Các Trang

Thứ Ba, 30 tháng 9, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - Thiên Chúa của Abraham - Lịch sử thánh

 


ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN

+ THIÊN CHÚA CỦA ABRAHAM

3. Lịch sử thánh

Bây giờ chúng ta tiểp tục phân tích nội dung sự mạc khải lời tâm sự vừa có ký ức, vừa có những lời trong hiện tại, vừa có dự phóng về tương lai của thiên tình sử ấy gồm những chuyện gì. Trước hết, đó là một thiên tình sử, như tôi đã nói, cũng xảy ra trong cái khung của không gian và thời gian, tức là cũng như một vở kịch mà nội dung của nó được diễn ra trong một hí trường, trong một bối cảnh, một khung cảnh nào đó; như vậy, có thể nói được rằng thiên tình sử ấy khởi đầu vào lúc con người đầu tiên xuất hiện và kết thúc vào ngày tận thế [Cánh chung].

Thiên tình sử ấy diễn ra trong khung cảnh của chính vũ trụ này, cho nên trong Kinh thánh cũng có nói đến, có mô tả một phần nào chính cái bối cảnh mà trong đó thiên tình sử sẽ diễn tiến. Vì vậy, một cách gián tiếp, Kinh thánh tuy là vắn tắt, là một bức thư tình hoặc là một tác phẩm nói về một chuyện tình, nhưng đồng thời cũng có đề cập đến một cách gián tiếp về cái bối cảnh, tức là về chính cái vũ trụ này.

Do đó, nếu có thể nói rằng nội dung của Kinh thánh là những sự kiện, thì tôi xin được liệt kê một cách sơ lược những sự kiện căn bản được ghi chép lại. Sự kiện đầu tiên, đó là việc Thiên Chúa tạo thành trời đất cho đến khi loài người xuất hiện. Khi loài người xuất hiện, bấy giờ thiên tình sử bắt đầu.

Thoạt tiên có một giai đoạn có thể nói thiên tình sử ấy đã trải qua thời kỳ trăng mật tốt đẹp, được hình dung bởi một dự tưởng là mỗi khi chiều xuống, trong làn gió mát, Thiên Chúa xuống đi dạo cùng với hai ông bà Nguyên tổ đại diện cho nhân loại.

Thế nhưng rồi lại xảy ra một sự cố đầy đau buồn, đó là nhân loại, qua sự đại diện của hai ông bà Nguyên tổ, đã phụ tình, đã nghe theo lời đường mật của một ngã vị thuần linh, mà tôi có nhắc đến ở trên kia, là thủ lãnh của các thiên thần phản loạn chống lại Thiên Chúa, có tên gọi là Satan và được biểu tượng bởi hình ảnh con rắn độc. Do đó, thay vì đáp trả tình yêu của Thiên Chúa, Nguyên tổ đã bất tuân, và cái này, tiếng chuyên môn gọi là Tội Tổ Tông.

Từ đó, như tôi nói, thiên tình sử bắt đầu những trang bi ai thống thiết, đó là cánh cửa mở ra cho cái gọi là Sự Dữ, tiếng Pháp là Le Mal, mà hai khía cạnh chính là đau khổ và tội ác xen lẫn vào tình trường giữa Thiên Chúa và nhân loại nói riêng, giữa Thiên Chúa và vũ trụ nói chung.

Dù loài người phụ tình, như tôi đã nói, bởi lẽ Thiên Chúa là tình yêu nên cuối cùng tình yêu vẫn chiến thắng. Đương nhiên, vì bóng sự dữ đã len vào cho nên chiến thắng ấy phải trả một giá rất đắt, phải trải qua một cuộc trường chinh nói được là đầy gian khổ mà đỉnh cao là cuộc Khổ Nạn của Giêsu Nazareth. Bất chấp con người phụ bạc, có thể nói là rời bỏ người yêu của mình ra đi theo tiếng gọi dụ dỗ của ác thần, hoặc là hình ảnh của đứa con hoang đàng từ bỏ mái ấm gia đình, đi theo tiếng gọi cám dỗ, lôi cuốn, sa đọa vào con đường tội lỗi và gánh lấy những hậu quả đau thương, thì cuối cùng tình yêu vẫn thắng, Thiên Chúa vẫn trung thành với những lời giao ước, những lời hứa hẹn của Ngài, vì thế mà đã tiên báo rằng, chương trình sáng tạo tình yêu, cách nào đó đã bị xáo trộn, sẽ được tái tạo do công lao của một Đấng Cứu thế, sinh bởi một người nữ thuộc dòng giống hai ông bà Nguyên tổ, nghĩa là một con người 100%, có xác phàm và là một thành viên của cộng đồng nhân loại.

Trung thành với lời giao ước hứa hẹn ấy, Thiên Chúa đã chọn Tổ phụ Abraham, lập thành một dân riêng của Ngài, vừa để bảo tồn duy trì giao ước và lời hứa hẹn ấy, đồng thời cũng để chuẩn bị cho sự giáng thế của Đấng Cứu Độ mà Ngài đã hứa ban cho nhân loại, cho vũ trụ. Thế là dân Do Thái được thiết lập với con người đầu tiên được chọn là Tổ phụ Abraham. Có thể nói ngài chỉ là thủ lãnh của một nhúm chẳng bao nhiêu người, suốt một giai đoạn lịch sử, sống đời du mục có thể nói là “tha phương cầu thực” trong vùng Cận Đông, và giai đoạn cuối cùng, cư trú một thời gian trên đất Ai Cập. Cũng giống như các bộ lạc du mục khác ở vào thời điểm lịch sử lúc bẩy giờ, tại địa phương vùng Cận Đông đó, họ cũng có những thăng trầm nhưng không mấy đặc biệt.

Trong thời gian định cư ở Ai Cập, cũng có những giai đoan con cháu của Tổ phụ Abraham đạt đến những địa vị cao trong triều đình Ai Cập, và nhờ đó mà bộ tộc của Abraham được phát triển thành một chủng tộc, thế nhưng cuối cùng họ phải rơi vào cảnh bị biến thành nô lệ.

Chủng tộc bị làm nô lệ ấy, chịu sự bóc lột vô cùng bạo tàn của các chế độ quân chủ Ai Cập, đã kêu lên đển Thiên Chúa và Thiên Chúa đã lắng tai nghe, đã khởi dậy một vị cầm đầu để giải thoát dân Do Thái khỏi ách nô lệ Ai Cập, tranh đấu để được di tản ra khỏi đất nước Ai Cập, đi đến nơi đã được Thiên Chúa hứa, tức là đất Palestine.

Trong Kinh thánh có ghi chép rằng, cuộc giải phóng đó rất là gian nan. Trước sự ngoan cố của chính quyền Ai Cập thời bây giờ, Thiên Chúa đã phải trực tiếp can thiệp bằng những phép lạ lẫy lừng, được gọi là mười tai họa giáng xuống Ai Cập. Đến lúc đó chính quyền Ai Cập mới để cho vị thủ lãnh của dân Do Thái, là Tổ phụ Môsê, dẫn đầu đoàn dân của Thiên Chúa rời đất Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ đế đi vào đất Palestine được xem như là Đất Hứa. Như thế, Môsê chính là vị lập quốc chính thức đưa bộ tộc miêu duệ của Abraham trở thành một dân tộc tuy không lớn lắm, nhưng ít nhất có chủ quyền, có lãnh thổ là đất Palestine, lập nên một nước là nước Israel.

(Còn tiếp)

- "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.

Chủ Nhật, 28 tháng 9, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - Thiên Chúa của Abraham - Tương giao liên ngã vị (tiếp theo)

 


ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN

+ THIÊN CHÚA CỦA ABRAHAM

2. Tương giao liên ngã vị (tiếp theo)

Vì vậy, như tôi đã nói ở trên kia, cuối cùng nội dung của Kitô giáo chính là Tình Yêu. Thiên Chúa là tình yêu, do tình yêu mà sáng tạo rồi tiến tới triển nở, hoàn thành trong tình yêu, xuyên qua tình yêu, tình yêu giữa nhiều chiều hướng: Thiên Chúa xuống với con người và các thụ tạo, loài người với Thiên Chúa, loài người với nhau và loài người với các loài thụ tạo khác. Và như thế, lịch sử thánh của vũ trụ này là một tình sử, và chúng ta ai cũng biết tình sử thì đương nhiên là du dương, là ân ái, nhưng cũng dễ xảy ra những bi kịch thống thiết, có thể có đổ vỡ, có hàn gắn, có mất mát, có đau thương. Để minh họa những điều đó, tôi đã từng dùng hình ảnh một hí trường, một màn kịch và tôi nói rằng Thiên Chúa là tác giả và các thụ tạo là diễn viên; nhưng có lẽ tôi cần phải đính chính lại, cái lịch sử của vũ trụ, mà bản chất là một lịch sử thánh, là một tình sử, là một tình trường, thì Thiên Chúa không phải chỉ là tác giả hay đạo diễn mà thôi, Ngài còn là nhân vật chính. Và, như tôi nói, cái tình trường này, cũng giống như bất cứ tình trường nào, thường có những màn kịch bi ai thống thiết, nhưng rồi cuối cùng, vì bản chất của Thiên Chúa vốn là tình yêu, cho nên tình yêu sẽ toàn thắng, và đó là TIN VUI. Đó chính là điều mà tôi đã dùng hình ảnh Thiên Chúa Cha mạc khải, tức là vén màn lên, thật ra là cởi mở tấm lòng để tâm sự nỗi niềm của Ngài với nhân loại, tuy có những màn bi ai thống thiết nhưng cuối cùng toàn thắng sẽ thuộc về tình yêu. Do đó, thiên tình sử có thể tạm chia ra như thế này: một giao ước giữa Thiên Chúa với loài người, và qua loài người làm trung gian, với toàn thể vũ trụ. Cuộc giao ước đó được chia ra làm ba giai đoạn, hay nói đúng hơn là hai giai đoạn và một cao điểm làm trung tâm. Giai đoạn thứ nhất được gọi là thời Cựu ước, tức là sự tuyển chọn dân Do Thái làm miêu duệ của Tổ phụ Abraham cho đến ngày Đức Kitô giáng sinh; giai đoạn thứ hai là dân được Thiên Chúa tuyển chọn sau khi Đức Giêsu đã lên trời, không còn khép kín, không còn giới hạn trong một dân tộc cùng huyết thống là dân Do Thái, miêu duệ của Tổ phụ Abraham, nhưng được mở rộng, được phổ quát hóa, có một chiều kích bao trùm, ôm lấy toàn thể nhân loại từ ngàv được gọi là ngày giáng lâm của Thánh Linh, thành lập cộng đoàn Kitô hữu, tức là Giáo hội Kitô giáo. Hai giai đoạn đó xoay quanh cái cao điểm, hay là cái trục, đó chính là thân thế và sự nghiệp của Giêsu thành Nazareth, được nhìn nhận, được tuyên xưng như là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, và đỉnh cao của thân thế và sự nghiệp ấy là cơn Khố Nạn và cuộc Phục Sinh của Ngài, cái thân thế, cái sự nghiệp mà mỗi một tâm hồn, mỗi một cộng đoàn, toàn thể nhân loại và cả vũ trụ đều được mời gọi thông dự. Thông dự, như tôi đã nói nhiều lần, gồm có hai mặt, một mặt là thừa hưởng gia nghiệp, và một mặt, đối với những chủ thể có ngã vị tính, có lý tính, có cảm tính, có ý chí, có tự do đều được mời gọi cộng tác và cao hơn nữa, có thể nói là được mời gọi đồng hóa phãn nào với chính thân thế, sự nghiệp của Giêsu, một con người, một thụ tạo kết hợp nên một với một Ngã vị Thiên Chúa. Trong tình trường đó, mỗi một thụ tạo, một mặt, vừa như được đồng hóa, duy nhất hóa với Đức Giêsu Kitô, một mặt, vẫn giữ được cá thể tính của mình; và ở cấp cao hơn, vẫn giữ được ngã vị tính, chủ thể tính của mình với một chiều kích trường tồn vĩnh tại, từ đó nhận được một cái gì gần như tương phản, nếu không muốn nói là mâu thuẫn, là vừa đồng hóa, duy nhất hóa với một hữu thể nhưng cũng vừa giữ được độc lập tính, độc đáo tính, cá thể tính, ngã vị tính của riêng mình. Và đã nói đến tình trường, thì đương nhiên yếu tính là tình yêu, mà tình yêu xét về một phương diện nào đó, ai có con tim thì đều có thể đáp lại tiếng gọi của tình yêu. Do đó, Kitô hữu không nhải là những bậc thượng trí, cũng không phải là những bậc thánh nhân, quân tử, trượng phu, anh hùng, nhưng chỉ là những ngã vị, nói một cách đơn giản, chỉ là những con người có trái tim biết yêu, biết tin tưởng vào tình yêu, đón nhận tình yêu và đáp trả lại tình yêu.

(Còn tiếp)

- "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.


Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - Thiên Chúa của Abraham - Tương giao liên ngã vị (tiếp theo)

 


ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN

+ THIÊN CHÚA CỦA ABRAHAM

2. Tương giao liên ngã vị (tiếp theo)

Đến đây, tôi xin phép các anh chị để được phạm một lỗi về tu từ, đó là hơi trùng lặp một tí, để tóm tắt lại những điều tôi đã trình bày ở trên kia, bởi vì đấy chính là cái đặc điểm, cái độc đáo tính của Kitô giáo. Kitô giáo, cuối cùng như tôi đã nói ở trước, không phải là một hệ thống tư tưởng mà là một hiện thực cụ thể do Thiên Chúa tạo ra, chẳng khác gì với bất cứ hữu thể hiện thực nào. Tôi có thể ví dụ hơi thô thiển một chút, như một rừng cây gồm có nhiều cây do Thiên Chúa trồng lên trong khu vườn vũ trụ hữu hình này, chỉ khác một điều, đó là rừng cây ấy, những cái cây ấy không phải là sản phẩm của nhữ quy luật tự nhiên có tất định tính, nhưng là những cái cây hình thành một rừng cây có ngã vị tính, có lý trí, có cảm tính, có ý chí để có quyền tự do lựa chọn đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa khi Ngài mạc khải, hoặc dùng một hình ảnh ví von văn chương hơn, khi Ngài mở lòng của Ngài ra để bày tỏ nỗi niềm tâm sự, để cho loài người biết cái dự định, do tình yêu của Ngài, muốn san sẻ sự hiện hữu, muốn san sẻ tình yêu, muốn san sẻ hạnh phúc muôn đời với loài thụ tạo được Ngài từng bước nâng lên mức có ngã vị tính, có chủ thể tính, tức là có lý trí, có cảm tính và có ý chí tự do lựa chọn, để cuối cùng tất cả được sống dìu dặt trong - tôi xin dùng một hình ảnh - trùng dương bát ngát của một bản tình ca muôn thuở. Từ nỗi niềm tâm sự đó của Thiên Chúa, cái kế đồ, cái chương trình tình yêu đó, một mặt là được mạc khải ra cho một cá nhân, một cộng đoàn được tuyển chọn riêng mà chẳng qua được tuyển chọn để làm trung gian, chứ bản chất vẫn bao hàm một tính chất phổ quát, mở rộng kêu gọi đến bất cứ con người thành tâm thiện chí nào, đúng như ý nghĩa trong chữ tiếng Pháp là catholique, mà chúng ta đã dịch sai thành Công giáo hoặc Thiên Chúa giáo, trong khi lẽ ra, như tôi đã trình bày ở trên, nên dịch là Phổ quát giáo, như vậy mới tương đối sát nghĩa và phản ảnh đúng cái tinh thần, cái cốt lõi. Một đặc điểm nữa, đó là nội dung của Thiên Chúa giáo có tính chất như là một sử quan, mà sử quan đây là của chương trình sáng tạo từ khởi đầu cho đến ngày thành toàn vào lúc Cánh chung, mà trước đây thường gọi là tận thế, vốn là một từ ngữ quá nặng một âm hưởng tiêu cực nào đó, và hiện nay đã được thay bằng chữ Cánh chung như vừa nói, bao hàm khía cạnh tích cực như là sự viên mãn, sự hoàn thành chương trình sáng tạo của Thiên Chúa tình yêu. Như vậy, lịch sử vĩ đại huy hoàng đó là lịch sử của cả vũ trụ mà đỉnh cao là lịch sử của nhân loại, và trong lịch sử của nhân loại có tâm điểm là lịch sử của công đoàn dân Chúa, được xây dựng trên nền tảng, hoặc trên hình ảnh mà các Tông đồ đã sử dụng, là tảng đá góc tường, là Giêsu Nazareth được tuyên xưng là Đức Kitô, là Đấng Thiên Sai, và là chính Thiên Chúa Ngôi Hai. Một đặc điểm khác nữa, đó là một tín hữu Công giáo, nói đúng hơn là một tín hữu Kitô giáo, một cộng đoàn Kitô giáo bất kỳ, từ từng tế bào như một gia đình, một giáo xứ, một giáo phận cho đến toàn thể Giáo hội trên toàn thế giới, và nhân loại, và vũ trụ nói chung đều được đặt, không phải đối diện với một hệ thống tư tưởng trừu tượng, nhưng có thể nói được rằng, được mời gọi đi vào một tương giao liên ngã vị với chính ngã vị tuyệt đối là Thiên Chúa Ba Ngôi; do đó, cái tương quan liên ngã vị là một phạm trù căn bản của Kitô giáo. Mỗi một người tín hữu cũng như mỗi một hữu thể có ngã vị, dưới cái nhìn của Kitô giáo, đều được mời gọi trong phạm trù tương liên ngã vị, trước hết là tương liên ngã vị với Thiên Chúa là ngã vị tuyệt đối, kế đến là tương liên ngã vị với những ngã vị loài thụ tạo, chẳng những giữa loài người với nhau, mà còn có thể nói là các ngã vị thụ tạo thần linh được gọi là thiên thần, và cũng xin nói ngay, trong hàng ngũ các thiên thần, có những thiên thần trung thành với Thiên Chúa, nhưng cũng có những thiên thần đã sa đọa, đã hư mất mà thủ lãnh được gọi là Satan, cũng là một ngã vị; và những ngã vị thụ tạo con người chúng ta đây, không phải không có một tương quan liên ngã vị nào đó với những thiên thần đã sa đọa kia. Sau này chúng ta sẽ thấy vai trò, tác động tai hại của Satan trong diễn trình của kế đồ sáng tạo vì tình yêu của Thiên Chúa. Đi sâu hơn, rộng hơn, xa hơn, có thể nói rằng tương quan liên ngã vị đó vẫn có ngay cả đối với những thụ tạo vô ngã vị; chẳng hạn như một vị thánh có thể nói là vào bậc nhất nhì của Thiên Chúa giáo, là thánh Phanxicô Assisi. Thánh nhân gọi bất cứ thụ tạo nào cũng bằng anh, bằng em, bằng chị, bởi vì, xét cho cùng, tất cả loài thụ tạo, có hoặc không có ngã vị tính, đều được sinh ra, được tạo thành bởi cung lòng tình yêu của Thiên Chúa, Đấng có ngã vị tính. Do đó, cốt lõi tinh túy của Kitô giáo không phải là một hệ thống triết học tư duy trừu tượng, nhưng là lịch sử thánh mà bản chất có thể nói là một Thiên Tình Sử vĩ đại giữa Thiên Chúa và loài người, nói riêng, và qua loài người, giữa Thiên Chúa và loài thụ tạo, nói chung, và giữa loài người với nhau, giữa loài người với cả vũ trụ, mà căn bản là tương quan liên ngã vị được gọi là TÌNH YÊU.

(Còn tiếp)

- "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.


Thứ Sáu, 26 tháng 9, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - Thiên Chúa của Abraham - Tương giao liên ngã vị

 


ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN

+ THIÊN CHÚA CỦA ABRAHAM

2. Tương giao liên ngã vị

Người cha già chờ đón đứa con hoang đàng trở về đoàn tụ với gia đình, một phần để thừa hưởng gia nghiệp đã được dành sẵn từ muôn đời, một phần để cùng với cha, với các anh em tiếp tục sự nghiệp của đại gia đình Thiên Chúa. Sự nghiệp đó, cuối cùng là Nước Trời muôn thuở được hình dung như một cuộc vui vầy chung hưởng Tiệc Thánh. Tiệc Thánh đó mang dáng dấp của một Tiệc Cưới mà sự sống chính là tình yêu giữa Thiên Chúa Ba Ngôi, giữa Thiên Chúa và nhân loại và giữa cộng đồng nhân loại với nhau trong nhiệm thể của Đức Kitô, tức là chính Giáo hội Kitô giáo. Nước Trời ấy còn có một chiều kích kín ẩn có thể bao hàm cả nhân loại, cả vũ trụ này được tượng trưng như một Đền Thánh được xây dựng mà Đức Kitô là nền tảng, là tảng đá góc tường. Nước Trời ấy cũng được mô tả như là một trời mới đất mới. Nói mới là để so sánh với cái cũ tức là trần gian đầy tội lụy và đau thương này. Nhưng, theo một nghĩa khác, có thể cũng không phải là trời mới đất mới nào cả, mà là chính trời đất này được đưa đến chỗ thành tựu viên mãn trong một sự nghiệp, trong một kế đồ mà lẽ ra, nếu không có tội lỗi xuấtt hiện, đã tiến triển một cách hài hòa êm đẹp; nhưng vì, có thể nói, một sự cố,... - xin lỗi vì ở đây tôi dùng một chữ tiếng Pháp - một accident xảy ra, cho nên có một giai đoạn nào đó chìm ngập trong bi thương. Tuy nhiên, giai đoạn bi thương đó chẳng qua chỉ là một bước quá độ sẽ qua đi, chứ kế đồ muôn thuở của Thiên Chúa vẫn được thực hiện, và cái kế đồ đó, những hữu thể có tự do, có lý trí, có cảm tính, có ý chí đều được mời gọi đi vào, một mặt để hưởng gia nghiệp, mặt khác như là cộng tác viên góp phần với Thiên Chúa, với anh em để hoàn thành sự nghiệp chung. Trong đó, mỗi một cá nhân, cũng như mỗi một cộng đoàn từ các gia đình, từ các xã hội địa phương của mỗi miền, của mỗi dân tộc đều có tính cách như những ngã vị đôi khi được ví như những viên gạch đồng thời cũng là những công nhân góp phần xây dựng, mà rõ ràng người thợ đầu tiên bằng xương bằng thịt, có một tiểu sử rõ ràng, có một thân thế, có một sự nghiệp, đó là Giêsu Nazareth, được hạ sinh bởi bà Maria, tại một địa phương, vào một thời điểm cụ thể trong lòng một dân tộc, một văn hóa. Và con người Giêsu Nazareth đó được các tín hữu nhìn nhận chính là Đức Kitô, là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người. Ngài vừa là vị thủ lãnh, vừa là bạn đồng hành, vừa là mẫu mực, và có thể nói Ngài mời gọi mỗi một cá nhân, mỗi một cộng đoàn cùng kết hợp với Ngài, đồng hóa với Ngài, đến nỗi có thần học gia đã nói rằng: Cái ý nghĩa cuối cùng, cái cứu cánh của vũ trụ này là tạo dựng nên chính Đức Kitô toàn thể mà Giêsu Nazareth là Đầu của Hội thánh, và qua trung gian của Hội thánh mà nhân loại và vũ trụ là toàn thân của cái được gọi là nhiệm thể Đức Kitô. Như vậy, mỗi một cá nhân, mỗi một cộng đoàn, toàn thể nhân loại, cả vũ trụ này là một cái gì để chuẩn bị đi vào sự kết hợp với một ngã vị duy nhất là ngã vị Ngôi Hai Thiên Chúa, có khi gọi là Ngôi Lời, khi khác gọi là Ngôi Con, và toàn thể loài thụ tạo, từ những phân tử vật chất cho đẽn các hữu thể có ngã vị, cho đến các cộng đoàn ít nhiều có ngã vị tính nào đó mà tiếng Pháp thường gọi là personne morale, kết hợp với một ngã vị của Thiên Chúa duy nhất Ba Ngôi trong tương quan liên ngã vị muôn đời muôn thuở dìu dặt bản nhạc tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi mà Ngôi Thứ Ba, thường được gọi là Thánh Linh, chính là tình yêu, dây nối kết giữa Ba Ngôi và cũng là dây nối kết giữa Thiên Chúa Nhất Thể với loài thụ tạo, và cũng là dây liên kết giữa các ngã vị thụ tạo và qua trung gian các ngã vị thụ tạo, trong đó có con người là một ngã vị thụ tạo vừa có tâm linh vừa có thể xác gắn liền, kéo theo cả những thụ tạo vật chất. Như vậy, trong cái nhìn của Kitô giáo, cả vũ trụ này, gồm có vật chất, gồm có tâm linh, gồm có những hữu thể từ vật chất vô tri vô giác cho đến các bậc thần linh như là một công trình chuẩn bị cho thụ tạo hướng về những hữu thể có ngã vị tính, thông dự vào ngã vị tính của Thiên Chúa Ba Ngôi, bằng cách tháp nhập vào Ngôi Vị Thứ Hai, tức là Ngôi Con, tức là Ngôi Lời đã nhập thể làm người trong Giêsu Nazareth, được hạ sinh bởi bà Maria là bông hoa kết tinh của một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn, dân tộc Do Thái; và sau khi bông hoa kết tinh của dân tộc Do Thái đó đã sản sinh ra một con người giống như bất cứ con người nào, được kết hợp với ngã vị của Ngôi Hai Thiên Chúa, thì qua trung gian của Giêsu Nazareth, với thừa tác vụ của Giáo hội Kitô giáo, cái số phận hoặc nói đúng hơn, cái mời gọi mà tiếng chuyên môn của chúng tôi gọi là Ơn thiên triệu, được thông dự vào ngã vị tính, ngôi vị tính của Thiên Chúa Ngôi Hai sẽ được phổ quát hóa, để cho bất cứ tâm hồn thành tâm thiện chí nào biết lắng nghe, biết thuận tình đón nhận thì sẽ được tháp nhập và có thể đến mức đồng hóa. Và đó chính là cái được thánh Phaolô gọi là mầu nhiệm kín ẩn trong lòng Thiên Chúa tự muôn đời, mà khi giờ đã đến, Ngài nói một cách rõ ràng minh thị qua chính Con của Ngài là Ngôi Hai xuống thế làm người, sau khi đã tiên báo, đã chuẩn bị qua trung gian các Tổ phụ, các Ngôn sứ của dân Do Thái là miêu duệ của Tổ phụ Abraham, con người duy nhất đã được chọn.

(Còn tiếp)

- "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.

Thứ Năm, 25 tháng 9, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - Thiên Chúa của Abraham - Người tín hữu Kitô (tiếp theo)



ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN

+ THIÊN CHÚA CỦA ABRAHAM

1. Người tín hữu Kitô (tiếp theo)

Có những thụ tạo, được mời gọi, có thể từ khước hoặc có thể thuận tình và có thể có những mức độ cộng tác ít nhiều trực tiếp hay gián tiếp. Do đó, tôi cũng không giấu giếm gì, theo cái nhìn của đức tin Kitô giáo thì tất cả mọi người đều có một mối liên hệ nào đó với lịch sử thánh mà cũng là lịch sử phàm trần. Vì vậy, đôi khi do hoàn cảnh lịch sử, những cộng đoàn Công giáo phần nào có vẻ khép kín, thậm chí có vẻ như là đối lập với những cộng đồng mà trong đó họ phải sống hoặc được sống. Thực ra, chẳng qua đó là một điều vạn... vạn... vạn... bất đắc dĩ, bởi lẽ bản chất của chữ Công giáo, hay nói đúng hơn là chữ Phổ quát giáo cùng với lịch sử thánh ấy mang một chiều kích mời gọi, đón chào, tiếp nhận bất cứ những ai thành tâm thiện chí. Một cách nào đó, có khi rất minh thị rõ ràng, khi khác thì qua các biến cố, từ những biến cố trọng đại có ảnh hưởng sâu xa đối với lịch sử của các nền văn hóa, các chế độ chính trị, nhưng cũng có thể từ những biến cố chỉ có mức độ của những cuộc đời bình thường, qua những sự việc tầm thường mà những người thành tâm thiện chí này có một sự mặt đối mặt nào đó với Thiên Chúa, qua trung gian của cộng đoàn được gọi là dân riêng của Thiên Chúa. Do đó, đừng hiểu chữ dân riêng như một sự tách rời, nhưng trái lại, dân riêng ở đây là được lựa chọn để như là một kiểu môi giới được Thiên Chúa dùng để mạc khải, theo nghĩa, như tôi đã nói, vén màn lên để thổ lộ tâm tư tình cảm, để đưa ra một giao ước, một lời hứa hẹn, một lời mời gọi cộng tác của Ngải đối với bất cứ con người nào, mà dù có ra sao chăng nữa, theo như đức tin của chúng tôi dạy, đều đã được dựng nên theo hình ảnh của chính Thiên Chúa là vị Cha chung của hết thảy mọi người, như hình ảnh người cha già trong dụ ngôn Người con hoang đàng được Chúa Giêsu đưa ra để bày tỏ nỗi niềm tâm sự của người cha đứng ở ngưỡng cửa, mỏi mắt chờ trông ngày trở về của đứa con đã phân ly, vì một sự cố đau thương nào đó đã xảy ra mà chúng ta sẽ tìm hiểu sau đây.

(Còn tiếp)

- "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.

Thứ Tư, 24 tháng 9, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - Thiên Chúa của Abraham (tiếp theo) - Người tín hữu Kitô



ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN

+ THIÊN CHÚA CỦA ABRAHAM (tiếp theo)

1. Người tín hữu Kitô

Hiện nay, trong khi những trường hợp muốn khẳng định mình thuộc hệ này hay hệ kia đang ngày càng giảm bớt, thì về mặt yếu tính, cốt lõi, về mặt bản chất của tín ngưỡng, bất luận là hệ phái nào, Tin Lành, Anh giáo, Chính Thống giáo hay Công giáo Rôma cũng đều tự xưng mình là Kitô hữu và tín ngưỡng của mình là Kitô giáo. Vì thế, từ giờ phút này trở đi, trừ khi trình bày về cơ chế tổ chức hoặc lịch sử của Giáo hội Kitô giáo Rôma, tôi sẽ dùng chữ Công giáo; còn khi bàn đến những vấn đề về nội dung đức tin, thì tôi dùng chữ Kitô giáo.

Như vậy, chúng ta có thể đưa ra một nhận xét như thế này: nội dung của Kitô giáo không phải là một học thuyết trừu tượng, nhưng là một tác động của Thiên Chúa trực tiếp can thiệp vào lịch sử của nhân loại và diễn trình của vũ trụ, và do đó mà có lịch sử tính, hiểu theo nghĩa rất rộng của chữ lịch sử, tức là những diễn biến xảy ra trong thời gian ở trong vũ trụ này, và đặc biệt là trên hành tinh nhỏ bé của chúng ta, tức là quả đất này, mà đỉnh cao là nhóm động vật được gọi là "người". Diễn trình lịch sử đó là tiếp tục những hành vi của Thiên Chúa thực hiện ý đồ của Ngài. Và những ý đồ đó được thực hiện qua những sự kiện mà có thể gọi được là những tin tức. Vậy, người tín hữu Kitô là những người đón nhận những tin tức được loan truyền và tin rằng những sự kiện đó có một tác động thế nào đó trên bản thân mình, trên toàn thể nhân loại, trên toàn bộ vũ trụ; và khi đón nhận những tin tức như thế, thì đồng thời người tín hữu cũng được hưởng thụ những hệ quả của những sự kiện đó. Một mặt khác, bởi vì đó là những con người có lý trí, có tình cảm, có ý chí, có hành động cho nên, như trên kia tôi đã nói, khi chọn Tổ phụ Abraham và hơn nữa, ngay khi tạo dựng nên con người, Thiên Chúa cũng đã mời gọi con người cộng tác với Ngài, hoặc dùng một từ ngữ khác nặng ký hơn, đó là đã ủy thác cho con người một trọng trách nào đó.

Một mặt, con người được hưởng những hệ quả tốt đẹp từ tác động của Thiên Chúa, nhưng mặt khác là ghé vai gánh vác, làm cộng tác viên với Thiên Chúa trong kế đồ của Ngài. Một nhà tư tưởng đã nói, nội dung của Kitô giáo là News but not views, tức là những tin tức chứ không phải là những quan điểm, nghĩa là những sự kiện cụ thể có lịch sử tính xảy đến trong lịch sử của nhân loại, xảy đến trong diễn trình của vũ trụ, chứ không phải là những suy tư trừu tượng, không phải là một hệ thống tư tưởng nào đó. Đương nhiên, từ những sự kiện, những tin tức như vậy có thể rút ra một quan điểm bất kỳ về nhân sinh, về vũ trụ, nhưng bản chất vẫn không phải là những quan điểm, song vẫn chỉ là những tin tức, những sự kiện mà một mặt, chính là hành động của Thiên Chúa trên lịch sử nhân loại, trên diễn trình của vũ trụ, và mặt khác chính là sự cộng tác của mỗi một con người cụ thể cũng như của toàn thể nhân loại qua từng cộng đồng người cùng với các nền chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa đặc thù, v.v…

Và như vậy, nội dung của Kitô giáo gắn liền một cách chặt chẽ, mật thiết từ trong căn bản với lịch sử nhân loại và với diễn trình của vũ trụ. Và có thể nói rằng, tìm hiểu Kitô giáo là tìm hiểu một lịch sử thánh, mà lịch sử thánh ấy không phải chơi vơi trên một cõi trời nào, nhưng cắm sâu trong lòng lịch sử nhân loại và diễn trình của vũ trụ. Nói rộng ra, có thể nói diễn trình của vũ trụ này cũng như lịch sử của nhân loại, cũng như của từng cộng đồng người và của mỗi một cá nhân đều có tính chất lịch sử thánh. Do đó, cá nhân mỗi người và cộng đoàn tín hữu mới là chính, chứ không phải hệ thống tư tưởng là chính. Mà đã nói con người, hay cộng đoàn tín hữu cắm sâu vào lòng nhân loại và vũ trụ thì, tất nhiên, có tính chất rất hiện thực, và như tôi vừa nói ở trên, có một mặt là lịch sử thánh, và một mặt khác rất phàm trần. Như vậy, nội dung niềm tin của chúng tôi thật ra là một cái gì cụ thể, hiện thực song hành - chữ song hành ở đây cũng quá lỏng lẻo - gắn chặt với hiện thực cụ thể của trần gian này, có quá khứ, có hiện tại, có tương lai; nhưng cũng có thể nói là một vở kịch mà tác giả, đạo diễn chính là Thiên Chúa và mỗi con người, mỗi cộng đoàn, mỗi thụ tạo đều là diễn viên, và diễn viên thì hoàn toàn không thể tự phát, muốn làm chi thì làm.

(Còn tiếp)

- "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.


Thứ Hai, 22 tháng 9, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - Thiên Chúa của Abraham (tiếp theo)

 


ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN

+ THIÊN CHÚA CỦA ABRAHAM (tiếp theo)

Chúng ta biết Công giáo được truyền bá vào đất nước Việt Nam ta hầu hểt đều do các vị thừa sai ngoại quốc, và sau khi nước Pháp đặt nền đô hộ trên đất nước Việt Nam ta thì phần đông, không muốn nói là hầu hết, các Giám mục, linh mục là người Pháp; khi đó chính quyền Pháp là công quyền cho nên hầu hết những người Pháp sang Việt Nam đều tự xưng mình là Công giáo, thậm chí ngôi nhà thờ chính của một Giáo phận, ở một vài địa phương, cũng được gọi là Nhà thờ Nhà nước, từ đó đã tạo nên một sự nhầm lẫn vô cùng tai hại khiến người ta hiểu rằng, cái mà, trước đó gọi là Công giáo, nay gọi là Thiên Chúa giáo là một quốc giáo của người Tây phương áp đặt với ý đồ bắt nó trở thành quốc giáo của Việt Nam. Điều ấy hoàn toàn không đúng.

Catholique là phổ quát, là một tôn giáo thực hiện chính những lời Thiên Chúa đã hứa với Tổ phụ Abraham, đó là ơn Cứu độ được ban xuống cho tất cả mọi người ở trần gian này, không phân biệt giống nòi, chủng tộc, màu da, ngôn ngữ, văn hóa, chính trị, v.v..., chứ không phải là quốc giáo của bất cứ một quốc gia nào. Chỉ có một tôn giáo duy nhất mà vị thủ lĩnh chính là vị Giáo hoàng, hay đúng hơn là vị Giáo tông, thừa kế vị Tông đồ đầu tiên đã được chính Đức Giêsu Kitô đặt ra như là người cầm đầu, có thể nói ở một dạng nhất định, có tính cách huynh trưởng của cộng đoàn mười hai Tông đồ. Đến nay ngôn từ đã trở nên thông dụng, riêng tôi nghĩ cả hai chữ, Thiên Chúa giáo và Công giáo đều không chính xác và có thể gây ngộ nhận. Trước mắt không biết có thể tìm ra được một từ ngữ nào khác sát nghĩa và thuận lợi để phá tan những ngộ nhận đáng tiếc do những tình cờ lịch sử gây ra hay không.

Như vậy, đến đây ta có thể nói là đã xác định rõ cái vị trí của tổ chức mà hiện được gọi bằng cái tên Thiên Chúa giáo hoặc Công giáo vừa trong toàn bộ những quan niệm triết học về vấn đề hữu thể, vừa trong toàn bộ các tôn giáo phát xuất từ niềm tin rằng chính tình yêu Thiên Chúa đã mạc khải, tức là vén màn lên bày tỏ nỗi niềm của mình ra, truyền đạt ý định và giao phó trọng trách, đồng thời cũng hứa hẹn những ân sủng và ngày thành tựu huy hoàng cho nhân loại, qua trung gian một nhóm người được lựa chọn, với điều kiện nhóm người ấy mở lòng ra đón nhận, thuận tình cộng tác với kế đồ của Ngài.

Nhóm người ấy là từ Tổ phụ Abraham cho đến khi Giêsu Nazareth ra đời, được hạn chế vào một dân tộc cùng một huyết thống, đó là dân tộc Do Thái. Nhưng từ khi Giêsu Nazareth ra đời, dân tộc được lựa chọn ấy đã được nới rộng, phá vỡ giới hạn của một chủng tộc, của một ngôn ngữ, của một nền văn hóa, để mang tính cách catholique, tức là phổ quát bao trùm toàn thể nhân loại.

Chính vì vậy, đứng về một phương diện nào đó, tôi cũng xin nói, những chữ như Giáo hội Công giáo Pháp, Giáo hội Công giáo Việt Nam, Giáo hội Công giáo Ba Lan, Giáo hội Công giáo nước này nước nọ, thì thực ra không được sát sườn cho lắm, bởi vì không có những Giáo hội Công giáo như thế, mà chỉ có một Giáo hội Công giáo duy nhất tại nước này hay nước kia. Thật ra, nếu nói cho sát, phải nói là Giáo hội Công giáo tại Việt Nam, Giáo hội Công giáo tại Pháp, v.v..., chứ không nên nói Giáo hội Công giáo Việt Nam, Giáo hội Công giáo Pháp, v.v... Bởi vì, tôi xin nói, ví dụ Đức Giáo hoàng có thể giao cho Đức Giám mục Cần Thơ làm chủ chăn Giáo hội Campuchia, Đức giáo hoàng cũng có thể giao cho Đức giám mục Vinh hoặc Thanh Hóa làm chủ chăn cho các tín hữu của ngài tại Lào. Nếu trường hợp như thế xảy ra thì Đức Giám mục Cần Thơ, Đức Giám mục Vinh, Đức Giám mục Thanh Hóa là giám mục của nước nào? Vậy là không ổn. Đây chỉ là ý kiến riêng của cá nhân tôi, mà trong bầu không khí hữu nghị thân tình, như một lời tâm sự xin bày tỏ với các anh chị, thế thôi.

Như vậy, chúng ta có thể cho rằng đến đây tạm kết thúc được phần thứ nhất trong chương trình những buổi nói chuyện của chúng ta về việc định vị Công giáo hay là Thiên Chúa giáo trong toàn bộ những quan niệm triết học của nhân loại về vấn đề hữu thể và toàn bộ những quan niệm về hữu thần, nói chung và các tôn giáo hữu thần, nói riêng. Và như vậy, chúng ta có thể rút ra được nhận xét căn bản này: Thiên Chúa giáo hay là Công giáo, mà từ nay trở đi, tôi xin được phép dùng chữ Kitô giáo, bởi vì thật ra, bất cứ cuộc ly khai của một nhánh Kitô giáo nào cũng đều gây nên nơi người tín hữu Kitô giáo một nỗi đau xót, cho dẫu việc đó xảy ra do những biến cố lịch sử hoặc do những yêu sách của một số tín hữu nào đó. Tuy nhiên, dù sao thì tự trong căn bản những Iy khai như vậy là trái với tinh thần Kitô giáo và có lẽ cũng chẳc chắn là trái với ước nguyện của Đức Giêsu Kitô.

(Còn tiếp)

- "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.


Chủ Nhật, 21 tháng 9, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - Thiên Chúa của Abraham (tiếp theo)

 


ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN

+ THIÊN CHÚA CỦA ABRAHAM (tiếp theo)

Đến thời kỳ Phục Hưng văn hóa, ngay trong lòng Giáo hội Rôma, mà đại đa số thuộc về các lãnh địa của đế quốc phương Tây về sau chia ra thành các quốc gia nhỏ, lại có một sự phân tách nữa là các hệ phái Tin Lành. Tại sao vậy? Chẳng giấu gì các bạn, trong thời đó, Giáo hội Rôma có những lúc chìm vào đêm tối quá nặng nề gây nên nỗi bất mãn trong những tâm hồn, không phải là không cao thượng, không phải không có nhiều khía cạnh đáng kính phục, nhưng những con người có thể nói thánh thiện đó đã không chịu nổi những bóng đen đôi khi quá nặng nề của Giáo hội Công giáo Rôma thời đó. Sau một thời gian có những đòi hỏi cải cách sâu xa, căn bản nhưng không được đáp ứng, họ đã ly khai Giáo hội, lập ra những cộng đoàn riêng, không nhìn nhận cơ chế của Giáo hội Rôma nữa. Vì không phải là lúc để trình bày chi tiết, nên chỉ nhắc qua một vài nhóm khởi đầu với những tên tuổi lừng danh, và lừng danh nhất, đó là hai vị: Luther và Calvin, đã lập ra những cộng đoàn ly khai với Giáo hội Công giáo Rôma, mà đôi khi tiếng Việt ta dùng chữ Thệ Phản, nghĩa là phản kháng, do nguyên ngữ tiếng Pháp là Protestant. Như vậy, có thể nói, trong nhánh của Giáo hội Rôma, vào thế kỷ XV, XVI, có tách ra một số nhánh riêng được gọi là Tin Lành hay Thệ Phản.

Cùng thời, còn có một nhánh khác nữa cũng tách riêng, đó là Anh giáo. Do có sự bất đồng với Giáo hoàng Rôma, vua Henry VIII của Anh quốc khởi xướng nên một cuộc ly khai nữa, kéo theo một số tín hữu, nguyên là Công giáo, không còn chấp nhận quyền bính của Giáo hoàng Rôma, nhưng chỉ chấp nhận thẩm quyền của nhà vua Anh quốc. Hiện nay, nữ hoàng Elizabeth [Vào năm 1988 - giờ đây, năm 2014, là vua Charles.], có thể được xem như là kế thừa từ vua Henry VIII chức vị như là lãnh đạo Giáo hội Anh giáo.

Chúng ta sẽ không đi vào chi tiết để biết nội dung của các nhóm Kitô giáo đó khác nhau ở điểm nào, nhưng tôi chỉ xin tóm tắt lại như sau: từ buổi đầu chỉ có một Giáo hội duy nhất tin rằng Đức Kitô là Đấng Cứu thế, với một vị thủ lãnh duy nhất là vị Giám mục thành Rôma, đồng thời là vị Giáo tông chính truyền. Đến thế kỷ X, bắt đầu có sự tách riêng ra thành một nhóm, cũng là Kỉtô giáo nhưng được gọi là Chính Thống giáo; đến thế kỷ XVI lại có thêm sự tách riêng ra các nhánh nhỏ, trong đó gồm có các hệ phái Tin Lành mà nổi bật nhất là hai nhóm, một do Luther và một do Calvin, và một nhóm khác nữa là Anh giáo do vua Henry VIII Anh quốc thành lập. Từ thế kỷ XVII trở đi, thỉnh thoảng vẫn còn xuất ra rất nhiều các nhánh nhỏ vẫn dựa trên nền tảng Kitô giáo, nhưng có cách tổ chức riêng, có một số nội dung đức tin khác biệt nhất định. Số lượng các nhánh như thế có đến hàng ngàn.

Vì vậy. đứng về một phương diện nào đó, dùng chữ Thiên Chúa giáo để chi về người Công giáo, theo tôi nghĩ, không được sát sườn cho lắm. Như tôi đã trình bày ở trên kia, chữ Thiên Chúa giáo, nếu hiểu chữ Thiên Chúa theo kiểu phân biệt Thượng đế là Đấng chí tôn, do lý trí, do kinh nghiệm, do suy luận mà ra, so với Đấng chí tôn mạc khải cho loài người, thì chữ Thiên Chúa giáo có thể áp dụng được cho đông đảo những người hữu thần mà, có thể nói, là miêu duệ của Abraham, trong đó gồm có Do Thái giáo và các hệ phái Kitô giáo. Riêng tôi, tôi tự hỏi tại sao ở Việt Nam ta lại dùng chữ Thiên Chúa giáo để chỉ về một nhóm nhỏ những người tin vào vị Thiên Chúa của Tổ phụ Abraham, và được gọi là Công giáo. Do không phải là người chuyên về phương diện Ngôn ngữ học, nên tôi không dám có ý kiến mà chỉ nghĩ như thế này: cái lý do chủ yếu đầu tiên, đó là chữ Công giáo cũng không được ổn cho lắm. Nếu đứng trên phương diện từ ngữ mà nói, thì chữ công trong Công giáo được hiểu như thể là của Nhà nước; người nào dịch chữ catholique ra như vậy thì quả là rất sai. Catholique không có nghĩa là công. Trong tiếng Pháp, chữ dùng để nói về của công, của Nhà nước là officiel, chứ không phải là chữ catholique. Trong tiếng Pháp, chữ catholique có nghĩa là phổ quát, chứ không phải là công đối lập với tư.

Vậy thì, thật ra, chữ catholique, nếu dịch cho chính xác thì có thể dịch là phổ giáo, như vậy mới đúng. Tiếc thay, vì sự sai lầm trong việc dịch thuật mà gây ra một sự ngộ nhận, đôi khi vô cùng tác hại.

(Còn tiếp)

- "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.

Thứ Bảy, 20 tháng 9, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - Thiên Chúa của Abraham (tiếp theo)

 


ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN

+ THIÊN CHÚA CỦA ABRAHAM (tiếp theo)

Từ Tổ phụ Abraham cho đến triều đại vua Hêrôđê, dưới quyền thống trị của đế quốc Rôma, dân Do Thái được xem như là dân riêng của Thiên Chúa, mà trong kế đồ của Ngài, được Ngài dùng để chuẩn bị cho Đấng Cứu thế vào đời cứu độ nhân gian. Hiện nay, các tín hữu Do Thái giáo vẫn còn đang chờ đợi Đấng Cứu thế đến trần gian, thế nhưng dưới triều đại vua Hêrôđê, trong thời Caipha làm thượng tế và Philatô làm tổng trấn đất Palestine, đã xuất hiện một người tên là Giêsu, sinh sống tại Nazareth, được thiên hạ biết như là con ông phó mộc Giuse và bà Maria. Vị này đã khơi lên một phong trào mà, thoạt nhìn thì không mấy rõ ràng, hầu như có tính cách chính trị, xã hội và hầu như cũng có tính cách một hệ phái tôn giáo nào đó. Con người được gọi là Giêsu Nazareth ấy đã có những lời giảng dạy, những hành động và trong đời Ngài đã có những sự kiện được các môn đệ Ngài ghi lại - sau này tôi sẽ trình bày chi tiết hơn - giúp cho một số kẻ đi theo Ngài tuyên xưng Ngài chính là Đấng Cứu thế mà Thiên Chúa đã hứa. Tức là lời hứa mà Thiên Chúa đã gửi gắm trong dân riêng của Ngài là dân Do Thái, từ Tổ phụ Abraham, đã được thực hiện nơi thân thế và sự nghiệp của Giêsu Nazareth. Những môn đệ ấy tuyên xưng Ngài là Đức Kitô, là Đấng Mêsia, Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong.

Thế là từ đó, trên cái gốc Do Thái, phát tích từ Tổ phụ Abraham, tách ra một nhánh, nhánh Kitô giáo. Như vậy, Kitô giáo là gồm những người:

a) Tin rằng dân Do Thái, miêu duệ của Abraham, là dân riêng được Thiên Chúa tuyển chọn để trao ban lời hứa hẹn, để thiết lập giao ước, để ủy thác trọng trách chuẩn bị cho Đấng Cứu thế ra đời (nội dung này trùng khít với Do Thái giáo).

b) Tin rằng lời hứa hẹn đó, giao ước đó đã được thực hiện với sự sinh ra và với thân thế, sự nghiệp của Đức Giêsu Nazareth, được nhìn nhận, được tuyên xưng, được loan truyền là Đức Kitô Đấng Cứu thế mà Thiên Chúa gửi đến cho nhân loại. Nhóm người rất ít ấy được gọi là Kitô hữu. Sau này chúng ta sẽ trình bày về tổ chức, cơ chế của nhóm tín hữu đó và quá trình lịch sử của họ qua hai mươi thế kỷ.

Tôi xin nói về các hệ phái Kitô giáo:

- Cộng đoàn Kitô hữu trên đây lập thành một Giáo hội duy nhất, khởi đầu là mười hai môn đệ mà vị thủ lãnh chính Đức Giêsu đặt ra, đó là thánh Tông đồ Phêrô mà một vài nét đã được tiểu thuyết hóa trong bộ phim Quo vadis. Đó là Giáo hội Công giáo Rôma. Những vị kế vị Tông đồ Phêrô là các Đức giáo hoàng.

- Sau đó là đến giai đoạn đế quốc Rôma phân làm hai: đế quốc phương Đông với kinh đô được đặt tại thành Constantinople hiện nay, và đế quốc phương Tây, kinh đô là Rôma bây giờ. Vào khoảng thế kỷ X, bắt đầu có một sự phân rẽ và kéo dài mãi cho đến cách nay trên mười năm mới có một sự hòa giải nào đó. Trong cộng đoàn Kitô hữu tách ra hai hệ, một hệ nhìn nhận vị Giám mục thành Rôma là vị thừa kế chính truyền của thánh Phêrô, được gọi là Giáo hoàng, hay đúng hơn, là Giáo tông. Hệ còn lại không chấp nhận tính cách chân truyền duy nhất ấy của vị Giám mục thành Rôma, họ tách rời hẳn ra và hình thành nên một liên hiệp các giáo hội Đông phương gọi chung là Chính Thống giáo [Orthodoxe], không có một vị thủ lãnh như là Giáo hoàng Rôma, mà chỉ có một số vị chủ chăn có tính cách đồng đẳng nào đó, chẳng hạn như Thượng phụ Mátxcơva, Thượng phụ Constantinople, Thượng phụ Athène, v.v... Như thế, nhắc đến chữ Công giáo là nhắc đến nhóm Kitô giáo nhìn nhận quyền thừa kế của vị Giám mục Rôma đồng thời là Đức Giáo tông, do Đức Kitô thiết lập ra. Về phần nhóm các tín hữu không chấp nhận quyền bính duy nhất và tông truyền đó của Giáo hoàng là Giám mục Rôma, thường là họ có mặt tại các vùng địa phương ở mạn Cận Đông như: Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, các nước thuộc liên bang Sô Viết, v.v... và nhóm này được gọi là Chính Thống. Còn những cộng đoàn theo văn hóa này nhưng nhận quyền tối cao của Giám mục Rôma được gọi là Giáo hội Công giáo Đông phương.

(Còn tiếp)

- "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.

Thứ Sáu, 19 tháng 9, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - Thiên Chúa của Abraham

 


ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN

+ THIÊN CHÚA CỦA ABRAHAM

Dân Do Thái được giải thoát khỏi ách nô lệ của vương quốc Ai Cập, dưới sự hướng dẫn của thủ lĩnh Môsê, vượt qua Biển Đỏ, đi vào sa mạc trong 40 năm rồi dần dà chiếm cứ đất Palestine lập thành một vương quốc riêng. Như vậy, trong lịch sử nhân loại, có một dân tộc tự cho mình là dân tộc được lựa chọn bởi Thiên Chúa, được Ngài mạc khải tâm tư tình cảm và ủy thác sứ mạng thực hiện kế đồ của Ngài đối với nhân loại cũng như đối với vũ trụ, đó là dân tộc Do Thái. Hiện nay vẫn có những người Do Thái tin rằng dân tộc mình là như vậy. Riêng với người Kitô giáo, họ cũng nhìn nhận Tổ phụ Abraham và lịch sử của dân tộc Do Thái từ Tổ phụ Abraham cho đến ngày Đức Giêsu Nazareth, được gọi là Kitô, ra đời. Như vậy, Thiên Chúa giáo, tức là Công giáo là một thành phần của miêu duệ thiêng liêng thuộc dòng dõi Abraham, vị Tổ phụ của dân tộc Do Thái.

Đến đây tôi xin lưu ý các bạn điểm này: có lẽ chữ Thiên Chúa là do các vị thừa sai dùng để chỉ Đấng mà nôm na gọi là Ông Trời, còn nói một cách chữ nghĩa là Thượng đế. Tại sao lại phân biệt như vậy? Có thể nói đó là do có sự khác biệt đã từng được Pascal nêu bật lên: Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp, chứ không phải Thiên Chúa của các triết gia.

Chữ Thượng đế là để chỉ Đấng Tạo thành do suy tư triết học mà đạt tới, còn chữ Thiên Chúa là để chỉ vị chí tôn, Đấng chí tôn đã tự mình đi bước trước đến với nhân loại, đi vào lịch sử của nhân loại và của cả vũ trụ khi chọn một dân riêng, giao cho dân đó một trách nhiệm, đồng thời gửi gắm một giao ước để, qua trung gian của dân riêng đó, thực hiện chính sự nghiệp của Ngài và ban bố những điều hứa hẹn được Ngài dành cho toàn thể nhân loại.

Vậy thì, có thể nói, chữ Thiên Chúa giáo mà hiện chúng ta đang dùng để chỉ cộng đoàn mà trước kia gọi là Công giáo e có lẽ quá rộng đối với cộng đoàn ấy. Tôi nghĩ rằng, nên dùng chữ Thiên Chúa giáo để chỉ tất cả những ai tin vào sự mạc khải đặc biệt ấy của Đấng tối cao đã ngỏ lời với cụ Abraham là Tổ phụ của dân Do Thái và cũng được cả các dân tộc Hồi giáo nhận là Tổ phụ. Nếu thế thì khi nói đến Thiên Chúa giáo, phải kể đến:

- Trước hết là Do Thái giáo.
- Rồi Hồi giáo mà Đấng sáng lập là Tiên tri Mahômét.
- Kế đến là các hệ Kitô giáo, gồm có:
. Công giáo Rôma,
. Chính Thống,
. Các hệ phái Tin Lành (hay Thệ Phản), Anh giáo.

Cả người Do Thái và các hệ Kitô giáo, đều nhìn nhận dân Do Thái là dân được Chúa chọn để mạc khải tâm tư tình cảm và kế đồ của Ngài. Họ khác với những người hữu thần không tin vào sự mạc khải có tính cách lựa chọn riêng ấy, nhưng chỉ tin vào một Đấng tối cao do con người dựa theo suy diễn và kinh nghiệm mà kết luận ra, mà tôi nghĩ tiêu biểu nhất có thể kể ra là Voltaire, đến mức hữu thần nhưng không tôn giáo.

(Còn tiếp)

- Trích trong tác phẩm "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.

Thứ Năm, 18 tháng 9, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - Đức Giêsu Kitô trong lịch sử (tiếp theo)

 


ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN

+ ĐỨC GIÊSU KITÔ TRONG LỊCH SỬ (tiếp theo)
(Phần này do Lm. Trăng Thập Tự tóm lược theo trí nhớ về nội dung cuộn băng cassette số 1 bị thất lạc)

3. Một tôn giáo của lịch sử

Tính lịch sử của Kitô giáo không phải chỉ bắt đầu từ sự kiện Đức Giêsu Kitô chết và sống lại mà đã khởi đi từ những bước đầu của Cựu ước.

Cùng thời với những huyền sử về quốc tổ Hùng Vương của ta, vào khoảng năm 1800 trước Công nguyên, tổ phụ Abraham của dân Do Thái đã nghe được tiếng gọi của Thiên Chúa, trải qua những bi kịch và hy vọng dệt nên lịch sử gia đình và dân tộc ông sau này.

Bi kịch ở chỗ dù đã 75 tuổi rồi, nhưng nhà phú hộ vẫn chưa có con nối dòng. Thiên Chúa hứa sẽ cho gia tộc ông đông đúc như sao trời cát biển. Ông chờ đợi mỏi mòn hơn 20 năm chẳng thấy gì nhưng vẫn vững tin vào Chúa, không nản lòng. Mãi đến 25 năm sau, khi ông đã 100 tuổi tròn, cậu ấm mới chào đời. Thật hết sức vui mừng. Thế nhưng khi cậu bé vừa biết giúp việc nhà, lại xảy ra một thử thách còn nặng nề hơn nữa: Thiên Chúa yêu cầu ông giết cậu bé để tế lễ cho Ngài.

Abraham lẳng lặng làm theo.

"Abraham lấy củi dùng để đốt lễ toàn thiêu đặt lên vai Isaac, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi. Isaac thưa với cha là ông Abraham: "Cha!" ông Abraham đáp: "Cha đây con!" Cậu nói: "Có lửa, có củi đây, còn chiên để làm lễ toàn thiêu đâu?" ông Abraham đáp: "Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ liệu, con ạ." Rồi cả hai cùng đi. Tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Abraham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói Isaac con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Rồi ông Abraham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình. Nhưng sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông: “Abraham! Abraham!" ông thưa: “Dạ, con đây!" Người nói: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ. đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!" ông Abraham ngước mắt lên nhìn, thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. ông Abraham liền đi bắt con cừu ẩy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình." (St 22,6-13).

Lòng tin của Abraham thật kỳ diệu. Thiên Chúa ban phúc lành cho dòng dõi ông tăng trưởng như lời đã hứa. Isaac sinh hai người con trai: Esau là tổ phụ các dân tộc Ả Rập, còn Giacóp được Thiên Chúa đổi tên là Israel và là tổ phụ dân Israel, hay dân Do Thái.

Ông Giacóp/Israel có 12 người con trai, ông cưng yêu cậu con áp út là Giuse đến độ cậu bị các anh đem bán cho lái buôn và người này đã bán cậu cho một quan chức cấp cao của nước Ai Cập. Cậu bị vu oan giở trò với vợ của chủ và bị bỏ tù. Nhờ ơn Chúa, cậu đã giải mộng cho Pharaoh tức nhà vua Ai Cập biết được mệnh trời. Giuse trở thành thủ tướng Ai Cập, giúp vua điều hành việc nước. Giữa lúc khắp châu Phi và Trung Đông mất mùa nhiều năm liên tục, Ai Cập trở nên phồn thịnh. Các con của ông Giacóp từ Canaan cũng sang Ai Cập mua lương thực. Họ được Giuse tiếp đón và tạo điều kiện để đưa cả gia tộc sang Ai Cập lập nghiệp.

Thế rồi 400 năm sau, khi con cháu ông Giacóp đã phát triển thành chủng tộc Hipri thì hoàn cảnh đảo ngược. Người ta đã quên mất công ơn của ông Giuse, chỉ nhìn thấy chủng tộc Hipri như một mối họa phải tận diệt. Những trẻ nam sơ sinh người Hipri bị nhận nước chết. Thế nhưng môt đứa bé bị bỏ trôi sông trong một cái thúng đã được công chúa nhà Pharaoh vớt lên và nhận làm con nuôi. Nó được đặt tên là Môsê rồi được đào tạo trong hoàng cung để trở thành thủ lĩnh. Năm 40 tuổi, do bênh vực người đồng chủng, Môsê bị Pharaoh truy nã, chạy trốn đến phía bắc Hồng Hải, lập gia đình và chăn cừu cho bố vợ tới năm ông 80 tuổi… Lâm vào cảnh nô lệ, dân Hipri bị đàn áp khốc liệt. Họ nài xin Thiên Chúa thương xót và Thiên Chúa đã dùng Môsê để giải thoát cho họ.

"1 Bấy giờ ông Môsê đang chăn chiên cho bố vợ là Gítrô, tư tế Mađian. ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khôrếp. 2Thiên sứ của Đức Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. ông Môsê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi. 3Ông tự bảo: "Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây lại không cháy rụi?" 4Đức Chúa thấy ông lại xem, thì từ giữa bụi cây Thiên Chúa gọi ông: “Môsê! Môsê!" Ông thưa: "Dạ, tôi đây!" 5Ngàí phán: "Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh." 6Ngài lại phán: "Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp." Ông Môsê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa.

7Đức Chúa phán: "Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai Cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. 8Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai Cập và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật, xứ sở của người Canaan, Khết, Emôri, Pơrizzi, Khivi và Giơvút.

9Giờ đây, tiếng rên xiết của con cái Israel đã thấu tới Ta; Ta cũng đã thấy cảnh áp bức chúng phải chịu vì người Ai Cập. 10Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pharaoh để đưa dân Ta là con cái Israel ra khỏi Ai Cập.” (Xh 3,1-10)".

Vâng lệnh Chúa, ông Môsê xin gặp nhà vua, trình bày nguyện vọng cho dân Hipri rời Ai Cập ra đi. Nhà vua tức giận, gia tăng đàn áp. Thiên Chúa cảnh cáo bằng nhiều thiên tai, địa họa. Gặp tai nạn, nhà vua hứa thả cho dân đi, nhưng vừa tai qua nạn khỏi, ông lại tráo trở rút lời. Cuối cùng, Thiên Chúa định sẵn ngày lên đường cho dân chúng và quyết liệt giáng họa, mọi con trai đầu lòng của người Ai Cập và mọi con vật đực đầu lòng bị giết chết trong một đêm. Nhà vua liền yêu cầu Môsê phải cho dân Hipri rời Ai Cập ngay trong đêm ấy...

Thiên Chúa cho một cột mây lửa dẫn đường. Thay vì nẻo đường thông thường, cột mây lửa đưa dân tới một eo biển. Được báo tin, Pharaoh đổi ý. Ông cho binh mã đuổi theo bắt lại đoàn nô lệ. Dân chúng hoảng hốt, kêu la inh ỏi.

"15Đức Chúa phán với ông Môsê: “Có gì mà phải kêu cứu Ta? Hãy bảo con cái Israel cứ nhổ trại.

16Phần ngươi. cầm gậy lên, giơ tay trên mặt biển, rẽ nước ra cho có lối đi khô ráo ngay giữa lòng biển, để con cái Israel đi vào. 17Còn Ta, Ta sẽ làm cho lòng người Ai Cập ra chai đá. Chúng sẽ tiến vào theo sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ được vẻ vang hiển hách khi đánh bại Pharaoh cùng toàn thể quân lực, chiến xa và ky binh của vua ấy. 18Người Ai Cập sẽ biết rằng chính Ta là Đức Chúa, khi Ta được vẻ vang hiển hách vì đã đánh bại Pharaoh cùng chiến xa và kỵ binh của vua ấy: (Xh 14,15-18)".

Nước biển rẽ đôi cho dân chúng đi qua, có đám mây lửa ngăn không cho ngựa xe của Pharaoh đuổi kịp. Dân chúng vừa lên bờ xong thì nước biển ập lại, chôn vùi trọn đám binh mã nhà vua.

Đó không phải là anh hùng ca nhưng là lịch sử. Ngày nay tại đất nước Israel nội dung này vẫn tiếp tục được giảng dạy trong môn lịch sử. Ngày lên đường rời khỏi Ai Cập được cử hành không những như một đại lễ tôn giáo mà còn như ngày lập quốc Do Thái.

(Tới đây hết phần lược tóm theo ký ức của người biên tập. Xin mời độc giả theo dõi tiếp câu chuyện với những lời chia sẻ của chính diễn giả Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương).

(Còn tiếp)

- Trích trong tác phẩm "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.

Thứ Tư, 17 tháng 9, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - Đức Giêsu Kitô trong lịch sử (tiếp theo)

 


ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN

+ ĐỨC GIÊSU KITÔ TRONG LỊCH SỬ (tiếp theo)
(Phần này do Lm. Trăng Thập Tự tóm lược theo trí nhớ về nội dung cuộn băng cassette số 1 bị thất lạc)

2. Cựu ước và Tân ước

Những đoạn sách Đức Giêsu nhắc đến và diễn giải cho môn đệ là trích từ bộ Kinh thánh của người Do Thái. Bộ Kinh thánh này là nền tảng giáo lý của Do Thái giáo, ghi lại nguồn gốc của vũ trụ và loài người, lý giải nguyên nhân của sự dữ, đau khổ và cái chết, ghi lại lịch sử của dân tộc Do Thái, khởi đi từ một người, một gia đình, một gia tộc, rồi gia tộc ấy phát triển thành một chủng tộc, một dân tộc và một quốc gia. Bộ Kinh thánh ấy cũng dạy bổn phận thờ phượng của con người đối với Thiên Chúa, dạy những lời cầu nguyện mẫu, dạy về đạo lý làm người, về việc xây dựng một xã hội công bằng và yêu thương. Đặc biệt, Kinh thánh giúp người đọc nhận ra sự can thiệp của Thiên Chúa trên lịch sử, lịch sử nhân loại và toàn vũ trụ, từ khởi đầu cho đến cùng tận. Bộ Kinh thánh của Do Thái giáo sẽ là phần Cựu ước trong bộ Kinh thánh của Kitô giáo.

40 ngày sau khi từ cõi chết trỗi dậy, Chúa Giêsu từ giã các môn đệ, về với Thiên Chúa là Cha Ngài. Mười ngày sau đó, Ngài gửi Thánh Thần đến trên đoàn môn đệ để giúp họ khởi sự công cuộc loan báo ơn cứu rỗi. Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Thứ Ba. Ngài đưa các môn đệ của Chúa Giêsu vào sự thật toàn diện: Thiên Chúa duy nhất cũng là Thiên Chúa Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Sự kiện Chúa Thánh Thần tác động mãnh liệt trên tâm hồn các môn đệ, đẩy họ lên đường rao giảng, được xem là ngày khai sinh của Giáo hội Chúa.

Nội dung những lời rao giảng của các môn đệ Chúa được gom thành nguồn tài liệu tiếp nối bộ Cựu ước và được gọi là Tân ước. Bộ Tân ước gồm 27 tác phẩm: Bốn quyển đầu có nội dung gần như song song, cùng kể về cuộc đời và lời dạy của Chúa Giêsu. Quyển thứ năm ghi lại các hoạt động truyền giáo trong khoảng ba mươi năm đầu của Giáo hội. Tiếp đến là những lá thư giáo huấn của Tông đồ Phaolô và một số Tông đồ khác. Cuối cùng là sách Khải huyền, vẽ nên viễn cảnh ngày Thiên Chúa hoàn tất lịch sử này, biến đối vũ trụ này thành vũ trụ mới. Phần Tân ước chỉ dày khoảng 1/3 phần Cựu ước.

Bộ Kinh thánh là tài liệu căn bản để ta tìm hiểu về Kitô giáo. Thế nhưng cụ Nguyễn Khắc Dương không đi vào từng phần của bộ sách. Tại giai đoạn mở đầu, cụ chỉ giới thiệu bố cục của bộ sách. Do chỉ có ba mươi tiết học, cụ đã chọn một lộ trình riêng, vừa theo lộ trình lịch sử, vừa đi từ dễ đến khó, từ cụ thể đến trừu tượng, để giúp những người mới tiếp cận lần đầu có thể nắm được một cái nhìn tổng quát, đầy đủ, trong yên ắng, lặng thầm mà lại sâu xa và sống động. Mãi tới những trang cuối, cụ mới quay lại để giúp họ hiểu về mạc khải, tức là về bản chất của bộ Kinh thánh, là Lời đích thực và hằng sống của Thiên Chúa ngỏ với loài người. Kinh thánh không cung cấp những kiến thức nhằm thỏa mãn trí não của con người, mà là lời chân tình của Thiên Chúa là Cha từ ái muốn tỏ bày cho con người biết Ngài yêu thương họ và chờ đợi họ đáp lại tình thương yêu của Ngài.

(Còn tiếp)

- Trích trong tác phẩm "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.

Thứ Ba, 16 tháng 9, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - Đức Giêsu Kitô trong lịch sử

 


ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN

+ ĐỨC GIÊSU KITÔ TRONG LỊCH SỬ
(Phần này do Lm. Trăng Thập Tự tóm lược theo trí nhớ về nội dung cuộn băng cassette số 1 bị thất lạc)

1. Đức Giêsu và nhóm môn đệ

Sau lời chào các học viên và cảm ơn Ban Giám hiệu, diễn giả mở đầu với hình ảnh người Công giáo tuôn về nhà thờ dự lễ ngày Chủ nhật. Diễn tiến thánh lễ lặp lại bữa ăn cuối đời của Chúa Giêsu. Điều ấy dễ hiểu, nhưng còn ngày Chủ nhật, tại sao? Ta biết, ngày nay cả thế giới nghỉ việc hằng tuần vào ngày Chủ nhật. Điều này cũng bắt nguồn từ Kitô giáo.

Đức Giêsu và các môn đệ Ngài đều là người Do Thái. Họ nghỉ việc hằng tuần vào ngày Thứ Bảy (sabát) như những người Do Thái khác. Thế rồi, sau ba năm rao giảng, Ngài bị giới lãnh đạo Do Thái giáo bắt nộp cho toàn quyền Philatô của đế quốc Rôma và gây áp lực đòi ông này kết án giết Ngài trên thập giá. Ngài chết vào một chiều Thứ Sáu mùa hạ. Ngày Thứ Bảy, mọi người nghỉ việc. Sáng hôm sau, đầu tuần, các phụ nữ đến thăm mộ Ngài, thấy ngôi mộ trống. Như lời đã báo trước, Đức Giêsu đã từ cõi chết sống lại. Chính hôm ấy Ngài đã gặp mấy người phụ nữ khi họ từ ngôi mộ quay về, đã gặp ông Phêrô là trưởng nhóm môn đệ và đồng hành với hai môn đệ đang trên đường đi đến làng Emmaus, cùng trò chuyện với họ.

Đức Giêsu đã sống lại từ cõi chết vào ngày đầu tuần. Từ đó, các môn đệ Ngài họp nhau cầu nguyện vào ngày đầu tuần thay vì ngày Thứ Bảy. Họ gọi ngày đầu tuần là ngày của Chúa, là Chúa nhật hay Chủ nhật là vì thế.

Đây là câu chuyện hai môn đệ trên đường đi Emmaus, "15Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ. 16Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Ngài. 17Ngài hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?" Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu. 18Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời: "Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay." 19Đức Giêsu hỏi: "Chuyện gì vậy?" Họ thưa: "Chuyện ông Giêsu Na-da-rét. Ngài là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. 20Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Ngài để Ngài bị án tử hình, và đã đóng đinh Ngài vào thập giá. 21Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Ngài là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. 22Thật ra. cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc.

Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, 23không thấy xác Ngài đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Ngài vẫn sống. 24Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Ngài thì họ không thấy.”

25Bấy giờ Đức Giêsu nói với hai ông rằng: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! 26Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Ngài sao? 27Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Ngài giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Ngài trong tất cả Sách Thánh." (Sách Tin mừng Luca 24,15-25). Rồi hai người về lại với các bạn tại Giêrusalem. Cả nhóm đang nói chuyện thì Đức Giêsu xuất hiện, chúc bình an cho họ. Họ sợ hãi, không thể nào tin đó là Thầy mình. Đức Giêsu đã trích dẫn Kinh thánh, giải thích cho họ hiểu Kinh thánh đã báo trước rằng Đấng Cứu Thế phải bị giết chết rồi từ trong cõi chết sống lại.

(Còn tiếp)

- Trích trong tác phẩm "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.

Thứ Hai, 15 tháng 9, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương




Tu đoàn Anh Em Bác Ái Chúa Ki-tô Tôi Tớ
Giáo Phận Phan Thiết

THÔNG BÁO
VỀ VIỆC XUẤT BẢN CUỐN SÁCH MỚI
CỦA THẦY STÊPHANÔ NGUYỄN KHẮC DƯƠNG

Kính thưa quý vị!

Mấy mươi năm qua, chúng ta có thể đã nghe nói đến những bài giảng giàu trí tuệ và sinh động của Thầy Stêphanô Nguyễn Khắc Dương (bút danh Thế Tâm) tại Trường Viết văn Nguyễn Du cũng như tại các Đại chủng viện, Học viện Dòng tu và mong có ngày được trực tiếp đọc những bài giảng đó. Tuy vậy, những bài giảng với phong cách “thoải mái” của Thầy Nguyễn Khắc Dương vốn được ghi âm qua hàng chục cuốn băng, phải rất công phu mới chuyển đổi thành văn bản; đó là chưa kể những bài giảng bị thất lạc do sự thay đổi nơi cư trú liên tục của Thầy Stêphanô.

Thật là may mắn đúng vào dịp mừng Thầy thọ 100 tuổi, những bài giảng tại Trường Viết văn Nguyễn Du năm 1988 (giai đoạn nhà nghiên cứu – dịch giả Hoàng Ngọc Hiến làm Hiệu trưởng), sau một thời gian tưởng như “mất tích”, đã được tìm thấy và biên soạn thành cuốn “ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN”. Sách dày 412 trang, được Nhà xuất bản Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh cấp giấy phép in ấn số: 208/QĐ-THTPHCM-2025. Sau đây là “Lời giới thiệu” tóm tắt được in ở Trang bìa cuốn sách:

Bộ Kinh thánh là tài liệu căn bản để ta tìm hiểu về Kitô giáo. Thế nhưng cụ Nguyễn Khắc Dương không đi vào từng phần của bộ sách. Do chỉ có ba mươi tiết học, cụ đã chọn một lộ trình riêng, nói được là vừa theo lộ trình lịch sử, vừa đi từ dễ đến khó, từ cụ thể đến trừu tượng, để giúp những người mới tiếp cận lần đầu có thể nắm được một cái nhìn tổng quát, đầy đủ, trong yên ắng, lặng thầm mà lại sâu xa và sống động. Mãi tới những trang cuối, cụ mới quay lại để giúp họ hiểu về mạc khải, tức là về bản chất của bộ Kinh thánh, là Lời đích thực và hằng sống của Thiên Chúa ngỏ với loài người. Kinh thánh không cung cấp những kiến thức nhằm thỏa mãn trí não của con người nhưng là lời chân tình của Thiên Chúa là Cha từ ái muốn tỏ bày cho con người biết Ngài yêu thương họ và chờ đợi họ đáp lại tình thương yêu của Ngài.

Các chia sẻ của Thầy Thế Tâm luôn đầy những suy tư sâu sắc, độc đáo của một triết gia Kitô giáo, một bậc tôn sư đã hòa hồn Việt vào thần học mới, và để lại cho cộng đồng Dân Chúa Việt Nam những suy tư, cảm nhận và diễn tả nhuần nhuyễn không những các trí thức trong và ngoài Công giáo mà cả nhiều tu sĩ và linh mục cũng nên biết và cần biết. (Lm. Trăng Thập Tự).

Gần mười năm qua, Hành giả Nguyễn Khắc Dương đã chọn Tu đoàn làm nơi “dừng bước” để an dưỡng tuổi già. Với phúc duyên này và được sự ủy quyền của Thầy, chúng tôi viết THÔNG BÁO này để cộng đồng Kitô hữu và bà con, cùng bạn đọc có thể đăng ký đặt mua sách nếu có nhu cầu “Hiểu Đạo Chúa” hơn.

Giá bìa: 150 ngàn/cuốn (Đã bao gồm cước phí gửi sách tận nhà người mua). Do vậy, mong bạn đọc vui lòng đăng ký, ghi rõ mua bao nhiêu cuốn, tên, địa chỉ nhận sách, số điện thoại và gửi tiền vào tài khoản của Tu Đoàn:

Tu Đoàn Bác Ái Chúa Kitô Tôi Tớ
Số Tài khoản: 050127153636
Ngân hàng Sacombank, Lagi, Bình Thuận
+ Địa chỉ Tu đoàn: Kp. 1, TT Tân nghĩa, H. Hàm Tân, T. Bình Thuận.
+ Điện thoại liên lạc: 0368484115 - 0395201312.
+ Địa chỉ Email: bacaichuakitotoito@gmail.com
Xin chân thành cảm ơn và kính chúc quý vị luôn an lành, hạnh phúc.
______________

MỤC LỤC SACH
Lời giới thiệu ............................................................... 7
ĐỨC GIÊSU KITÔ TRONG LỊCH SỬ ................... 13
1. Đức Giêsu và nhóm môn đệ .................................. 13
2. Cựu ước và Tân ước .............................................. 15
3. Một tôn giáo của lịch sử ........................................ 17
THIÊN CHÚA CỦA ABRAHAM ............................ 23
1. Người tín hữu Kitô ................................................ 34
2. Tương giao liên ngã vị .......................................... 38
3. Lịch sử thánh ......................................................... 50
4. Tội lỗi và ơn cứu chuộc ......................................... 62
16 THẾ KỶ ĐẦU CỦA KITÔ GIÁO ....................... 75
1. Lễ Ngũ tuần ........................................................... 75
2. Từ nhóm mười hai đến nếp sống mới ................... 77
3. Hình thành tổ chức ................................................ 82
4. Công cuộc của Thiên Chúa và là mầu nhiệm ........ 90
5. Từ thời các sứ đồ cho đến năm 311: những cuộc bách
hại .............................................................................. 97
6. Hội thánh thấm nhập vào đời sống xã hội ........... 100
7. Trong thân phận lữ hành ..................................... 103
8. Từ năm 900 đến năm 1000: thời kỳ đen tối ........ 106
9. Ơn gọi nên thánh ................................................. 108
10. Hội thánh và Quốc gia ....................................... 110
11. Năm 1054: đoạn giao giữa Hội thánh Đông phương
và Hội thánh Tây phương ........................................ 113
12. Thế kỷ XII và XIII: thời kỳ hồng phúc ............. 115
13. … Thời kỳ điều tra ............................................ 116
14. Lời xin lỗi không thể thiếu ................................ 118
15. Cuộc cải cách bên trong .................................... 119
16. Năm 1300-1500: tiếp tục thời kỳ Trung cổ ....... 120
17. Thế kỷ 16: những con đường phân ly ............... 122
18. Điểm giống và khác nhau giữa Công giáo và Tin
Lành ......................................................................... 124
GIÁO HỘI HỮU HÌNH VÀ VÔ HÌNH ................. 130
1. Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người ...... 145
2. Việc thờ phượng Thiên Chúa theo Kitô giáo ...... 162
3. Từ tâm tình thờ phượng đến đời sống luân lý ..... 175
4. Những dấu chỉ bí tích .......................................... 191
5. Bảy phép bí tích ................................................... 197
6. Giáo hội Công giáo là Bí tích của Thiên Chúa ... 212
7. Bí tích Thánh Thể ................................................ 223
NHỮNG TƯ TƯỞNG CHỊU ẢNH HƯỞNG KITÔ GIÁO .. 237
1. Nguồn gốc vũ trụ ................................................. 251
2. Vô thần và phiếm thần ......................................... 257
3. Thiên Chúa của Kinh thánh ................................. 260
4. Bóng tối và ánh sáng ........................................... 275
CON ĐƯỜNG TÌNH YÊU ..................................... 291
1. Triết lý tu thân ..................................................... 291
2. Thiên đàng là sống trong Thiên Chúa Tình Yêu . 294
3. Tự do và hỏa ngục ............................................... 297
4. Yêu đến quên mình .............................................. 301
HIỆP NHẤT VỚI THIÊN CHÚA .......................... 305
1. Thiên Chúa nhất thể tam vị ................................. 305
2. Cảm thức tôn giáo cá nhân trong Kitô giáo ........ 316
3. Người tĩnh tọa và khách lữ hành ......................... 331
4. Đức Maria ............................................................ 336
5. Sự tôn kính các thánh .......................................... 350
6. Bộ Kinh thánh...................................................... 357
LỜI THƯA CUỐI .................................................... 375
TRÒN CUỘC TRĂM NĂM ................................... 381
(Gồm một số bài nói trong lễ Mừng thọ Thầy Stêphanô 95 tuổi tại Giáo phận Hà Tinh năm 2000 và Lễ Mừng sinh nhật Thầy 99 tuổi tại Tu đoàn tháng 9/2024)



Chủ Nhật, 14 tháng 9, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương (tiếp theo)



ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN
Những bài nói chuyện của thầy Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương
vào năm 1988 tại trường Viết văn Nguyễn Du - Hà Nội.

LỜI GIỚI THIỆU của L.M. Trăng Thập Tự (tiếp theo)

Tôi không có may mắn được học triết tại Văn khoa Đà Lạt nhưng lại được thụ giáo với thầy Thế Tâm về linh hạnh Cát Minh, nên hết sức vui mừng khi được dịp bày tỏ lòng biết ơn và kính mến thầy. Hơn nữa, khi tôi viết những dòng này, thầy Thế Tâm đã 99 tuổi, đang an dưỡng tại cộng đoàn Giuse Thợ, Tu Đoàn Anh Em Bác Ái Chúa Kitô Tôi Tớ, xã Tân Hà, huyện Hàm Tân, Bình Thuận. Một số anh em thân hữu chúng tôi ước mong có thể ấn hành nội dung chia sẻ này của thầy Thế Tâm, kịp kính mừng đại thọ 100 tuổi của thấy.

Rất may mắn, chúng tôi được dịch giả Nobertô Thái Văn Hiến nhận lời chuyển thành văn bản. ông Nobertô là cựu tu sinh Dòng Chúa Cứu Thế, đã có một chuỗi ngày học tập và lao động cùng với thầy tại Sông Mao và Lương Sơn huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận, ông lại là một dịch giả Công giáo kỳ cựu. đã dịch toàn tập tác nhổm của Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu và Thánh Nhan, một số sách khác của Dòng Cát Minh Têrêsa và hàng loạt tài liệu của các dòng khác, với những thành phẩm lưu loát, mượt mà và chính xác. Ông đã cặm cụi ngày đêm gần một tháng liền để hoàn thành việc chuyển các tệp tin ghi âm thành văn bản chuẩn xác với cú pháp điêu luyện, đồng thời đóng góp một số cước chú và phụ chú ngoặc vuông hữu ích.

Chỉ tiếc là tài liệu ghi âm bị mất cuộn băng đầu và hai cuộn số 4, số 5. Do hồi cuối thập niên 1980, tôi đã có nghe và chuyển thành văn bản cuộn băng đầu tiên, tôi cố gắng lược tóm phần này theo trí nhớ. Còn phần lịch sử Giáo hội từ thuở đầu tới thế kỷ XVI, sẽ tạm chèn chút đóng góp khác của chúng tôi. Trong lúc vẫn ra công tìm kiếm ba cuộn băng bị thất lạc, hy vọng sự chắp vá này có thể giúp những ai quan tâm muốn biết được những chia sẻ thầy Thế Tâm giới thiệu về Kitô giáo, có thể biết được điều thầy trình bày cách xuyên suốt.

Xin muôn vàn cảm tạ và ngợi khen tình thương quan phòng của Thiên Chúa là Cha toàn năng và chí ái.

Tòa Giám mục Qui Nhơn, 10/5/2024
LM. Trăng Thập Tự

- Chú thích: Hoàng Ngọc Hiến (1930 - 2011), là nhà lý luận phê bình, và là dịch giả văn học Việt Nam đương đại, nguyên hiệu trưởng trường Viết văn Nguyễn Du. Ông sinh ngày 21/7/1930 tại Nam Định, quê quán: Làng Đông Thái, xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Sau năm 1945, ông cùng gia đình đi tản cư, học trường Trung học chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng ở Vinh và được gửi đi đào tạo ở Liên Xô (cũ).

Năm 1959, ông làm nghiên cứu sinh và bảo vệ thành công Tiến sĩ Văn học chuyên ngành lý luận, phê bình tại Đại học Tổng hợp Moskva, Liên Xô (cũ) với luận án về nhà thơ Liên Xô Vladimir Vladimirovich Mayakovsky. Về nước, ông lần lượt giảng dạy ở các trường Đại học Sư phạm Vinh, Đại học Văn hóa, trường Viết văn Nguyễn Du (và ông đã nhiều năm làm Hiệu trưởng ngôi trường này).

Từ năm 1983, ông đã nhiệt thành cổ súy cho sự đổi mới sáng tác văn học ở Việt Nam, phê phán những bất cập trong hệ thống lý luận quan của Zhdanov. Ông là Hội viên Hội nhà văn Việt Nam năm 1987, và là đồng chủ bút với Huỳnh Sanh Thông, Trương Vũ ra tạp chí Vietnam Review (phát hành ở Mỹ trong 2 năm 1996 và 1997). Ông có các học trò là nhà văn, nhà thơ đã thành danh như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Nguyễn Trọng Tạo...

Ông Hoàng Ngọc Hiến mất vì bệnh lúc 23 giờ ngày 24/1/2011 tại bệnh viện Hữu Nghị, Hà Nội.

Vị giáo sư này có câu nói cửa miệng gần như đã trở thành "thương hiệu" của ông: "Cái nước mình nó thế!" Xem thêm: http:// http://trannhuong.top/.../hoang-ngoc-hien-cai-nuoc-minh.... (Vi.Wikipedia)

(Còn tiếp)

- Trích trong tác phẩm "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.

Thứ Bảy, 13 tháng 9, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương



ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN
Những bài nói chuyện của thầy Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương
vào năm 1988 tại trường Viết văn Nguyễn Du - Hà Nội.

LỜI GIỚI THIỆU của L.M. Trăng Thập Tự

Vị Hiệu trưởng trường Viết văn Nguyễn Du khóa III (1986 - 1989) là nhà lý luận phê bình, và là dịch giả văn học Việt Nam đương đại, thầy Hoàng Ngọc Hiến, nhận định rằng các tác giả văn chương Việt Nam muốn chạy đua với quốc tế cần có sự hiểu biết chính xác tối thiểu về Kinh thánh. Ông đề nghị lên cấp trên và được chấp thuận thử nghiệm cho khóa III.

Một học viên khóa III là Đặng Thị Vân Khanh, nhà ở Đà Lạt, lúc ấy đang tìm hiểu Kitô giáo, được thầy Hiệu trưởng giao trách nhiệm về Đà Lạt tìm giảng viên cho giáo trình mới này. Giới chức trong Giáo hội tại Đà Lạt gợi ý Vân Khanh đến mời thầy Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương và thầy đã đồng ý. Thế là lần đầu tiên một giáo trình 30 giờ về nội dung Kinh thánh đã được giảng dạy tại một trường ở bậc Đại học.

Thời gian ấy tôi đang ở tại Học viện Dòng Don Dosco Đà Lạt và đang đánh máy tập Hồi ức giúp thầy Dương, và còn chép những bài thơ của thầy thành một sưu tập, dùng giấy pelure, lót giấy than, chép mạnh tay được ba bản, sau này một nhóm cựu sinh viên của thầy đã in thành tập Tạp vận. Nghe thầy kể lại việc trình bày tại trường Nguyễn Du, tôi đã mạnh dạn xin thầy vui lòng ghi âm lại nội dung khóa học. Với một máy cassette cầm tay, thầy đã ghi lại 14 cuộn băng, cuộn cuối chỉ có một mặt. Tôi đã sao thành hai bộ, sau đó sao thêm một bộ cho một nữ tư Dòng Mến Thánh Giá Nha Trang.

Tôi chỉ mới kịp nghe và chuyển thành văn bản được cuộn băng đầu tiên. Bản văn còn ở dạng chép tay về sau được giao cho thầy Dương cùng với một trong ba bộ băng. Sau đó, suốt bảy năm liền, tôi cùng với anh Giuse Phạm Quốc Anh miệt mài giúp Cha Phêrô Lê Văn Ninh ở Nha Trang biên soạn Chương trình Giáo lý Phổ thông. Xong chương trình giáo lý ít lâu, tôi lên đường đi nước ngoài theo đuổi ơn gọi Dòng Cát Minh Têrêsa. Đến năm 2007 tôi rời nhà Dòng, về nhà tìm lại thì nhiều sách vở của tôi đã bị thất lạc; bản đánh máy quyển hồi ức của thầy Dương và một phần bản thảo chép tay quyển ấy của thầy vẫn còn nhưng bị mất bộ băng mà thầy chia sẻ tại trường Viết văn Nguyễn Du. Bản sao bộ băng của người chị em nữ tu ở Nha Trang cũng bị thất lạc. Còn bộ băng thầy Dương giữ và xấp giấy chép tay phân đầu của nội dung, tôi hỏi thì thầy cũng không nhớ đã giao cho ai.

Đầu năm 2007 đến năm 2014, thầy Thế Tâm thuộc Giáo sư bán nội trú tại Đại chủng viện Vinh Thanh, nay là Đại chủng viện Thánh Phanxicô Xaviê tại Xã Đoài, giáo phận Vinh. Thời gian ấy, Cha GB. Nguyễn Khắc Bá làm giám đốc Đại chủna viện. Vị giám đốc này đã hướng dẫn anh em chủng sinh ghi âm các giáo trình của thầy Thế Tâm. Cuối tháng 5 năm 2023, tôi hỏi thăm, được ngài cho biết LM. Antôn Nguyễn Thanh Tịnh ở Quảng Bình đang giữ các tư liệu này và ngài sẽ nhắn Cha Tịnh chia sẻ cho tôi.

Thứ Sáu, ngày 11 tháng 8 năm 2023, Cha Tịnh gửi cho tôi toàn bộ những tệp tin ghi âm Cha đã sưu tầm và chuyển thành mp3. Danh mục các tài liệu chính yếu gồm các giáo trình triết học được máy điện toán xếp theo thứ tự ABC. Rà đến cuối danh mục, tôi hết sức kinh ngạc và vui mừng đọc thấy điều rất bất ngờ: "Thuyết trình tại Đại học Viết văn Nguyễn Du".

(Còn tiếp)

- Trích trong tác phẩm "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.