạn.

Người dân thành Avila gọi cô là công nương lộng lẫy Têrêsa Ahumađa Cepeda. Những lời tán dương chúc tụng của những anh chàng si mê Têrêsa chỉ kết thúc cô khi được mười ba tuổi. Thân mẫu qua đời, thân phụ đã gửi Têrêsa vào một trường nội trú do các nữ tu dòng thánh Augustinô điều khiển. Vào sống nội trú trong tu viện theo ý của người cha, Têrêsa không hề nghĩ sẽ trở thành nữ tu. Nàng chỉ mong sớm hết năm để trở lại với cuộc sống vốn thuộc về mình. Tuy nhiên, tiếng Chúa mời gọi tha thiết, mãnh liệt, khiến cô không cưỡng lại được. Sau một thời gian giằng co chiến đấu, Têrêsa đã hiến mình cho Chúa trở thành nữ tu dòng kín Cát-minh, khi cô 21 tuổi.

Trong tu viện Nhập Thể ở Avila, sơ Têrêsa nhanh chóng hòa nhịp với các nữ tu khác sống tinh thần bộ luật khoan nhượng của dòng kín đã được phê chuẩn. Với luật đã được giảm nhẹ, các nữ tu có giờ trò chuyện, tiếp khách, nên cách nào đó tinh thần của thế tục đã từ từ đi vào đan viện. Têrêsa cảm thấy như bị xâu xé trong nội tâm bởi khát khao mãnh liệt thuộc về Chúa lúc cầu nguyện với Ngài trong tu phòng của nội vi, nhưng lại hào hứng phấn chấn trong giờ tiếp chuyện với người ta tại phòng khách. Và điều Chúa muốn Ngài sẽ thực hiện. Trong một thị kiến xẩy ra khi chị đang cầu nguyện trước tượng Chúa Giêsu đầy thương tích. Cảm nhận cái nhìn mãnh liệt của Chúa, Têrêsa rơi vào tình trạng xuất thần. Trong cơn xuất thần này, Chúa chiếm đoạt chị và bắt đầu thời kỳ của Ngài trong người nữ tu bé nhỏ này.

Công nương lộng lẫy Têrêsa Ahumađa Cepeda đã trở thành một Têrêsa Giêsu, nồng nàn tận hiến để thực hiện công việc của Chúa. Từ giờ phút ấy, cuộc đời chị không còn là của mình nữa, nhưng là của Chúa Giêsu ở trong chị. Chúa Giêsu ngày càng hiện diện sống động, mạnh mẽ trong đời chị, đến nỗi chị tiếp tục nghĩ đến Ngài cả trong giấc ngủ. Trước bao ân sủng tuôn đổ như thác xuống tâm hồn, con tim Têrêsa ngày càng gắn bó với con tim của Chúa Giêsu, Người Bạn Tình, đến độ chị không còn tìm kiếm gì khác ngoài “danh giá” và “quyền lợi” của Người Bạn ấy.

Bao nhiêu khó khăn gian khổ trong công việc cải tổ dòng kín ngành nữ và nam, Têrêsa hoàn toàn buông mình để Chúa thực hiện thời kỳ của Ngài. Trong chiêm niệm, cầu nguyện và xuất thần, Chúa không ngừng hướng dẫn và ban sức mạnh để chị can đảm thi hành. Khi cần cộng tác, Ngài đã gửi người đầy nhiệt huyết, lòng hăng say và khát khao sống tinh thần Cát-minh về nguồn là linh mục trẻ Gioan. Với sự trợ lực mạnh mẽ này, Têrêsa hăng say không mệt mỏi thực hiện điều Chúa muốn cho đến hơi thở cuối cùng. Ngài qua đời ngày 4 tháng 10 năm 1582 trong cuộc hành trình thành lập đan viện mới ở Alba de Tormes.

1.1.2. Sự nghiệp

Têrêsa không phải là nhà văn, cũng không muốn để lại giáo thuyết gì. Ba tác phẩm lớn của ngài đều ra đời từ đức vâng lời các cha giải tội, và là cảm nghiệm của Têrêsa trước ân huệ của Thiên Chúa. Nhưng khi tìm hiểu các tác phẩm này, người ta lại khám phá ra một Têrêsa bậc thày trong con đường tu đức, đời sống thiêng liêng và cảm nghiệm thần hiệp.

Tiểu sử Tự thuật, tác phẩm đầu tay của Têrêsa Avila, được viết trong thời gian rất ngắn, theo sự vâng lời cha Garcia de Toledo, hoàn thành tháng 6 năm 1562. Tác phẩm trình bầy rất chân thực đời sống thiêng liêng và kinh nghiệm thần hiệp của Têrêsa. Đường hoàn thiện là tác phẩm thứ hai có thế giá trong thần bí học, được Têrêsa viết không lâu sau Tiểu sử Tự thuật. Tác phẩm được chính cha D. Banez, linh hướng của ngài, công bố là :“Tiếng nói của con tim đã được cảm nghiệm và là sự trình bày của một lý trí đã được trau dồi bởi học hỏi, đọc sách và chuyện vãn thánh thiện”.[11] Cuốn sách chứa đựng những lời khuyên cụ thể và những hướng dẫn khai tâm vào đời sống cầu nguyện dành cho các nữ tu và con cái của Têrêsa Cả.

Tác phẩm thứ ba được coi như kiệt tác thần bí của Têrêsa là Lâu đài nội tâm, viết năm 1577. Tuyệt phẩm mô tả hành trình linh hồn kết hợp với Thiên Chúa qua bảy cư sở của tòa lâu đài nội tâm. Khác với các khảo luận về cầu nguyện trước đó, các tác phẩm của Têrêsa có tính thực hành hơn là lý thuyết, mô tả hơn là giải thích, nhất là những ánh sáng tâm lý học vô giá rút từ kinh nghiệm cá nhân và sự quan sát sâu kỹ hành vi của người khác.[12] Nhìn chung, các tác phẩm của Têrêsa rất chuyên môn, được viết ra từ những cảm nghiệm thần bí thâm sâu. Khi đọc các tác phẩm này độc giả vừa như được đụng chạm tới huyền nhiệm cao siêu nơi Thiên Chúa, lại vừa tìm đường nẻo tiến bộ trong cầu nguyện để kết hợp với Ngài.

Ngoài các tác phẩm, sự nghiệp của Têrêsa còn biết đến qua cải tổ dòng Cát-minh và các đan viện ngài thành lập. Chỉ trong khoảng 15 năm, từ năm 1567 đến năm 1582 người phụ nữ bé nhỏ này đã bất chấp mọi khó khăn gian khổ đi khắp Tây Ban Nha, thành lập 17 đan viện nữ Cát-minh về nguồn[13]. Tuy nhiên, sự nghiệp vĩ đại nhất của Têrêsa Avila là trở thành Bạn Trăm Năm của Đấng Tình Quân mình yêu mến, tôn thờ. Têrêsa đã sống cuộc đời xứng với tên gọi Têrêsa Giêsu. Năm 1622, sau 40 năm từ giã cuộc đời ngài được phong thánh cùng với hai tổ phụ dòng Tên là Inhaxiô Lôyôla và Phanxicô Xavie.

1.1.3. Ảnh hưởng

Ảnh hưởng của thánh Têrêsa Avila vượt qua những gì người ta có thể nghĩ về một nữ tu dòng kín. Một tước hiệu kép do chỗ đứng của ngài trong lịch sử linh đạo: nhà cải cách dòng Cát-minh và người giữ thẩm quyền vô song trong thần học về cầu nguyện.[14] Quả vậy, ảnh hưởng của Têrêsa không chỉ dừng lại nơi dòng Cát-minh. Riêng về lãnh vực cầu nguyện:“chưa từng có ai sánh vai với Têrêsa, càng không có ai vượt qua Têrêsa trong tư cách là người giảng giải các giai đoạn cầu nguyện”.[15] Có thể nói, kể từ thời Têrêsa đến nay, hễ nói về cầu nguyện, chiêm niệm hay thần bí là người ta nhắc đến Têrêsa Avila. Ngài được gọi bằng cái tên thân thương là vị thánh hay xuất thần. Nhìn chung, các nền linh đạo Ki-tô giáo sau đó cách nào đó đều chịu ảnh hưởng bởi các tác phẩm của ngài.

Năm 1970, Đức Giáo hoàng PhaolôVI đã phong thánh Têrêsa Avila tước hiệu tiến sỹ Hội Thánh. Thánh nhân là người phụ nữ đầu tiên được nhận danh hiệu cao quí này.[16]

1.2. Thánh Gioan Thánh Giá

1.2.1. Con người

Có ba danh xưng để gọi con người vĩ đại này: Gioan Yepes; Gioan Thánh Mátthia và Gioan Thánh Giá. Các tên gọi ấy tương ứng với ba giai đoạn trên con đường nên thánh của ngài: Gioan Yepes – con người; Gioan Thánh Mátthia – tu sĩ và Gioan Thánh Giá – nhà thần nhiệm.

Gioan Yepes chào đời ngày 24 tháng 6 năm 1542 tại Castille, là hoa trái của cuộc tình nhiều hy sinh của ông Gonzalo de Yepes với bà Catarina Alvarez. Ông Gonzalo de Yepes xuất thân từ gia đình có thế giá ở Toledo. Bà Catarina Alvarez, xinh đẹp tốt lành, vừa diễm lệ vừa cao quí nhưng con nhà nghèo và mồ côi. Họ yêu nhau và thành vợ chồng bất chấp mọi khó khăn môn đăng hộ đối. Khi Gioan Yepes lên 4 tuổi, sự ra đi của người cha đã đẩy cả gia đình vào tình trạng khốn cùng. Nhờ tình yêu thương và sự khôn ngoan của mẹ, Gioan được đi học tại trường dành cho các trẻ mồ côi. Ở tuổi niên thiếu cậu đã đi chăm sóc bệnh nhân tại bệnh viện để kiếm sống. Trong thời kỳ này, người ta thấy một Gioan Yepes đạo đức, có lòng yêu thương người nghèo và tình thần say mê học tập.

Năm 1563, khi được 21 tuổi, Gioan quyết định dâng mình cho Chúa trong dòng Cát-minh nam. Vào năm 1564, Gioan Yepes tuyên khấn với tên gọi là Gioan Thánh Mátthia. Nhận ra sự thông minh và ham học của tu sĩ trẻ tuổi này, nhà dòng đã gửi thày Gioan tới học văn chương, triết học và thần học tại trường đại học dòng Tên Salamanca. Tháng 7 năm 1567, thày Gioan thụ phong linh mục và trở về Avila dâng lễ mở tay. Tại đây, cha Gioan đã gặp thánh Têrêsa. Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy hứa hẹn, nó mở ra cho cha Gioan một tương lai đầy lý thú dù chưa thấy rõ. Qua việc kết hợp sâu xa và cộng tác chân thành, cha Gioan và mẹ Têrêsa thực hiện cuộc cải tổ dòng Cát-minh, điều mà Thiên Chúa quan phòng đã chuẩn bị cho hai vị.

Trong công việc cải tổ dòng kín ngành nam, kịch tính nhất là giai đoạn cha Gioan bị các anh em cùng dòng coi là phản loạn, bắt giam tại Toledo từ tháng 12 năm 1577 đến tháng 8 năm 1578. Thời gian này, ngài được biết đến với tư cách là nhà đào tạo, người sống và dạy người khác sống thần hiệp. Cũng từ đây, danh xưng Gioan Thánh Giá được tỏ lộ. Có thể nói, thử thách đau thương ở Toledo đã chia đôi đời tu của ngài : 14 năm trước đó, năm 1563 cậu Gioan vào dòng Cát- minh, và 14 năm sau, năm 1591 Gioan Thánh Giá chết tại Ubeda.[17]Mặc dù thân xác bị giam cầm, nhưng tâm hồn thánh nhân thì tràn ngập Thiên Chúa. Điều đó chứng thực: “ân sủng đã bao trùm lên một con người mà chín tháng địa ngục đã trở thành cơn đau chuyển cữ để sinh ra một thụ tạo mới, cả về nhân cách và tâm linh”.[18]

1.2.2. Sự nghiệp

Chín tháng tù giam tại Toledo, Gioan Thánh Giá đã để lại những áng thơ thần bí bất hủ, khiến ngài trở thành nhà thơ thần bí vĩ đại không chỉ của Tây Ban Nha mà cho toàn thế giới. Các tác phẩm hay nhất về thần bí Ki-tô giáo của thánh nhân cũng ra đời từ việc minh giải các áng thơ này.

Bốn tác phẩm lớn của Gioan Thánh Giá là: Lên đỉnh Cát Minh (1579 – 1585); Đêm tối linh hồn (1582 – 1585); Khúc linh ca (biên soạn lần đầu năm 1584 và lần hai năm 1586 và 1591); Ngọn lửa tình nồng (biên soạn lần đầu giữa năm 1585 và năm 1587, lần thứ hai giữa năm 1586 và 1591). Ngoài ra còn có 10 bài thơ Tình khúc; khoảng 200 câu châm ngôn về Ánh sáng và tình yêu cùng những Lời khuyên; Những lời Cảnh báo và bốn Lời khuyên gửi một tu sĩ và 34 lá thư.[19] Đọc những tác phẩm này, người ta thấy rõ một Gioan Thánh Giá xứng với danh hiệu nhà văn, nhà thơ thần bí. Quả vậy, đời sống nội tâm và sự kết hiệp thần nhiệm giữa linh hồn và Thiên Chúa được ngài mô tả bằng những hình ảnh rất sống động, lãng mạn như một cuộc tình.

Trong sự nghiệp cải tổ dòng kín, sứ mạng của thánh Gioan Thánh Giá rất rõ nét: là tập sư, là nhà đào tạo tâm linh và thày dạy sống thần hiệp. Năm 1570 học viện đầu tiên của dòng Cát-minh cải tổ được thành lập, Gioan Thánh Giá là viện trưởng. Với tri thức và kinh nghiệm ngài học được từ đại học Salamanca, việc đào tạo các tu sỹ sinh viên của học viện đem lại cho công cuộc cải tổ những tập sư đầu tiên thật sáng giá. Sau đó, thánh Gioan Thánh Giá cộng tác với thánh Têrêsa Avila tại tu viện Nhập Thể với vai trò cha linh hướng cho các nữ tu.

Nếu thành công của đời người là nên thánh, thì Gioan Yepes đã đạt được khi trở thành thánh Gioan Thánh Giá. Ngài đã sống cuộc đời xứng với tên gọi này. Vào năm 1726 Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XIII đã tuyên phong Gioan Thánh Giá lên bậc hiển thánh.

1.2.3. Ảnh hưởng

Cha Thomas Merton đã nhận định thánh Gioan Thánh Giá là nhà thần bí lớn nhất trong tất cả các nhà thần học thần bí.[20] Ngài cùng với thánh Têrêsa Avila trao cho Giáo hội giáo thuyết về linh đạo chưa từng bị vượt qua.[21] Cách riêng với dòng Cát-minh, Gioan Thánh Giá cùng với Têrêsa Avila là hai cột trụ, trên đó trường phái linh đạo Cát-minh được dựng xây và phát triển vững chắc cho đến ngày nay.[22]

Trong dòng Cát-minh, không chỉ các tu sỹ nam, nữ mà ngay cả thánh Têrêsa Cả cũng được thăng tiến nhờ sự chỉ dẫn thiêng liêng của thánh Gioan Thánh Giá. Có thể nói linh đạo “con đường thơ ấu thiêng liêng” của thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, cũng chỉ là cách gọi khác của linh đạo“tập trung vào tình yêu” mà thánh Gioan Thánh Giá đã sống. Gioan Thánh Giá đã sống trọn vẹn ơn gọi của dòng Cát-minh Về Nguồn.

Với những người khác, ảnh hưởng của Gioan Thánh Giá lớn đến độ chỉ nguyên sự hiện diện của thánh nhân cũng đủ để qui tụ một đoàn người, từ kẻ hèn mọn đến những người trọng vọng bậc nhất trong xã hội. Đặc biệt là tất cả họ, nam lẫn nữ đều sống mối tương giao nghĩa thiết, thân tình với Thiên Chúa.[23] Bà quả phụ Ana de Pẽnalosa đã coi thánh nhân như là người cha, người thày. Bà đã thực thi giáo huấn của thánh nhân cách hoàn hảo đến nỗi ngài có thể viết tặng bà tác phẩm cao siêu bậc nhất của mình là Ngọn lửa tình nồng.

Cũng không quá khi so sánh ảnh hưởng của bộ Tổng luận thần học của thánh Tôma Aquinô xét về tầm mức phổ quát trong lãnh vực tri thức thuần túy với các tác phẩm của Gioan Thánh Giá trong lãnh vực tri thức thực hành. Quả thế, các tác phẩm bàn về đời sống tâm linh, hoặc khía cạnh nào đó trong đời sống tâm linh, hay về một cách thức nào đó trong việc kết hợp với Thiên Chúa người ta đã biết, đều phải được đọc dưới ánh sáng các nguyên tắc vị thánh tiến sĩ đã đề ra. [24] Tước hiệu“tiến sĩ thần bí” được Hội Thánh phong tặng cho thánh Gioan Thánh Giá ngày 24 tháng 8 năm 1926, khẳng định ảnh hưởng của ngài trong đời sống thần bí Ki-tô giáo.

(Còn tiếp)
- Trích trong tác phẩm "Đời sống thần bí Ki-tô giáo qua cảm nghiệm của thánh Têrêsa Avila và thánh Gioan Thánh Giá" của Phêrô Tạ Văn Tuân.

Thứ Năm, 2 tháng 5, 2024

Đời sống thần bí Kitô giáo (Phần 2)



Như đã đề cập, những người được ơn kết hợp đặc biệt với Thiên Chúa thường giữ kín vì hai lý do: tự bản chất cảm nghiệm thần bí mang tính khôn tả, và do đức khiêm nhường thúc đẩy họ giữ riêng mình với Chúa. Thánh Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá thuộc vế số ít người vừa được ơn cảm nghiệm thần bí, vừa có thể diễn tả những cảm nghiệm đó cho người khác. Tìm hiểu về hai vị thánh, người ta có thể khám phá những cung bậc cảm xúc thần linh trong cảm nghiệm thần bí, cũng như nét đặc sắc của cảm nghiệm nơi hai vị thánh này.

I. ĐỂ HIỂU THÁNH TÊRÊSA AVILAVÀ THÁNH GIOAN THÁNH GIÁ

Con người làm nên lịch sử. Đối lại, lịch sử cũng góp phần định vị con người. Muốn hiểu một con người, phải hiểu bối cảnh lịch sử người đó sống. Thế kỷ XVI đánh dấu nhiều thay đổi trong thế giới và Hội Thánh. Những khám phá mới của con người trong nhiều lãnh vực đã làm thay đổi nhận thức về những giá trị tâm linh. Tình trạng luân lý đạo đức ở trên đà suy thoái. Hiện tượng thần bí Tây Ban Nha làm nẩy sinh nhiều vấn đề. Hoàn cảnh ấy không chỉ góp phần tạo nên, mà còn giúp nhận hiểu hai con người vĩ đại của lịch sử thần bí Tây Ban Nha và Hội Thánh Công Giáo.

1. Bối cảnh lịch sử

1.1. Hoàn cảnh thế giới

Thế kỷ XVI, thế giới bước vào giai đoạn đầu thời hiện đại xét về mọi phương diện. Thế giới được “mở rộng” từ lục địa này sang lục địa khác. Những cuộc thám hiểm đã khám phá ra Bắc Mỹ, Mêhicô, Phi Luật Tân. Thế giới được biết đến như một quả cầu tròn. Vàng bạc châu báu mang về từ “thế giới mới” đã làm cho “thế giới cũ” giầu có hơn.

Quyền lực trở thành lý tưởng cho người thích chinh phục thống trị thế giới. Kéo theo đó, hiện tượng tục hóa lan tràn, luân lý cổ truyền đang dần bị phá vỡ. Những chân trời kiến thức xưa chỉ hoài mong nay đã được khám phá. Một thế giới của khoa học và hiểu biết được khai mở. Sự thật của vạn vật đang được tỏ lộ.[1]

Rượu mới cần bầu da mới. Thế giới mới cần có con người tâm linh mới. Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá là hai con người được ban cho thế giới mới này. Quả thế, khi các nhà thám hiểm tìm ra những vùng đất mới thì các ngài đã tìm thấy cõi vô biên; khi thế giới được cai trị bằng quyền lực, các ngài giới thiệu một thế giới nội tâm ngự trị trong khiêm hạ. Các nhà khoa học tìm ra chân lý bằng tri thức của giác quan, thực nghiệm, đo lường, còn hai vị đón nhận Sự Thật trong thị kiến, xuất thần và kinh nghiệm thần hiệp vượt ngoài tầm kiểm soát của giác quan. Copernicus khám phá ra mặt trời là trung tâm của vũ trụ, Têrêsa khám phá khoa thiên văn của linh hồn, nơi sâu thẳm lòng người có Thiên Chúa ngự trị là mặt trời của mọi mặt trời.[2] Khi Kepler tìm ra định luật hấp dẫn vật thể thì Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá khám phá ra nguồn sống cuốn hút linh hồn; lần đầu tiên nhà giải phẫu Vesalius nghiên cứu các bộ phận trong cơ thể con người, còn hai ngài thì phơi trần tâm hồn, đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển đời sống tâm linh và ngành tâm lý chiều sâu. Trong lãnh vực văn học, nền văn chương của Tây Ban Nha sẽ mãi ghi danh nhà văn Têrêsa Avila và nhà thơ thần bí Gioan Thánh Giá.

Như sự quan phòng của Thiên Chúa toàn năng : trong hoàn cảnh thế giới mới, Ngài cho xuất hiện những con người có kinh nghiệm tâm linh mới, để Thiên Chúa tiếp tục đến với, ở cùng, thánh hóa con người qua con người.

1.2. Hoàn cảnh Hội Thánh

Lịch sử Hội Thánh thế kỷ XVI ghi nhận sự lung lay của quyền lực giáo quyền. Sự sa đọa của hàng giáo sĩ từ thời Trung cổ nay đã chín mùi. Đời sống đạo của giáo dân gặp nhiều khủng hoảng. Hội Thánh phải chuẩn bị để đương đầu với một thế giới đang thay đổi.

Chỉ sau khi Têrêsa Avila chào đời hai năm, ngày 31 tháng 10 năm 1517 linh mục Luther công bố ly khai với Hội Thánh, thành lập Giáo Hội Tin Lành. Vài năm sau đó, Calvin muốn biến Gơneve thành Rôma thứ hai.[3] Không lâu sau, vua Henri VIII của Anh quốc đã thành lập Giáo hội riêng, đồng thời nữ hoàng Mary của Xcốtlen đã khiêm tốn thần phục những mệnh lệnh của nhà lạc giáo John Knox. Các phong trào ly khai thành hình và lớn mạnh.

Trong Hội Thánh, đời sống đạo đức cổ truyền đã mất đi nhiều sức mạnh do sự công kích dữ dội của khoa học và thế lực tục hóa. Để bảo vệ đức tin Công Giáo, công đồng Trentô đã nhóm họp từ năm 1545 đến năm 1563. Công đồng này đưa ra những phán quyết về tín lý. Trong tình trạng khủng hoảng niềm tin ấy, một đội quân có tổ chức được cha Inhaxiô Lôyôla qui tụ hăng say ra chiến trận nhằm chống lại thế lực của Cải Cách. Hơn lúc nào hết, Hội Thánh đang rất cần những chứng nhân có thế giá về đời sống thiêng liêng để ngăn chặn sự tục hóa, hầu vãn hồi sự tinh tuyền và sự linh thiêng vốn có của đức tin Công Giáo.

Trong bối cảnh đó của lịch sử Hội Thánh, Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá xuất hiện, như bằng chứng sự chăm sóc ân cần của Thiên Chúa tình yêu.

1.3. Tình hình thần bí Tây Ban Nha thế kỷ XVI

Theo cha Jordan Aumann,“một số tuyên bố trong các tác phẩm của thánh Têrêsa và Gioan Thánh Giá có thể mở ra cho sự diễn dịch sai lầm nếu người đọc không lưu ý đến tình hình ở Tây Ban Nha vào thế kỷ XVI”.[4]Quả vậy, để hiểu đúng về hai vị thánh cải tổ Cát-minh, cần nắm hiểu tình trạng đời sống ki-tô hữu Tây Ban Nha đương thời.

Thời ấy ở Tây Ban Nha, có nhiều người cho rằng mình được ban cho những mặc khải và thị kiến, nhờ vào những hiện tượng thần bí này họ sẽ được ngưỡng mộ và nhiều người biết đến. Vì thế, nhiều người khao khát cầu xin cho được ơn thị kiến. Nó hoàn toàn trái ngược với cảm nghiệm thần bí tinh tuyền nơi thánh Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá : thần bí là một ân ban. Hơn nữa, có người còn giả vờ được in các vết thương của Chúa hay ơn thị kiến để tạo ấn tượng cho quần chúng.[5] Trong các đan viện thì tinh thần tu trì sa sút. Các tu sĩ mặc dù vẫn cố gắng để đạt được tình trạng thánh thiện trổi vượt nhưng lại ngại hy sinh và khổ hạnh. Khoa thần bí giả hiệu này là đối tượng thường xuyên của Tòa Điều Tra Tây Ban Nha,[6] khốc liệt đến tàn nhẫn.

Tình trạng đó khiến cho Têrêsa và Gioan Thánh Giá phải chịu nhiều đau khổ do Tòa Điều Tra liên quan đến những cảm nghiệm thần bí của mình. Ngoài ra, cũng phải nói đến những ảnh hưởng của trào lưu khai sáng của những người Alumbrados, tư tưởng vô vi của nhóm Cải Cách làm cho tư tưởng, tinh thần con người đương thời khó gạn đục khơi trong.

(Còn tiếp)
- Trích trong tác phẩm "Đời sống thần bí Ki-tô giáo qua cảm nghiệm của thánh Têrêsa Avila và thánh Gioan Thánh Giá" của Phêrô Tạ Văn Tuân.