Các Trang

Thứ Ba, 14 tháng 5, 2024

Mắt Tình

 


Mắt Ngài đâm thấu tim con,
Thời gian ngừng lại không còn chảy trôi.
Lạy Trời! Con lạy Tình ơi!


Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2024

Đời sống thần bí Kitô giáo (Phần 2)




1. Đôi nét về tiểu sử

Có nhiều cách để hiểu một con người. Với một thánh nhân, ngoài việc tìm hiểu con người, sự nghiệp và ảnh hưởng của họ, cần khám phá ra cách thức ân sủng Thiên Chúa biến đổi một người trở nên thánh theo ý Ngài.

1.1. Thánh Têrêsa A-vi-la

1.1.1. Con người

Biến cố ngã ngựa trên đường Đa-mát[7] đã chia đôi cuộc đời của một con người: Saun của Do-thái giáo thành Phaolô của Ki-tô giáo. Cũng vậy, thị kiến hình ảnh đầu tiên[8] cũng làm cho Têrêsa Avila – con người của thế gian, trở thành một Têrêsa Giêsu – người của Thiên Chúa như thế.[9]

Người con của thế gian ấy chào đời ngày 18 tháng 3 năm 1515 trong một gia đình quí tộc, tại La Moneda gần Avila, với tên gọi là Teresa Sanchez de Cepeda y Ahumada. Thân phụ của Têrêsa là ông Alonso Sanchez de Cepeda, một người đạo đức và thích đọc sách, nhất là sách đạo đức. Thân mẫu là bà Beatriz d’Avila Y Ahumada, một phụ nữ nhân đức, đoan trang, tiết hạnh và thích đọc tiểu thuyết trinh thám.[10] Sự khác biệt của cha mẹ đã tạo nên một Têrêsa vừa khát khao sự thánh thiện vừa muốn sống sự đài các của một tiểu thư lãng mạn.

Người dân thành Avila gọi cô là công nương lộng lẫy Têrêsa Ahumađa Cepeda. Những lời tán dương chúc tụng của những anh chàng si mê Têrêsa chỉ kết thúc cô khi được mười ba tuổi. Thân mẫu qua đời, thân phụ đã gửi Têrêsa vào một trường nội trú do các nữ tu dòng thánh Augustinô điều khiển. Vào sống nội trú trong tu viện theo ý của người cha, Têrêsa không hề nghĩ sẽ trở thành nữ tu. Nàng chỉ mong sớm hết năm để trở lại với cuộc sống vốn thuộc về mình. Tuy nhiên, tiếng Chúa mời gọi tha thiết, mãnh liệt, khiến cô không cưỡng lại được. Sau một thời gian giằng co chiến đấu, Têrêsa đã hiến mình cho Chúa trở thành nữ tu dòng kín Cát-minh, khi cô 21 tuổi.

Trong tu viện Nhập Thể ở Avila, sơ Têrêsa nhanh chóng hòa nhịp với các nữ tu khác sống tinh thần bộ luật khoan nhượng của dòng kín đã được phê chuẩn. Với luật đã được giảm nhẹ, các nữ tu có giờ trò chuyện, tiếp khách, nên cách nào đó tinh thần của thế tục đã từ từ đi vào đan viện. Têrêsa cảm thấy như bị xâu xé trong nội tâm bởi khát khao mãnh liệt thuộc về Chúa lúc cầu nguyện với Ngài trong tu phòng của nội vi, nhưng lại hào hứng phấn chấn trong giờ tiếp chuyện với người ta tại phòng khách. Và điều Chúa muốn Ngài sẽ thực hiện. Trong một thị kiến xẩy ra khi chị đang cầu nguyện trước tượng Chúa Giêsu đầy thương tích. Cảm nhận cái nhìn mãnh liệt của Chúa, Têrêsa rơi vào tình trạng xuất thần. Trong cơn xuất thần này, Chúa chiếm đoạt chị và bắt đầu thời kỳ của Ngài trong người nữ tu bé nhỏ này.

Công nương lộng lẫy Têrêsa Ahumađa Cepeda đã trở thành một Têrêsa Giêsu, nồng nàn tận hiến để thực hiện công việc của Chúa. Từ giờ phút ấy, cuộc đời chị không còn là của mình nữa, nhưng là của Chúa Giêsu ở trong chị. Chúa Giêsu ngày càng hiện diện sống động, mạnh mẽ trong đời chị, đến nỗi chị tiếp tục nghĩ đến Ngài cả trong giấc ngủ. Trước bao ân sủng tuôn đổ như thác xuống tâm hồn, con tim Têrêsa ngày càng gắn bó với con tim của Chúa Giêsu, Người Bạn Tình, đến độ chị không còn tìm kiếm gì khác ngoài “danh giá” và “quyền lợi” của Người Bạn ấy.

Bao nhiêu khó khăn gian khổ trong công việc cải tổ dòng kín ngành nữ và nam, Têrêsa hoàn toàn buông mình để Chúa thực hiện thời kỳ của Ngài. Trong chiêm niệm, cầu nguyện và xuất thần, Chúa không ngừng hướng dẫn và ban sức mạnh để chị can đảm thi hành. Khi cần cộng tác, Ngài đã gửi người đầy nhiệt huyết, lòng hăng say và khát khao sống tinh thần Cát-minh về nguồn là linh mục trẻ Gioan. Với sự trợ lực mạnh mẽ này, Têrêsa hăng say không mệt mỏi thực hiện điều Chúa muốn cho đến hơi thở cuối cùng. Ngài qua đời ngày 4 tháng 10 năm 1582 trong cuộc hành trình thành lập đan viện mới ở Alba de Tormes.

1.1.2. Sự nghiệp

Têrêsa không phải là nhà văn, cũng không muốn để lại giáo thuyết gì. Ba tác phẩm lớn của ngài đều ra đời từ đức vâng lời các cha giải tội, và là cảm nghiệm của Têrêsa trước ân huệ của Thiên Chúa. Nhưng khi tìm hiểu các tác phẩm này, người ta lại khám phá ra một Têrêsa bậc thày trong con đường tu đức, đời sống thiêng liêng và cảm nghiệm thần hiệp.

Tiểu sử Tự thuật, tác phẩm đầu tay của Têrêsa Avila, được viết trong thời gian rất ngắn, theo sự vâng lời cha Garcia de Toledo, hoàn thành tháng 6 năm 1562. Tác phẩm trình bầy rất chân thực đời sống thiêng liêng và kinh nghiệm thần hiệp của Têrêsa. Đường hoàn thiện là tác phẩm thứ hai có thế giá trong thần bí học, được Têrêsa viết không lâu sau Tiểu sử Tự thuật. Tác phẩm được chính cha D. Banez, linh hướng của ngài, công bố là :“Tiếng nói của con tim đã được cảm nghiệm và là sự trình bày của một lý trí đã được trau dồi bởi học hỏi, đọc sách và chuyện vãn thánh thiện”.[11] Cuốn sách chứa đựng những lời khuyên cụ thể và những hướng dẫn khai tâm vào đời sống cầu nguyện dành cho các nữ tu và con cái của Têrêsa Cả.

Tác phẩm thứ ba được coi như kiệt tác thần bí của Têrêsa là Lâu đài nội tâm, viết năm 1577. Tuyệt phẩm mô tả hành trình linh hồn kết hợp với Thiên Chúa qua bảy cư sở của tòa lâu đài nội tâm. Khác với các khảo luận về cầu nguyện trước đó, các tác phẩm của Têrêsa có tính thực hành hơn là lý thuyết, mô tả hơn là giải thích, nhất là những ánh sáng tâm lý học vô giá rút từ kinh nghiệm cá nhân và sự quan sát sâu kỹ hành vi của người khác.[12] Nhìn chung, các tác phẩm của Têrêsa rất chuyên môn, được viết ra từ những cảm nghiệm thần bí thâm sâu. Khi đọc các tác phẩm này độc giả vừa như được đụng chạm tới huyền nhiệm cao siêu nơi Thiên Chúa, lại vừa tìm đường nẻo tiến bộ trong cầu nguyện để kết hợp với Ngài.

Ngoài các tác phẩm, sự nghiệp của Têrêsa còn biết đến qua cải tổ dòng Cát-minh và các đan viện ngài thành lập. Chỉ trong khoảng 15 năm, từ năm 1567 đến năm 1582 người phụ nữ bé nhỏ này đã bất chấp mọi khó khăn gian khổ đi khắp Tây Ban Nha, thành lập 17 đan viện nữ Cát-minh về nguồn[13]. Tuy nhiên, sự nghiệp vĩ đại nhất của Têrêsa Avila là trở thành Bạn Trăm Năm của Đấng Tình Quân mình yêu mến, tôn thờ. Têrêsa đã sống cuộc đời xứng với tên gọi Têrêsa Giêsu. Năm 1622, sau 40 năm từ giã cuộc đời ngài được phong thánh cùng với hai tổ phụ dòng Tên là Inhaxiô Lôyôla và Phanxicô Xavie.

1.1.3. Ảnh hưởng

Ảnh hưởng của thánh Têrêsa Avila vượt qua những gì người ta có thể nghĩ về một nữ tu dòng kín. Một tước hiệu kép do chỗ đứng của ngài trong lịch sử linh đạo: nhà cải cách dòng Cát-minh và người giữ thẩm quyền vô song trong thần học về cầu nguyện.[14] Quả vậy, ảnh hưởng của Têrêsa không chỉ dừng lại nơi dòng Cát-minh. Riêng về lãnh vực cầu nguyện:“chưa từng có ai sánh vai với Têrêsa, càng không có ai vượt qua Têrêsa trong tư cách là người giảng giải các giai đoạn cầu nguyện”.[15] Có thể nói, kể từ thời Têrêsa đến nay, hễ nói về cầu nguyện, chiêm niệm hay thần bí là người ta nhắc đến Têrêsa Avila. Ngài được gọi bằng cái tên thân thương là vị thánh hay xuất thần. Nhìn chung, các nền linh đạo Ki-tô giáo sau đó cách nào đó đều chịu ảnh hưởng bởi các tác phẩm của ngài.

Năm 1970, Đức Giáo hoàng PhaolôVI đã phong thánh Têrêsa Avila tước hiệu tiến sỹ Hội Thánh. Thánh nhân là người phụ nữ đầu tiên được nhận danh hiệu cao quí này.[16]

1.2. Thánh Gioan Thánh Giá

1.2.1. Con người

Có ba danh xưng để gọi con người vĩ đại này: Gioan Yepes; Gioan Thánh Mátthia và Gioan Thánh Giá. Các tên gọi ấy tương ứng với ba giai đoạn trên con đường nên thánh của ngài: Gioan Yepes – con người; Gioan Thánh Mátthia – tu sĩ và Gioan Thánh Giá – nhà thần nhiệm.

Gioan Yepes chào đời ngày 24 tháng 6 năm 1542 tại Castille, là hoa trái của cuộc tình nhiều hy sinh của ông Gonzalo de Yepes với bà Catarina Alvarez. Ông Gonzalo de Yepes xuất thân từ gia đình có thế giá ở Toledo. Bà Catarina Alvarez, xinh đẹp tốt lành, vừa diễm lệ vừa cao quí nhưng con nhà nghèo và mồ côi. Họ yêu nhau và thành vợ chồng bất chấp mọi khó khăn môn đăng hộ đối. Khi Gioan Yepes lên 4 tuổi, sự ra đi của người cha đã đẩy cả gia đình vào tình trạng khốn cùng. Nhờ tình yêu thương và sự khôn ngoan của mẹ, Gioan được đi học tại trường dành cho các trẻ mồ côi. Ở tuổi niên thiếu cậu đã đi chăm sóc bệnh nhân tại bệnh viện để kiếm sống. Trong thời kỳ này, người ta thấy một Gioan Yepes đạo đức, có lòng yêu thương người nghèo và tình thần say mê học tập.

Năm 1563, khi được 21 tuổi, Gioan quyết định dâng mình cho Chúa trong dòng Cát-minh nam. Vào năm 1564, Gioan Yepes tuyên khấn với tên gọi là Gioan Thánh Mátthia. Nhận ra sự thông minh và ham học của tu sĩ trẻ tuổi này, nhà dòng đã gửi thày Gioan tới học văn chương, triết học và thần học tại trường đại học dòng Tên Salamanca. Tháng 7 năm 1567, thày Gioan thụ phong linh mục và trở về Avila dâng lễ mở tay. Tại đây, cha Gioan đã gặp thánh Têrêsa. Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy hứa hẹn, nó mở ra cho cha Gioan một tương lai đầy lý thú dù chưa thấy rõ. Qua việc kết hợp sâu xa và cộng tác chân thành, cha Gioan và mẹ Têrêsa thực hiện cuộc cải tổ dòng Cát-minh, điều mà Thiên Chúa quan phòng đã chuẩn bị cho hai vị.

Trong công việc cải tổ dòng kín ngành nam, kịch tính nhất là giai đoạn cha Gioan bị các anh em cùng dòng coi là phản loạn, bắt giam tại Toledo từ tháng 12 năm 1577 đến tháng 8 năm 1578. Thời gian này, ngài được biết đến với tư cách là nhà đào tạo, người sống và dạy người khác sống thần hiệp. Cũng từ đây, danh xưng Gioan Thánh Giá được tỏ lộ. Có thể nói, thử thách đau thương ở Toledo đã chia đôi đời tu của ngài : 14 năm trước đó, năm 1563 cậu Gioan vào dòng Cát- minh, và 14 năm sau, năm 1591 Gioan Thánh Giá chết tại Ubeda.[17]Mặc dù thân xác bị giam cầm, nhưng tâm hồn thánh nhân thì tràn ngập Thiên Chúa. Điều đó chứng thực: “ân sủng đã bao trùm lên một con người mà chín tháng địa ngục đã trở thành cơn đau chuyển cữ để sinh ra một thụ tạo mới, cả về nhân cách và tâm linh”.[18]

1.2.2. Sự nghiệp

Chín tháng tù giam tại Toledo, Gioan Thánh Giá đã để lại những áng thơ thần bí bất hủ, khiến ngài trở thành nhà thơ thần bí vĩ đại không chỉ của Tây Ban Nha mà cho toàn thế giới. Các tác phẩm hay nhất về thần bí Ki-tô giáo của thánh nhân cũng ra đời từ việc minh giải các áng thơ này.

Bốn tác phẩm lớn của Gioan Thánh Giá là: Lên đỉnh Cát Minh (1579 – 1585); Đêm tối linh hồn (1582 – 1585); Khúc linh ca (biên soạn lần đầu năm 1584 và lần hai năm 1586 và 1591); Ngọn lửa tình nồng (biên soạn lần đầu giữa năm 1585 và năm 1587, lần thứ hai giữa năm 1586 và 1591). Ngoài ra còn có 10 bài thơ Tình khúc; khoảng 200 câu châm ngôn về Ánh sáng và tình yêu cùng những Lời khuyên; Những lời Cảnh báo và bốn Lời khuyên gửi một tu sĩ và 34 lá thư.[19] Đọc những tác phẩm này, người ta thấy rõ một Gioan Thánh Giá xứng với danh hiệu nhà văn, nhà thơ thần bí. Quả vậy, đời sống nội tâm và sự kết hiệp thần nhiệm giữa linh hồn và Thiên Chúa được ngài mô tả bằng những hình ảnh rất sống động, lãng mạn như một cuộc tình.

Trong sự nghiệp cải tổ dòng kín, sứ mạng của thánh Gioan Thánh Giá rất rõ nét: là tập sư, là nhà đào tạo tâm linh và thày dạy sống thần hiệp. Năm 1570 học viện đầu tiên của dòng Cát-minh cải tổ được thành lập, Gioan Thánh Giá là viện trưởng. Với tri thức và kinh nghiệm ngài học được từ đại học Salamanca, việc đào tạo các tu sỹ sinh viên của học viện đem lại cho công cuộc cải tổ những tập sư đầu tiên thật sáng giá. Sau đó, thánh Gioan Thánh Giá cộng tác với thánh Têrêsa Avila tại tu viện Nhập Thể với vai trò cha linh hướng cho các nữ tu.

Nếu thành công của đời người là nên thánh, thì Gioan Yepes đã đạt được khi trở thành thánh Gioan Thánh Giá. Ngài đã sống cuộc đời xứng với tên gọi này. Vào năm 1726 Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XIII đã tuyên phong Gioan Thánh Giá lên bậc hiển thánh.

1.2.3. Ảnh hưởng

Cha Thomas Merton đã nhận định thánh Gioan Thánh Giá là nhà thần bí lớn nhất trong tất cả các nhà thần học thần bí.[20] Ngài cùng với thánh Têrêsa Avila trao cho Giáo hội giáo thuyết về linh đạo chưa từng bị vượt qua.[21] Cách riêng với dòng Cát-minh, Gioan Thánh Giá cùng với Têrêsa Avila là hai cột trụ, trên đó trường phái linh đạo Cát-minh được dựng xây và phát triển vững chắc cho đến ngày nay.[22]

Trong dòng Cát-minh, không chỉ các tu sỹ nam, nữ mà ngay cả thánh Têrêsa Cả cũng được thăng tiến nhờ sự chỉ dẫn thiêng liêng của thánh Gioan Thánh Giá. Có thể nói linh đạo “con đường thơ ấu thiêng liêng” của thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, cũng chỉ là cách gọi khác của linh đạo“tập trung vào tình yêu” mà thánh Gioan Thánh Giá đã sống. Gioan Thánh Giá đã sống trọn vẹn ơn gọi của dòng Cát-minh Về Nguồn.

Với những người khác, ảnh hưởng của Gioan Thánh Giá lớn đến độ chỉ nguyên sự hiện diện của thánh nhân cũng đủ để qui tụ một đoàn người, từ kẻ hèn mọn đến những người trọng vọng bậc nhất trong xã hội. Đặc biệt là tất cả họ, nam lẫn nữ đều sống mối tương giao nghĩa thiết, thân tình với Thiên Chúa.[23] Bà quả phụ Ana de Pẽnalosa đã coi thánh nhân như là người cha, người thày. Bà đã thực thi giáo huấn của thánh nhân cách hoàn hảo đến nỗi ngài có thể viết tặng bà tác phẩm cao siêu bậc nhất của mình là Ngọn lửa tình nồng.

Cũng không quá khi so sánh ảnh hưởng của bộ Tổng luận thần học của thánh Tôma Aquinô xét về tầm mức phổ quát trong lãnh vực tri thức thuần túy với các tác phẩm của Gioan Thánh Giá trong lãnh vực tri thức thực hành. Quả thế, các tác phẩm bàn về đời sống tâm linh, hoặc khía cạnh nào đó trong đời sống tâm linh, hay về một cách thức nào đó trong việc kết hợp với Thiên Chúa người ta đã biết, đều phải được đọc dưới ánh sáng các nguyên tắc vị thánh tiến sĩ đã đề ra. [24] Tước hiệu“tiến sĩ thần bí” được Hội Thánh phong tặng cho thánh Gioan Thánh Giá ngày 24 tháng 8 năm 1926, khẳng định ảnh hưởng của ngài trong đời sống thần bí Ki-tô giáo.

(Còn tiếp)
- Trích trong tác phẩm "Đời sống thần bí Ki-tô giáo qua cảm nghiệm của thánh Têrêsa Avila và thánh Gioan Thánh Giá" của Phêrô Tạ Văn Tuân.

Thứ Năm, 2 tháng 5, 2024

Đời sống thần bí Kitô giáo (Phần 2)



Như đã đề cập, những người được ơn kết hợp đặc biệt với Thiên Chúa thường giữ kín vì hai lý do: tự bản chất cảm nghiệm thần bí mang tính khôn tả, và do đức khiêm nhường thúc đẩy họ giữ riêng mình với Chúa. Thánh Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá thuộc vế số ít người vừa được ơn cảm nghiệm thần bí, vừa có thể diễn tả những cảm nghiệm đó cho người khác. Tìm hiểu về hai vị thánh, người ta có thể khám phá những cung bậc cảm xúc thần linh trong cảm nghiệm thần bí, cũng như nét đặc sắc của cảm nghiệm nơi hai vị thánh này.

I. ĐỂ HIỂU THÁNH TÊRÊSA AVILAVÀ THÁNH GIOAN THÁNH GIÁ

Con người làm nên lịch sử. Đối lại, lịch sử cũng góp phần định vị con người. Muốn hiểu một con người, phải hiểu bối cảnh lịch sử người đó sống. Thế kỷ XVI đánh dấu nhiều thay đổi trong thế giới và Hội Thánh. Những khám phá mới của con người trong nhiều lãnh vực đã làm thay đổi nhận thức về những giá trị tâm linh. Tình trạng luân lý đạo đức ở trên đà suy thoái. Hiện tượng thần bí Tây Ban Nha làm nẩy sinh nhiều vấn đề. Hoàn cảnh ấy không chỉ góp phần tạo nên, mà còn giúp nhận hiểu hai con người vĩ đại của lịch sử thần bí Tây Ban Nha và Hội Thánh Công Giáo.

1. Bối cảnh lịch sử

1.1. Hoàn cảnh thế giới

Thế kỷ XVI, thế giới bước vào giai đoạn đầu thời hiện đại xét về mọi phương diện. Thế giới được “mở rộng” từ lục địa này sang lục địa khác. Những cuộc thám hiểm đã khám phá ra Bắc Mỹ, Mêhicô, Phi Luật Tân. Thế giới được biết đến như một quả cầu tròn. Vàng bạc châu báu mang về từ “thế giới mới” đã làm cho “thế giới cũ” giầu có hơn.

Quyền lực trở thành lý tưởng cho người thích chinh phục thống trị thế giới. Kéo theo đó, hiện tượng tục hóa lan tràn, luân lý cổ truyền đang dần bị phá vỡ. Những chân trời kiến thức xưa chỉ hoài mong nay đã được khám phá. Một thế giới của khoa học và hiểu biết được khai mở. Sự thật của vạn vật đang được tỏ lộ.[1]

Rượu mới cần bầu da mới. Thế giới mới cần có con người tâm linh mới. Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá là hai con người được ban cho thế giới mới này. Quả thế, khi các nhà thám hiểm tìm ra những vùng đất mới thì các ngài đã tìm thấy cõi vô biên; khi thế giới được cai trị bằng quyền lực, các ngài giới thiệu một thế giới nội tâm ngự trị trong khiêm hạ. Các nhà khoa học tìm ra chân lý bằng tri thức của giác quan, thực nghiệm, đo lường, còn hai vị đón nhận Sự Thật trong thị kiến, xuất thần và kinh nghiệm thần hiệp vượt ngoài tầm kiểm soát của giác quan. Copernicus khám phá ra mặt trời là trung tâm của vũ trụ, Têrêsa khám phá khoa thiên văn của linh hồn, nơi sâu thẳm lòng người có Thiên Chúa ngự trị là mặt trời của mọi mặt trời.[2] Khi Kepler tìm ra định luật hấp dẫn vật thể thì Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá khám phá ra nguồn sống cuốn hút linh hồn; lần đầu tiên nhà giải phẫu Vesalius nghiên cứu các bộ phận trong cơ thể con người, còn hai ngài thì phơi trần tâm hồn, đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển đời sống tâm linh và ngành tâm lý chiều sâu. Trong lãnh vực văn học, nền văn chương của Tây Ban Nha sẽ mãi ghi danh nhà văn Têrêsa Avila và nhà thơ thần bí Gioan Thánh Giá.

Như sự quan phòng của Thiên Chúa toàn năng : trong hoàn cảnh thế giới mới, Ngài cho xuất hiện những con người có kinh nghiệm tâm linh mới, để Thiên Chúa tiếp tục đến với, ở cùng, thánh hóa con người qua con người.

1.2. Hoàn cảnh Hội Thánh

Lịch sử Hội Thánh thế kỷ XVI ghi nhận sự lung lay của quyền lực giáo quyền. Sự sa đọa của hàng giáo sĩ từ thời Trung cổ nay đã chín mùi. Đời sống đạo của giáo dân gặp nhiều khủng hoảng. Hội Thánh phải chuẩn bị để đương đầu với một thế giới đang thay đổi.

Chỉ sau khi Têrêsa Avila chào đời hai năm, ngày 31 tháng 10 năm 1517 linh mục Luther công bố ly khai với Hội Thánh, thành lập Giáo Hội Tin Lành. Vài năm sau đó, Calvin muốn biến Gơneve thành Rôma thứ hai.[3] Không lâu sau, vua Henri VIII của Anh quốc đã thành lập Giáo hội riêng, đồng thời nữ hoàng Mary của Xcốtlen đã khiêm tốn thần phục những mệnh lệnh của nhà lạc giáo John Knox. Các phong trào ly khai thành hình và lớn mạnh.

Trong Hội Thánh, đời sống đạo đức cổ truyền đã mất đi nhiều sức mạnh do sự công kích dữ dội của khoa học và thế lực tục hóa. Để bảo vệ đức tin Công Giáo, công đồng Trentô đã nhóm họp từ năm 1545 đến năm 1563. Công đồng này đưa ra những phán quyết về tín lý. Trong tình trạng khủng hoảng niềm tin ấy, một đội quân có tổ chức được cha Inhaxiô Lôyôla qui tụ hăng say ra chiến trận nhằm chống lại thế lực của Cải Cách. Hơn lúc nào hết, Hội Thánh đang rất cần những chứng nhân có thế giá về đời sống thiêng liêng để ngăn chặn sự tục hóa, hầu vãn hồi sự tinh tuyền và sự linh thiêng vốn có của đức tin Công Giáo.

Trong bối cảnh đó của lịch sử Hội Thánh, Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá xuất hiện, như bằng chứng sự chăm sóc ân cần của Thiên Chúa tình yêu.

1.3. Tình hình thần bí Tây Ban Nha thế kỷ XVI

Theo cha Jordan Aumann,“một số tuyên bố trong các tác phẩm của thánh Têrêsa và Gioan Thánh Giá có thể mở ra cho sự diễn dịch sai lầm nếu người đọc không lưu ý đến tình hình ở Tây Ban Nha vào thế kỷ XVI”.[4]Quả vậy, để hiểu đúng về hai vị thánh cải tổ Cát-minh, cần nắm hiểu tình trạng đời sống ki-tô hữu Tây Ban Nha đương thời.

Thời ấy ở Tây Ban Nha, có nhiều người cho rằng mình được ban cho những mặc khải và thị kiến, nhờ vào những hiện tượng thần bí này họ sẽ được ngưỡng mộ và nhiều người biết đến. Vì thế, nhiều người khao khát cầu xin cho được ơn thị kiến. Nó hoàn toàn trái ngược với cảm nghiệm thần bí tinh tuyền nơi thánh Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá : thần bí là một ân ban. Hơn nữa, có người còn giả vờ được in các vết thương của Chúa hay ơn thị kiến để tạo ấn tượng cho quần chúng.[5] Trong các đan viện thì tinh thần tu trì sa sút. Các tu sĩ mặc dù vẫn cố gắng để đạt được tình trạng thánh thiện trổi vượt nhưng lại ngại hy sinh và khổ hạnh. Khoa thần bí giả hiệu này là đối tượng thường xuyên của Tòa Điều Tra Tây Ban Nha,[6] khốc liệt đến tàn nhẫn.

Tình trạng đó khiến cho Têrêsa và Gioan Thánh Giá phải chịu nhiều đau khổ do Tòa Điều Tra liên quan đến những cảm nghiệm thần bí của mình. Ngoài ra, cũng phải nói đến những ảnh hưởng của trào lưu khai sáng của những người Alumbrados, tư tưởng vô vi của nhóm Cải Cách làm cho tư tưởng, tinh thần con người đương thời khó gạn đục khơi trong.

(Còn tiếp)
- Trích trong tác phẩm "Đời sống thần bí Ki-tô giáo qua cảm nghiệm của thánh Têrêsa Avila và thánh Gioan Thánh Giá" của Phêrô Tạ Văn Tuân.

Thứ Hai, 29 tháng 4, 2024

Chốn hẹn



Căn phòng nhỏ, chốn hẹn hò,
Nơi tôi tìm được bến bờ yêu đương.
Mỗi ngày thêm mỗi mến thương.
 

Thứ Ba, 23 tháng 4, 2024

Đời sống thần bí Kitô giáo




II. THẦN BÍ VÀ HOÀN THIỆN KI-TÔ GIÁO

Hoàn thiện là tình trạng hay điều kiện hiện hữu đã hoàn tất hay đã chấm dứt mà không dư thừa hay thiếu bất cứ điều gì. Bản chất của sự hoàn thiện Ki-tô giáo hệ tại sự liên kết mật thiết với Thiên Chúa nhờ đức ái trọn hảo. Điều này có thể đạt được ngay trong cuộc sống đời này và được diễn tả qua cuộc hôn nhân huyền nhiệm hay sự kết hợp siêu biến.[62] Như thế, giữa thần bí và hoàn thiện Ki-tô giáo có mối quan hệ đặc biệt. Trạng thái thần bí và hoàn thiện Ki-tô giáo có thể chỉ là cách gọi tên khác nhau của cùng một thực tại là kết hợp với Thiên Chúa. Và cùng đích đời sống ki-tô hữu cũng là điểm tới mà đức ái hoàn hảo và thần bí hướng về.

1. Thần bí và hoàn thiện Ki-tô giáo

Đời sống thiêng liêng là một tiến trình tiệm tiến từ bình thường đến khổ chế; từ khổ chế đến thần bí, do mọi người được mời gọi nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện,[63] vì“ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh”.[64] Tuy nhiên, trên con đường hoàn thiện có sự khác biệt cả khách quan lẫn chủ quan.

Khách quan vì Thiên Chúa muốn cho mỗi người mỗi khác:“trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở.” (Ga 14,2). Chủ quan vì hoàn thiện Ki-tô giáo hệ lại tại ở đức ái, nên mức độ của đức ái là mức độ của hoàn thiện. Một người yêu mến Thiên Chúa và tha nhân được kể là người hoàn thiện theo nghĩa thực chất của từ này.

[65] Có điều, hoàn thiện Ki-tô giáo chỉ trọn vẹn trong đức ái viên mãn nhờ ân huệ Chúa Thánh Thần.[66] Một cách hiểu khác là hoàn thiện Ki-tô giáo nhất thiết đòi tình trạng thần bí.[67] Cho nên, vấn đề đặt ra là khi nào linh hồn đi vào trạng thái thần bí? Thần học thần bí có nhiều quan điểm khi trả lời câu hỏi này.

Theo cha Aumann linh hồn đi vào trạng thái thần bí khi đức ái phát triển tới điểm hoàn toàn từ bỏ mình để theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.[68] Tuy nhiên, Thiên Chúa có thể đặt một linh hồn vào trạng thái thần bí ngay chính giai đoạn đầu của đời sống thiêng liêng. Vì thế, có người ở giai đoạn thanh tẩy mà vẫn có những hành vi thần bí. Trái lại, người đã bước vào trạng thái thần bí mà vẫn thực hành những việc ở giai đoạn thanh tẩy. Bởi vậy, trạng thái thần bí thì âm thầm trong giai đoạn khổ hạnh; chạy dài trong đời sống thiêng liêng và biểu hiện rõ nét trong giai đoạn kết hợp.

Theo cha Juan Arintero trạng thái thần bí khởi đầu ở giai đoạn cầu nguyện tình cảm.[69] Vì bằng trái tim người ta chiếm ngay được Chúa. Với thánh Têrêsa Avila thì con đường hoàn thiện đạt được trong cấp độ cầu nguyện hiệp nguyện, khi đó linh hồn sống trạng thái thần bí.[70] Còn theo thánh Gioan Thánh Giá khi linh hồn đạt đến kết hợp siêu biến, thì sự kết hợp này tạo nên sự hoàn thiện Ki-tô giáo trọn vẹn. Muốn kết hợp siêu biến, linh hồn phải trải qua thanh tẩy thụ động của đêm tối, để lòng mến Chúa được nên hoàn hảo.[71] Dù thế nào thì người ta cần nhớ rằng tác nhân chính trong đời sống tâm linh là Chúa Thánh Thần, Đấng không bao giờ bị giới hạn bởi các chỉ thị và kết luận của thần học.[72] Vì thế người muốn tiến bước trên đường trọn lành thì nhất thiết phải luôn sống theo sự hướng dẫn và đón nhận ân huệ Ngài ban.

Vậy có thể hiểu hoàn thiện Ki-tô giáo và thần bí gặp nhau khi linh hồn kết hợp siêu biến, hay ở tình trạng cầu nguyện hiệp nguyện. Và sự viên mãn ở đời này là trạng thái thần bí, khi con người kết hợp trọn vẹn với Thiên Chúa, đó là đỉnh cao của hoàn thiện đức ái.

2. Vai trò của khổ hạnh và ân huệ Chúa Thánh Thần trong thần bí

Nhìn chung, các nhà thần học linh đạo quan niệm về đời sống tâm linh gồm hai chiều kích khổ hạnh và thần bí. Trong khi đó nhận thức về hoạt động của ân huệ Chúa Thánh Thần là một đặc điểm khác nhau căn bản giữa khổ hạnh và thần bí. Nếu khổ hạnh là cách thức thuần túy của con người sử dụng để thăng tiến thiêng liêng, nhờ sự soi dẫn của đức tin và đức mến, thì ân sủng lại là hoạt động của Thiên Chúa cách thụ động trên linh hồn ở tình trạng thần bí.

Quả vậy, được thôi thúc bởi lòng mến Chúa những người mới bước vào hành trình tâm linh thường vui thích thực hành khổ hạnh để chứng tỏ tình yêu với Ngài. Đây là đặc tính của tình trạng khổ hạnh, thời kỳ Thiên Chúa thường ban ơn an ủi thiêng liêng, mời gọi con người tiến đến kết hợp với Ngài. Đó cũng là hoạt động của ân huệ của Chúa Thánh Thần trong thời kỳ thanh luyện chủ động. Tuy nhiên, chính khi các ân huệ Chúa Thánh Thần đến thường xuyên và lặp đi lặp lại, đến lúc chế ngự việc thực hành các nhân đức phú bẩm theo cách thức của con người, thì linh hồn bắt đầu đi vào tình trạng thần bí,[73] thường được biểu hiện bằng tình trạng khô khan kéo dài. Thánh Gioan Thánh Giá gọi đó là đêm tối, nó bắt đầu thời kỳ thanh tẩy thụ động. Đêm này thanh luyện giác quan và tâm linh để kết hợp con người với Thiên Chúa.

Nhưng làm thế nào các ân huệ Chúa Thánh Thần tạo ra được kinh nghiệm thần bí, và tại sao lại ngưng ban những an ủi thiêng liêng trong lúc thanh tẩy thụ động? Vì ân huệ Chúa Thánh Thần cấu thành nên chính bản chất thần bí,[74] lại vì hoạt động của các ân huệ đó theo cách thức Thiên Chúa, trổi vượt hơn các nhân đức phú bẩm theo cách thức con người như tình trạng khổ hạnh. Hơn nữa, trong suốt thời gian thanh tẩy thụ động, các ân huệ Chúa Thánh Thần vận hành đúng mục đích: vừa thanh luyện linh hồn khỏi những ràng buộc, vừa lấy đi khỏi nó bất cứ cảm nghiệm vui sướng nào về Thiên Chúa, thậm chí còn mang đến cho linh hồn kinh nghiệm về sự khiếm diện và ruồng bỏ của Người,[75] đó chính là đau khổ nội tâm.

Theo thánh Gioan Thánh Giá, có đau khổ nội tâm vì Thiên Chúa siêu vượt hơn linh hồn và vì linh hồn hèn yếu nên đau khổ và tối tăm.[76] Cuộc thanh tẩy của đêm tối này dù là đau khổ đối với con người nhưng đó cũng là ân huệ Thiên Chúa ban, vì nhờ có thanh tẩy linh hồn mới có thể kết hợp với Ngài.

Như vậy, ân huệ Chúa Thánh Thần là tác nhân chính yếu trên đường tiến tâm linh cả trong khổ hạnh và thần bí. Vì thế, để tiến bước trên đường hoàn thiện, người ta không thể bỏ qua khổ hạnh, lại phải khiêm nhường đón nhận ân huệ Chúa Thánh Thần, vì miệt mài tìm kiếm là vô ích nếu “từ nguồn” không ban.

3. Cùng đích của đời sống ki-tô hữu

Mục đích là điều trước tiên phải hướng tới trong ý định và là điều sau cùng đạt được trong thực hiện. Thần học đời sống tâm linh chỉ ra ba mục đích rõ ràng của đời sống ki-tô hữu, đúng hơn là chỉ có một mục đích tối hậu và hai mục đích gần hay phụ thuộc. Mục đích tối hậu là vinh quang Thiên Chúa, hai mục đích kia là sự thánh hóa và ơn cứu độ.[77]

Vinh quang nội tại là Tình yêu thần linh Ba Ngôi Thiên Chúa. Đó là mầu nhiệm khôn tả và vẻ đẹp vô hạn của vinh quang Ngài. Vinh quang ấy hoàn hảo, không thiếu điều gì và cũng không thể thêm được gì.[78] Sáng tạo là giai điệu ngoại tại phản chiếu vinh quang Thiên Chúa tuôn trào cho muôn loài. Là đỉnh cao của công trình sáng tạo, nên tự bản chất con người phản chiếu ánh vinh quang Thiên Chúa. Khi sa ngã phạm tội, nguyên tổ đã làm mất đi vẻ đẹp rạng ngời của ánh vinh quang ấy. Thiên Chúa đã phục hồi vẻ đẹp vinh quang cho con người bằng ơn cứu độ nhờ sự chết và phục sinh của Chúa Ki-tô. Vì thế, để đạt mục đích đời sống con người phải đón nhận ơn thánh hóa của Thiên Chúa nơi Đức Ki-tô, bằng đời sống thánh thiện trong đức ái trọn hảo.

Thánh I-rê-nê đã nói :“Vinh quang Thiên Chúa là con người sống và sự sống của con người là chiêm ngắm vinh quang Thiên Chúa”.[79] Tuy nhiên, con người chỉ phản ánh vinh quang Thiên Chúa khi kết hợp với Ngài, nghĩa là được ơn thánh hóa, được nên thánh, mà con người chỉ nên thánh khi đã đón nhận ơn cứu độ của Chúa Ki-tô, qua bí tích Thánh tẩy. Trong nghĩa này, các ki-tô hữu là người phản ánh vinh quang Thiên Chúa, có điều vinh quang ấy không phải là kho tàng được ban cho để giữ lấy mà là hạt giống ân sủng được gieo trồng để được lớn lên trong đời sống, điều mà họ phải trả lại cho Thiên Chúa vì đã lãnh nhận sự sống thần linh từ Ngài.[80]

Khi sống đời thánh thiện, người ki-tô hữu được kết hợp trọn vẹn với Thiên Chúa. Đó là đích điểm của cảm nghiệm thần bí. Tuy vậy, dù đã tiến xa trên đường trọn lành, và ngay cả hạnh phúc trọn vẹn trên Thiên đàng thì cũng chưa phải là mục đích tối hậu đời sống người ki-tô hữu, đó chỉ là những phương thế tuyệt hảo và có hiệu quả nhất đem lại vinh quang Ba Ngôi Thiên Chúa. Chứng nghiệm điều này, thánh Gioan Thánh Giá khi vẽ sơ đồ cuộc hành trình lên đỉnh hoàn thiện, trên mút cùng đó ngài viết:“nơi đây, trên đỉnh cao này chỉ có danh dự và vinh quang Thiên Chúa”.[81]

Kết luận

Bản chất thần bí Ki-tô giáo, tức sự kết hợp con người với Thiên Chúa nơi Đức Ki-tô, là trọng tâm của mặc khải Thánh Kinh. Như thế Ki-tô giáo là đạo thần bí. Cũng từ bản chất của sự kết hợp này có hai nghĩa của từ thần bí được xác nhận: nghĩa rộng được hiểu là mọi ki-tô hữu nhờ bí tích Thánh Tẩy đều có ơn gọi đời sống thần bí; nghĩa hẹp là một số người được Thiên Chúa ban cho ơn đặc biệt họ cảm nghiệm được sự kết hợp thần linh với Ngài, dù những hiện tượng thần bí thì không thuộc về bản chất sự kết hợp này.

Hành trình thần bí cũng là hành trình đời sống tâm linh dù có nhiều cách gọi khác nhau nhưng đều trải qua ba giai đoạn: thanh tẩy, soi sáng và kết hợp, hoặc từ thông thường đến khổ hạnh; từ khổ hạnh đến thần bí. Kết hợp với Thiên Chúa nhờ đức ái trọn hảo là đích điểm của hoàn thiện Ki-tô giáo, cũng là sự viên mãn ở đời này do trạng thái thần bí mang lại. Tất cả nhắm đến mục đích tối hậu của đời sống người ki-tô hữu là vinh quang Thiên Chúa. Muốn được như vậy người ta phải đón nhận ơn cứu độ của Chúa Ki-tô và nên thánh.

(Còn tiếp)
- Trích trong tác phẩm "Đời sống thần bí Ki-tô giáo qua cảm nghiệm của thánh Têrêsa Avila và thánh Gioan Thánh Giá" của Phêrô Tạ Văn Tuân.

Thứ Bảy, 20 tháng 4, 2024

Biển Yêu Thương


Ở bên ngoài Biển Yêu Thương
Có gì đáng để vấn vương kiếm tìm,
Có gì thỏa mãn con tim?

Chủ Nhật, 7 tháng 4, 2024

Đời sống thần bí Kitô giáo




II. HÀNH TRÌNH THẦN BÍ KI-TÔ GIÁO

Hành trình thần bí vốn huyền nhiệm và khó tả, trong quá trình tăng trưởng lại có quá nhiều sắc thái do hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi mỗi tâm hồn mỗi khác. Truyền thống thần học tâm linh chia hành trình thần bí hay con đường hoàn thiện Ki-tô giáo thành ba giai đoạn. Dù tên gọi và cách thức tiếp cận khác nhau nhưng bản chất vẫn là sự kết hợp với Thiên Chúa. Hiện nay, chưa có phương pháp trình bày nào được coi là tối ưu. Ở đây, có thể ghi nhận ba quan điểm, cũng là ba phương pháp tiêu biểu là: hành trình ba giai đoạn của quan điểm cổ truyền; hành trình đức ái hoàn hảo theo thánh Tôma Aquinô và hành trình tòa lâu đài nội tâm của thánh Têrêsa Avila mà bài viết này tập chú nhiều ở Phần 2.

1. Quan điểm cổ truyền

Quan điểm cổ truyền chia hành trình thần bí thành ba giai đoạn là: thanh luyện, chiếu sáng và kết hợp, cũng được gọi là thanh đạo, minh đạo và hiệp đạo.[52] Trong mỗi giai đoạn này người ki-tô hữu nhận ra tình trạng, phương thế và mục đích để hướng đến.

1.1. Giai đoạn thanh luyện

Gọi là thanh luyện, vì giai đoạn này dành cho những người khởi đầu, họ muốn sống chân thành đời sống người ki-tô hữu. Tuy sống trong ân nghĩa với Chúa nhưng họ vẫn còn quyến luyến với các tội nhẹ. Mục đích thanh luyện là giúp họ thống hối các lỗi lầm trong quá khứ. Thực tập khổ hạnh để tránh cám dỗ và nguy cơ phạm tội. Những người ở giai đoạn này có thể đạt mục đích bằng hai phương thế: cầu nguyện để được ơn Chúa và khổ hạnh để lãnh nhận ơn Chúa.

1.2. Giai đoạn chiếu sáng

Giai đoạn này được gọi là chiếu sáng vì tập trung vào sống theo gương nhân đức của Chúa Giêsu là ánh sáng. Điều kiện để vào giai đoạn này là linh hồn[53] thường xuyên trong tình trạng ân sủng, gớm ghét tội nhẹ và mọi nguy cơ phạm tội, làm chủ các dục vọng, thâm tín các đạo lý đức tin. Nhắm mục đích nên giống Chúa Giêsu, linh hồn phải đặt Chúa làm trung tâm đời sống, để Chúa điều khiển mọi tư tưởng, tình cảm. Phương thế thực hiện là cầu nguyện, suy ngắm tâm tình hơn là suy lý. Linh hồn khát khao tìm hiểu, yêu mến Chúa Giêsu và thực hành các nhân đức theo gương Ngài.

1.3. Giai đoạn kết hợp

Sau khi đã trải qua hai giai đoạn thanh luyện và chiếu sáng, linh hồn tiến vào giai đoạn kết hợp. Người đã tiến vào bậc này được kết hợp với Chúa cách mật thiết và thường xuyên. Linh hồn tan biến trong Chúa, chỉ sống bởi Chúa và nhờ Chúa. Cuộc sống của họ được đức mến thôi thúc, họ quên mình, tập trung tất cả tư tưởng, tâm tình và hành động vào lòng mến Chúa. Hiệu quả đạt được của bậc này là : linh hồn thoát ly thụ tạo; lòng mến Chúa đã trở nên nhu cầu sống; đời sống cầu nguyện trở thành việc chiêm ngắm Chúa liên lỉ trong tình yêu và hằng tuân phục thánh ý Chúa.[54]

Nhiều tác giả tu đức cho rằng giai đoạn thanh luyện và chiếu sáng là thời kỳ khổ chế, khi đạt tới giai đoạn kết hợp là bắt đầu thời kỳ hiệp nhất thần bí.[55] Như thế, tiến trình kết hợp của con người với Thiên Chúa được hiểu cách khác là từ khổ chế đến thần bí.

2. Quan điểm của thánh Tôma Aquinô

Đức ái là mối dây liên kết điều thiện hảo,[56] cũng là ơn cao trọng và trổi vượt.[57] Thánh Tôma Aquinô đã mô tả hành trình kết hợp với Thiên Chúa theo sự tiến bộ của đức ái.

2.1. Đức ái khởi đầu

Đời sống thiêng liêng phát sinh nhờ hiệu quả của đức ái. Bởi thế, với người mới khởi đầu trên đường tâm linh, thánh Tôma cho rằng :“bổn phận đầu tiên và chính yếu của con người là tránh tội lỗi và chống lại các dục vọng nơi mình, vì nó thúc đẩy con người làm trái ngược với đức ái”.[58] Những thanh luyện và hãm mình tự nó không phải là cùng đích, nó chỉ là phương thế để gạt đi các trở ngại ngăn cản sự tăng trưởng đức ái.

2.2. Đức ái tiến bộ

Ở bậc này, theo thánh Tôma, linh hồn phải chủ tâm tiến bước trong đường lành. Đức ái gia tăng và thêm vững mạnh.[59] Để mặc lấy Đức Ki-tô và trở nên giống Người, cần có những phương thế tích cực, nhờ đó, ơn thánh và đức ái mới có thể tăng trưởng. Các phương thế ấy là các bí tích, các việc lành phúc đức và cầu nguyện.

2.3. Đức ái hoàn hảo

Bậc này tương đương với giai đoạn kết hợp hay hiệp đạo. Ở tình trạng này, linh hồn quan tâm đặc biệt để kết hợp với Chúa: “mong ước được ra đi để được ở với Đức Ki-tô”.[60] Thánh Tôma, trong mở đầu luận đề Đức ái của Tổng luận Thần học, đã xác định: Đức ái là tình bạn giữa Thiên Chúa và con người. Đức ái hoàn hảo kết hợp mật thiết ta với Thiên Chúa, bởi hành vi yêu mến làm cho ý chí thoát ra khỏi chính mình để đến cư ngụ nơi Thiên Chúa.[61]

Như vậy, với thánh Tôma hành trình kết hợp thần bí hệ tại ở việc gia tăng lòng mến Chúa. Yêu mến Chúa là mục đích tối hậu và hạnh phúc tuyệt đối của con người. Nhờ yêu Chúa, người ta sẽ yêu tha nhân và yêu chính mình vì được thông phần vào bản tính của Thiên Chúa.

(Còn tiếp)
- Trích trong tác phẩm "Đời sống thần bí Ki-tô giáo qua cảm nghiệm của thánh Têrêsa Avila và thánh Gioan Thánh Giá" của Phêrô Tạ Văn Tuân.

Thứ Hai, 1 tháng 4, 2024

Đời sống thần bí Kitô giáo




2. Bản chất và đặc trưng thần bí Ki-tô giáo

2.1. Bản chất thần bí Ki-tô giáo

Bản chất thần bí Ki-tô giáo là sự kết hợp giữa con người với Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Ki-tô. Nét độc đáo thần bí Ki-tô giáo là nơi Đức Giêsu chính Thiên Chúa đến gặp con người và mời gọi họ kết hợp với Ngài.

Nơi Đức Giêsu Thiên Chúa đã làm người để ở với con người.[35] Đức Giêsu đã mở đường để người môn đệ có thể “ở lại” trong Ngài,[36] và chính Thiên Chúa đến cư ngụ nơi người ấy :“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23). Đó là sự kết hợp trong tình yêu. Sự kết hợp ấy ở đỉnh cao được diễn tả bằng cuộc kết hôn nhiệm lạ giữa Thiên Chúa và linh hồn. Tuy nhiên, để khỏi rơi vào ảo tưởng tình cảm, các nhà thần bí Ki-tô giáo không quên lưu ý rằng việc kết hợp với Thiên Chúa không phải là chuyện tình cảm, nhưng tiên vàn là kết hợp ý chí,[37] theo gương Đức Ki-tô, người đến để thi hành ý muốn của Cha.[38]

2.2. Đặc trưng thần bí Ki-tô giáo

Có nhiều khuynh hướng thần bí Ki-tô giáo giải thích bản chất sự kết hợp với Thiên Chúa, như thần bí ánh sáng và đêm tối, thần bí giao duyên, thần bí bản thể hay vắng lặng.[39] Có thể ghi nhận các đặc trưng của thần bí Ki-tô giáo như sau:

2.2.1. Mầu nhiệm Thiên Chúa được tỏ hiện nơi Đức Giêsu Ki-tô và Hội Thánh

Thiên Chúa của Ki-tô giáo được mặc khải là Đấng Sáng Tạo, vừa siêu việt vừa nội tại trong vạn vật. Hơn nữa, Ngài còn được tỏ bày là “Thân Phụ Đức Giêsu” và là Cha của tất cả mọi người.[40]

Thiên Chúa muốn mọi người được nhận biết tình thương của Người và hưởng hạnh phúc vĩnh cửu đã dành cho những ai kết hợp với Ngài. Nơi Đức Ki-tô, Thiên Chúa tỏ bày kế hoạch tình thương đó,[41] bởi chính Ngài là Đường dẫn nhân loại về với Cha.[42] Cho nên, chìa khóa của thực tại thần bí Ki- tô giáo không phải là con người đi tìm gặp Thiên Chúa mà chính Thiên Chúa đến gặp con người và bày tỏ cho con người tình yêu hợp nhất với Ngài.

Chiêm ngắm mầu nhiệm Thiên Chúa, thần bí Ki-tô giáo tránh chủ trương vô tri và nhân hình về Ngài, nên thâm tín: một đằng Thiên Chúa đã được tỏ bày nơi Đức Ki-tô, vì thế, kết hợp với Thiên Chúa bao hàm sự hợp nhất với Đức Ki-tô, cả nhân tính và thiên tính. Đàng khác, vì Thiên Chúa là Đấng siêu việt, con người được mời gọi kết hợp với Ngài, nhưng mãi mãi con người vẫn là thọ tạo không thể nào đồng hóa với Thiên Chúa. Bao lâu còn sống ở trần gian, con người vẫn khát khao tìm kiếm và kết hợp với Ngài trong đêm tối.[43]

Là bí tích cứu độ của Chúa Ki-tô, Hội Thánh đón nhận và chuyển thông hồng ân đó cho con người bằng Lời Chúa và các bí tích. Nhờ Hội Thánh, đời sống thần bí người ki-tô hữu được nuôi dưỡng qua việc lắng nghe Lời Chúa và tham dự các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể.[44]

2.2.2. Kết hiệp thần bí với Thiên Chúa biểu hiện qua đức mến

Đức ái là điều răn cao trọng nhất được chính Chúa Giêsu dạy.[45] Đức ái trọn hảo có mẫu chung là“yêu như Thày đã yêu”(Ga, 13, 35). Kết hợp thần bí không dẫn đến hủy diệt cá nhân trong Thiên Chúa, nhưng biểu hiện qua lòng mến, là đỉnh cao của sự hoàn thiện ki-tô hữu. Lòng mến Chúa trào ra lòng mến tha nhân. Yêu mến Thiên Chúa bao gồm cả việc yêu mến những người thuộc về Chúa, nhất là những người bé nhỏ hiện thân của Chúa Ki-tô. Sự kết hợp thần bí cũng đi kèm theo một đời sống đạo hạnh. Người ta không thể dung hòa việc kết hợp với Thiên Chúa mà lại sống nếp sống vô luân, trác táng. Vì tự bản chất đời sống thần bí họa lại dung nhan thánh thiện của Đức Ki-tô.[46]

Tình yêu đòi hỏi người ta luôn thăng tiến. Hơn nữa, trong hành trình thiêng liêng ai không tiến tức là đang lùi.

3.3.3. Đời sống thần bí gắn chặt với đời sống ki-tô hữu

Đời sống người ki-tô hữu đã mang tính thần bí từ khởi đầu, bởi vì khi lãnh nhận bí tích Thánh tẩy, người tín hữu được liên kết vào Đức Ki-tô, trở thành chi thể của Người[47]. Thánh Thần đã biến đổi họ thành nghĩa tử của Thiên Chúa, [48]được thông phần vào bản tính Thiên Chúa,[49] và thành đền thờ Chúa Thánh Thần.[50]Tuy nhiên, đó mới là ơn “nền tảng”,“mầm giống” của đời sống thần bí.[51] Mầm giống thần linh đã được ban cho người ki-tô hữu nhờ bí tích Thánh tẩy nhưng nó chưa được kiện toàn. Vì thế, trong suốt cuộc đời mình, người ki-tô hữu cần phải sống cách có ý thức hơn bản tính thần bí trong mình, và phát triển mầm giống thần linh đã được lãnh nhận ấy.

Ở đây một lần nữa cần phân biệt đời sống thần bí và cảm nghiệm thần bí. Tất cả các ki-tô hữu đều được mời gọi đón nhận và phát triển đời sống thần bí. Đây là tiến trình hoàn thành ơn gọi làm con Thiên Chúa. Cảm nghiệm thần bí là ơn được ban cho một số người, họ cảm nhận được sự kết hợp gần gũi với Chúa. Tất nhiên cảm nghiệm đó không nhất thiết kéo dài cả đời người.

Như thế, rõ ràng có hai nghĩa của thần bí người ta phải xác nhận: nghĩa rộng là ơn gọi của mọi ki-tô hữu do hiệu quả của bí tích Thánh Tẩy; nghĩa hẹp là đặc ân được ban cho một số ít người có cảm nghiệm đặc biệt về sự hiện diện của Thiên Chúa, cũng như những biểu hiện trong sự kết hợp với Ngài, để minh chứng cho hồng ân thần hóa dành cho mọi người, như trường hợp thánh Têrêsa Avila và thánh Gioan Thánh Giá mà đề tài này quan tâm.

(Còn tiếp)
- Trích trong tác phẩm "Đời sống thần bí Ki-tô giáo qua cảm nghiệm của thánh Têrêsa Avila và thánh Gioan Thánh Giá" của Phêrô Tạ Văn Tuân.

Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2024

Bài thơ "Thập giá tụng" của vua Khang Hi


 Có lẽ trong các Hoàng đế Mãn Thanh thì vua Khang Hi có thiện cảm với Ki-tô giáo nhất. Nhà vua rất trọng dụng các giáo sĩ dòng Tên, cho họ làm việc trong Khâm Thiên Giám, cũng như trong xưởng họa của cung đình, đúc súng ống và kể cả trong đoàn ngoại giao thương thuyết hiệp ước biên giới với Nga-La-Tư (Russia).

Ngài cũng cho phép các giáo sĩ truyền đạo và lập nhà thờ ở Bắc Kinh, còn ngự ban hai chữ Kính Thiên 敬天 cho treo trong nhà thờ.
Có vẻ như qua các giáo sĩ dòng Tên, ngài cũng biết ít nhiều về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Trong mùa Chay này, mời bạn thưởng thức bài thơ (có phổ nhạc) của Khang Hi Hoàng đế nhá.
⭐️
Nguyên Văn
基督之死 【十架頌】
功成十架血成溪,百丈恩流分自西。
身列四衙半夜路,徒方三背兩番雞。
五千鞭韃寸膚裂,六尺懸垂二盜齊。
慘慟八垓驚九品,七言一畢萬靈啼。
⭐️
Phiên âm
Cơ đốc chi tử (thập giá tụng)
Công thành thập giá huyết thành khê
Bách trượng ân lưu phân tự tê (tây)
Thân liệt tứ nha bán dạ lộ,
Đồ phương tam bội lưỡng phiên kê
Ngũ thiên tiên thát thốn phu liệt
Lục xích huyền thuỳ nhị đạo tề
Thảm động bát cai kinh cửu phẩm
Thất ngôn nhất tất vạn linh đề
⭐️
Tạm dịch
Cái chết của Đấng Ki-tô (bài ca ngợi thập giá)
Khi công việc hoàn thành trên thập giá, máu Ngài chảy thành suối.
Dòng chảy trăm trượng của ân sủng chia ra từ hướng Tây
Thân bị đưa đẩy giữa bốn nha môn trên đường từ nửa đêm,
Môn đồ chối ba lần (trước khi) gà gáy hai lượt.
Năm ngàn roi vụt xé rách từng tấc da.
Sáu thước treo cao cạnh hai tên trộm cướp
Bi thảm sốc đến tám cõi (đất xa), làm kinh hãi chín bậc (quan chế)
Bảy lời nói xong, vạn linh hồn khóc than.
⭐️
Frank C.Yue dịch sang thơ tiếng Anh khá thú vị (https://www.poemhunter.com/.../emperor-kang-xi-on-the.../)
On the Holy Cross the Father's will is done;
Like a stream of Life, flows Christ's blood precious.
From the West, come Heav'nly blessings gracious,
As deep as hundreds of feet, through the Son.
Subjected to four biased judgment ‘round midnight -
(Most of His disciples take flight)
Poor Peter denies Him thrice
Before the rooster crows twice.
Five thousand lashes of the cat-o-nine- tails
Rip open every inch of His skin frail.
Beside two bandits, He was hung up six feet high -
His piteous sufferings make all His people cry.
Once He has uttered the sentences seven,
Myriad souls in pain and thankfulness wail towards.
⭐️
Diễn ngôn và giải thích
Bài thơ này khá độc đáo, dùng các chữ số 1-10 để nhắc lại các biến cố trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu
1 = Một cuộc khổ nạn
2 = Hai tên cướp bị đóng đinh chung
3 = Ba lần bị chối
4 = Bốn cuộc tra khảo
5 = Năm ngàn roi (nhiều lắm, đếm không hết)
6 = Cây cao sáu thước (thước ta)
7 = Bảy lời cuối
8 = Tám điểm của một la bàn - đến điểm xa nhất của thế giới
9 = Chín cấp bậc quan chức - tất cả các tầng lớp nhân sự
10= Chữ thập chỉ số 10, cũng là hình ảnh của Thánh giá
Còn cả số 100 百1000 千10000 萬nữa.
Câu 1) 功成十架血成溪,百丈恩流分自西。
Sứ mệnh của Đấng Ki-tô đã được hoàn thành khi máu chảy từ Thập tự giá. Ân sủng vô hạn của Chúa lan rộng từ phía tây đến mọi hướng.
Ân sủng của Thập tự giá đến từ Jerusalem (tức là, về mặt địa lý ở phía tây từ nơi các nhà truyền giáo đến).
Câu 2) 身列四衙半夜路,徒方三背兩番雞。
Ngài bị đưa qua đẩy lại giữa bốn phiên tòa, từ giữa đêm, ba lần bị đệ tử chối bỏ trước khi gà trống gáy hai lần.
Sau bị bắt, Chúa Giêsu trước hết bị giải đến đưa đến nhà ông Anna, bố vợ của Caipha. (Gioan 18:13). Rồi Anna gửi sang nhà ông Caipha, thầy tế thượng phẩm. (Gioan 18:24). Sau đó, các nhà lãnh đạo Do Thái đã đưa Chúa Giêsu từ Caipha đến cung điện của Philatô, thống đốc La Mã. (Gioan 18:28) Philatô đã gửi Chúa Giêsu đến với Hêrôđê. (Luca 23:7) Sau đó, Hêrôđê gửi Chúa Giêsu trở lại Philatô (Luca 23:11).
Tại sao phải chuyển ngài từ tòa án này sang tòa án khác? Có vẻ như bốn người (Annas, Caipha, Philatô và Herod) đều cảm thấy rằng việc kết án Chúa Giêsu vượt quá trách nhiệm của họ. Ai cũng muốn đẩy cho người khác.
Ngay cả sự kiện Phêrô chối Chúa Giêsu cũng đã thực hiện lời tiên báo ở của Ngài (Macco 14:30, 72).
Câu 3) 五千鞭韃寸膚裂,六尺懸垂二盜齊。
Ngài bị đánh đập với vô số hàng ngàn ngọn roi, mỗi tấc da bị xé toạc, rồi treo trên cây cao sáu thước với hai tên cướp ở hai bên.
“Chính người đã bị đâm thâu vì chúng ta phạm tội,
bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm;
người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an,
đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành” (Isa 53:5)
"Đâm thâu” (đóng đinh) và "nghiền nát" là những động từ mạnh mẽ phản ánh mức độ nghiêm trọng của sự tra tấn mà Chúa Giêsu đã trải qua thông qua cuộc khổ nạn và trên Thập tự giá.
Câu 4) 慘慟八垓驚九品,七言一畢萬靈啼。
Mọi người ở mọi nơi, mọi giới bị sốc và đau buồn vì sự bi thảm không thể tả, hàng vạn linh hồn đã khóc khi nghe tiếng kêu cuối cùng trong bảy lời của Ngài trên thập giá.
Tiếng kêu đầu tiên: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ không biết họ đang làm gì." (Luca 23:34)
Tiếng kêu thứ 2: “Quả thật, tôi nói với anh, hôm nay anh sẽ ở với tôi trên thiên đường." (Luca 23:43)
Tiếng kêu thứ 3: Chúa Giêsu nói với mẹ mình, “Thưa bà, này là con bà”, và nói với người môn đệ, "Đây là mẹ anh (Gioan 19:26-27)
Tiếng kêu thứ 4 (Chúa Giêsu trích dẫn từ TV 22:1): Khoảng ba giờ chiều, Chúa Giêsu kêu lớn, "Eli, Eli, lema sabachthani?" Có nghĩa là "Chúa ơi, Chúa ơi, tại sao Ngài lại bỏ rơi tôi?". (Mt 27:46)
Tiếng kêu thứ 5: Sau đó, Đức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: "Tôi khát! " (Gioan 19:28) (xem TV 22:15)
Tiếng kêu thứ 6: Nhắp [rượu pha giấm] xong, Đức Giêsu nói: "Thế là đã hoàn tất! " Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí. (Gioan 19:30).
Tiếng kêu thứ 7: Chúa Giêsu kêu lên với một giọng lớn, "Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha.” Nói xong, Người tắt thở (Lu-ca 23:46)
Với cái chết của Đức Kitô sau tiếng kêu thứ 7 và cuối cùng của Ngài từ Thập tự giá, những sự kiện quan trọng đã xảy ra. Bức màn của ngôi đền đã bị xé làm hai từ trên xuống dưới. Trái đất rung chuyển, những tảng đá tách ra và những ngôi mộ vỡ ra... Thấy động đất và các sự việc xảy ra, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giê-su đều rất đỗi sợ hãi và nói: "Quả thật ông này là Con Thiên Chúa." (Mt 27:51-54)


Nguồn: Facebook của Lm. Trần Quốc Anh SJ - https://www.facebook.com/anhq.tran.5680