Các Trang

Thứ Ba, 30 tháng 12, 2008

Kỷ Niệm Những Mùa Giáng Sinh

Giáng Sinh 90' tại Đài Mẹ Ban Ơn, An Hạ

Giáng Sinh 1995 tại Saigon

Giáng Sinh 1996 tại An Hạ

Giáng Sinh 1998 tại Xưởng Phim Hoạt Hình Pixibox

Giáng Sinh 2005 tại Vườn An Hạ

Thứ Ba, 9 tháng 12, 2008

Vọng


Nguyện xin trời đổ sương mai
Xin mây mưa Đấng Thiên Sai giáng trần
Cứu người khỏi chốn trầm luân.

*

Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2008

Chuyện Người Chèo Thuyền (6)

6.

Mặt trời đã lên rất cao. Dòng sông như cũng đang hâm hấp nóng. Nhân cột thuyền vào gốc cây. Đã đến giờ lo chuyện cơm nước rồi.

Nhân nhen cái bếp lò ở sau khoang thuyền nan, trong lúc đợi củi cháy đượm, Nhân đong mấy chén gạo thơm của thím Ba mới cho hôm trước vào nồi, vò gạo và đặt lên bếp. Nồi cơm dùng để ăn cả ngày, như thế đỡ công nấu nướng. Nhân làm sạch mấy con cá mới câu được, ướp gia vị, rồi quay sang nhặt mớ rau mua sẵn để trong mui. Vậy là đủ cho ngày hôm nay. Nhân nghĩ bụng mà tức cười. Con người ta cứ phải ăn mới sống được. Mà ăn xong thì tiêu hoá, tiêu hoá hết thì lại đói. Đói lại phải ăn. Đôi lúc Nhân nghĩ cái ăn nó như một chiếc thòng lọng mắc sẵn nơi cổ con người. Lắm người vì cái ăn mà sinh ra đủ điều tệ hại. Giá như con người không ăn mà sống thì có tốt hơn không? Nhưng nghĩ lại Nhân thấy mình suy nghĩ như thế không ổn, vì cái gì có sự sống thì cũng phải ăn cả, ngay cái cây kia muốn sống cũng phải hút chất dinh dưỡng cơ mà. Như vậy ăn đâu phải là điều tệ hại, chỉ có ăn ra sao để đừng trở nên tệ hại thôi.

Nồi cơm đã cạn. Mùi gạo thơm bốc lên thật quyến rũ. Cái chuyện ăn cơm cũng lạ nữa. Hễ cứ ăn thịt ăn cá liên tục mấy bữa đã thấy ngán, vậy mà ăn cơm hết tháng này qua năm nọ vẫn cứ thấy ngon. Nhất là cái nồi cơm gạo thơm kia, chỉ ngửi mùi thôi mà đã thấy ngon miệng rồi. Nếu ăn cơm mà cũng ngán như ăn cá ăn thịt thì Nhân nghĩ không biết phải xoay xở ra sao nữa. Khi ấy có lẽ việc ăn uống sẽ trở thành một tai hoạ thật sự. Cho nên cuộc đời có lý lẽ của nó, nếu mình nghĩ đời vô lý là bởi mình chưa tìm ra cái lý của nó đó thôi.

Đang mãi mê suy nghĩ vòng vo thì có tiếng ca cải lương lẫn tiếng máy ghe từ xa vọng lại. Dân Nam bộ rất khoái cải lương, nhất là những người ngày đêm lênh đênh trên sông nước. Lát sau, một chiếc ghe lớn chở đầy cây tràm nước từ miệt dưới chạy lên. Đây là ghe buôn cừ tràm từ miền Tây chở về thị trấn bỏ mối. Thân cây tràm chặt khoảng ba, bốn thước làm cừ, nghe đâu đóng sâu xuống mặt đất, nếu có nước ngập hoài thì bao nhiêu năm cũng không mục. Nhân nghe nói cừ bằng gốc tre già còn tốt hơn cừ tràm nữa. Có những gốc tre tươi đóng xuống đất hằng mấy chục năm mà vẫn y nguyên không hề hấn gì. Nghĩ tới tre, Nhân đâm ra nhớ thôn làng xưa với lũy tre xanh rợp bóng bao quanh. Bước chân tới cổng làng, thấy lũy tre xanh là thấy lòng mình dịu lại. Nhân thấy lũy tre xanh bao quanh làng sao mà giống mái tóc thề của các cô thôn nữ quá. Mái tóc thề của cô thôn nữ làm chàng nhớ lại mái tóc của bà mẹ quê. Bà mẹ quê nào cũng có một thời từng là thôn nữ, cũng đã tung tăng xoã mái tóc thề vờn bay trong gió nội hương đồng. Bây giờ thôn làng vắng dần bóng dáng lũy tre xanh, các cô thôn nữ cũng dần cắt ngắn mái tóc thề. Thôn làng chuyển mình trở thành thị tứ. Các cô thôn nữ tập tành lối sống của thị dân. Thành thị cũng tốt thôi. Nhưng Nhân vẫn cảm thấy buồn buồn, nhất là khi nghe Quang Linh hát bài Chân Quê phổ thơ Nguyễn Bính: "... Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.". Nhân buột miệng lẩm bẩm: "Bay đi quá nhiều chứ ít ỏi gì nữa!".

***

Thứ Sáu, 28 tháng 11, 2008

Phế Tích

Ảnh chụp tại Huế, 06.2008

Ngày xưa rồng phượng kiêu sa,
Bây giờ rồng phượng đã ra điêu tàn.
Công danh chợt đến, chợt tan!
.

Thứ Năm, 20 tháng 11, 2008

Chuyện Người Chèo Thuyền (5)

5.

Uống cạn bình trà thứ nhì, Nhân chào Quan rồi quay trở lại con thuyền tiếp tục chuyến đi. Chàng đẩy nhẹ chiếc thuyền nan ra khỏi cây cầu khỉ, quay mũi thuyền và chèo thuyền về phía trước. Mặt trời đã lên khá cao, nắng sáng loá cả dòng sông trước mặt. Con sông phản chiếu nắng mai ngời lên giữa hai hàng cây xanh ven bờ. Ánh vàng chấp chới trên mặt nước cứ như ai rắc kim tuyến trên dòng sông trông thật đẹp mắt.

Nhân chui vào mui thuyền, móc mồi vào chùm câu giăng rồi thả dài ra sau thuyền. Luôn tiện chàng mở radio. Đài đang phát bản concerto Bốn Mùa của Vivaldi. Tiếng nhạc vang lên vui vẻ. Âm thanh nhún nhảy trên con thuyền của chàng như trên một sàn khiêu vũ. Tiếng nhạc mang lại không khí mùa xuân dù bây giờ đang mùa lập đông. Quả thật âm nhạc có sức mạnh lạ lùng của nó, nó có thể khiến ta vui tưng bừng và cũng có thể làm ta buồn não nuột. Có lẽ âm nhạc đến từ trời cao nên nó kỳ diệu như thế. Nhân tự hỏi thế giới này sẽ ra sao nếu không còn âm nhạc. Rồi chàng tự thấy mình ngớ ngẩn, vì làm gì có chuyện âm nhạc biến mất trên cõi đời này. Bao lâu con người còn sống thì bấy lâu còn âm nhạc. Chỉ có điều, con người làm cho âm nhạc trở nên thanh cao hay biến nó thành cục mịch thôi. Nghe một số chương trình ca nhạc phát trên đài, Nhân có cảm tưởng nhiều người đang làm cho âm nhạc trở thành con vịt què xấu xí chứ không còn là con thiên nga quyến rũ đáng yêu nữa.

Thuyền nan vẫn từ từ tiến lên. Nắng rải vàng khắp dòng sông và khung cảnh hai bên bờ. Rồi một đám mây bay ngang che ánh mặt trời, làm dòng sông dịu mát lại. Bản concerto chuyển sang những cung nhạc buồn. Bốn mùa xuân hạ thu đông nối tiếp nhau được nhà soạn nhạc chuyển tải một cách tài tình. Vui rồi buồn, hết buồn lại vui. Đời người cũng có bốn mùa tiếp nối tương tự như bốn mùa của trời đất. Từ mùa xuân của ngày được sinh ra làm người đến mùa đông của tuổi chuẩn bị qua đời là một bản concerto hùng tráng, vui buồn đan xen nối tiếp nhau. Mỗi người là một nghệ sĩ tài ba dệt nên hoà tấu khúc của đời mình. Làm thế nào để khi tiếng nhạc dứt rồi, âm hưởng của nó vẫn còn đọng lại trong lòng người.

Ánh mặt trời lại chiếu gay gắt. Nhân tấp thuyền vào bóng cây ven bờ, lần tay kéo chùm câu giăng. Mấy con cá dính câu quẫy đuôi dẫy dụa. Nhân gỡ cá cho vào cái lờ nhỏ treo lưng chừng mặt nước bên hông ghe. Có con cá khá lớn vùng vẫy dữ dội. Nhân cẩn thận gỡ nó ra. Thì ra nó tham ăn đến độ tợp luôn một con cá nhỏ khác đã mắc câu, kết cuộc cả hai đều mang hoạ. Không biết con cá nhỏ có báo động gì cho con cá lớn kia không. Hay có báo động mà con kia chẳng thèm để tâm. Nhân không phải là cá nên chàng đành chịu thua không tự trả lời được.

***

Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2008

Chuyện Người Chèo Thuyền (4)

4.

Quan bưng cái khay trà ra. Bộ đồ trà của Quan tráng men màu xanh biếc, trông bắt mắt và sang hơn bộ đồ trà của Nhân, nhưng Nhân vẫn có cảm giác uống trà bằng chén đất nung thú vị hơn. Con người ta thật là rắc rối, mỗi người mỗi sở thích. Nếu ai cũng nhất quyết bảo vệ cho bằng được sở thích của mình thì thật là khó sống.

Quan rót một ít nước sôi tráng bình và hai chén trà cho nóng, rồi cho trà vào pha một bình thật đậm. Hương trà bốc lên rất dễ chịu. Cái hơi nóng bốc lên từ bình trà tạo cảm giác thanh thoát. Cứ lúc nào ngồi trước một bình trà đang bốc hơi là Nhân đều cảm thấy thoải mái như thế. Hèn gì các cụ nhà ta ngày trước ưa đàm đạo bên bàn trà. Các cụ cũng có lúc vui vầy bên chung rượu, nhưng chắc các cụ uống rượu khác với cung cách dô trăm phần trăm mà Nhân vẫn thấy nơi các quán nhậu ngày nay.

Nhân bưng chén trà lên, để hương trà toả vào mũi, rồi nhấp một ngụm nhỏ, cho vị trà đậm đà ngấm dần vào cuống họng. Chàng hỏi bạn:
- Dạo này má cậu có khoẻ không?
- Bà cụ vẫn khoẻ. Thỉnh thoảng nhớ nghề, bà vẫn ngồi đan bàng.

Má Quan đang ở với vợ con Quan trong xóm. Đất vườn nhà Quan khá rộng, do ba má Quan tạo lập đã lâu. Lúc ba Quan còn sống, ông chăm chút cái vườn rất kỹ, mấy gốc cây ăn trái năm nào cũng trĩu cành, rau ráng thì xanh mướt. Sau khi ông qua đời, nhiều cây tàn héo dần. Người ta nói đôi khi cây cối quen hơi người, khi người chăm sóc ra đi, cây cối buồn rũ và chết. Nhân nghĩ có lẽ khi chăm sóc, người đã chuyền cái điện âm dương của mình vào cây như kiểu người ta sạc bình accu. Khi không còn được sạc, cây mất điện âm dương mà chết. Chẳng biết có hợp lý không. Nhưng trong thực tế Nhân đã chứng kiến mấy trường hợp như thế. Con người ta với vạn vật có liên hệ mật thiết với nhau thì đồng cam cộng khổ cũng chẳng có gì lạ.

Hồi trước xóm này chuyên nghề đan bàng. Họ vừa trồng bàng vừa đi mua thêm bàng ở các làng lân cận về để đan giỏ và chiếu. Người ta gọi cái giỏ bàng là cái tụng. Cọng bàng dài và tròn, phải giã cho dập dẹp ra, sau đó phơi khô rồi đan. Đan chiếu bàng thì gọi là đương đệm. Cái âm thanh giã bàng trong đêm nghe trầm bỗng như tiếng đàn t'rưng. Nhất là những đêm sáng trăng, tiếng trầm bỗng vang lên khắp xóm cứ như âm thanh ngày hội. Trước kia, nghe người ta hát: "Tiếng ai giã bàng nhịp nhàng như tiếng lòng tôi", Nhân cứ thắc mắc không biết người ta giã trái bàng ra để làm gì mà giã nhiều thế. Sau này Nhân mới biết là mình lầm to. Thế mới rõ là trong cuộc đời cái mình chưa biết nó mênh mông dường nào.

Tụng và đệm bàng tuy quê mùa dân dã nhưng cũng có lắm điều hay. Đệm bàng nằm rất dễ chịu, trời nóng thì đệm mát mà hút mồ hôi, còn trời lạnh thì nó cũng giữ hơi ấm, không như chiếu nylon, nóng thì càng nóng thêm và lạnh thì càng nghe lạnh tanh. Có vẻ vô tình lắm. Tụng đệm xài hư cứ đem quẳng sau hố rác, ít lâu sau nó mục thành phân, đem bón cây cũng tốt. Tiếc một điều là lúc này người ta ít xài tụng đệm bàng vì trông nó nhà quê quá. Họ khoái xài đồ nylon hơn. Nhưng đồ nylon xài hư rồi thì vất đâu nằm đấy, một hồi đầy cả vườn, không biết lúc nào mới rã ra. Rồi cái nylon cũng làm cho xóm đương đệm phải điêu đứng. Ngày nay chẳng còn mấy ai biết giã bàng đương đệm nữa. Kể cũng tiếc thật.
***

Thứ Tư, 5 tháng 11, 2008

Chuyện Người Chèo Thuyền (3)

3.

Gió thổi hiu hiu thật dễ chịu. Nhân nhanh tay chèo thêm một chút. Mặt trời bắt đầu lên cao, mấy tia nắng chiếu nghiêng nghiêng qua mũi thuyền, vẽ một cái bóng hơi dài xuống mặt nước. Thuyền đi tới đâu, cái bóng theo tới đó. Quả là như hình với bóng, chẳng chịu rời nhau. Có khi nào cái bóng bỏ rơi cái hình không nhỉ, như trong cuốn truyện dịch "Người Mất Bóng" của tác giả nào mà Nhân không nhớ nổi. Cái chuyện cũng ngộ, có một người đồng ý bán bóng mình cho quỷ, rồi từ đó bao nhiêu điều rắc rối xảy ra cho anh ta. Kết thúc như thế nào Nhân cũng quên mất tiêu. Thật là tệ!

Qua hết cánh đồng năn, có một con đê, đúng hơn là một cái bờ đắp chạy xuôi vô đất, vừa làm bờ vừa làm đường đi. Phía bên này bờ, đất cao hơn, người ta phân thành những ô ruộng bàng. Cây bàng mọc san sát, xanh um. Cứ cách một quãng , người ta lại đắp một con bờ để phân lô và để đi lại. Có khói bốc lên từ xa xa. Có khói là có lửa, vì không có lửa làm sao có khói? Và có lửa là có người nhóm lửa, trừ trường hợp thiên lôi đánh bốc lửa mà thôi.

Quả thật, chèo một lúc thì đã thấy có xóm nhà lác đác ở phía sâu trong đất. Chắc họ là chủ mấy đám ruộng bàng kia. Khói bốc lên từ nhà bếp của một căn nhà nọ. Nhân thấy nhiều người lớn con nít lăng xăng trước cửa, nhưng xa quá nên không biết họ đang làm gì. Có khi nào họ lo cưới hỏi hay tang ma gì chăng? Ở nhà quê, hễ nhà nào có việc là y như cả xóm xúm lại, mỗi người một tay, không cần phải nhờ vả mời mọc gì. Kể cũng sướng. Chẳng lúc nào thấy mình đơn độc cả.

Xa hơn một chút, nhà cửa bắt đầu đông đúc hơn. Đất ở vùng này cao dần lên, người ta cất nhà dọc hai bên bờ kênh, làm vườn, trồng rau ráng và cây ăn trái. Hầu như nhà nào cũng có nuôi một ít gà vịt, có nhà còn nuôi thêm heo. Còn chó thì khỏi nói, ở nhà quê mà không nuôi chó thì hình như thiếu một cái gì đó. Không biết có tương tự như ăn phở mà thiếu hành không nữa.

Chèo thêm một đoạn, Nhân tấp thuyền vào một cái bến ghe. Nói là bến cho oai, chứ thật ra đó là một cầu khỉ bắc doi ra bờ kênh. Trên bờ là cái chợ chồm hổm. Bà con cứ tụ lại buôn bán lâu mà thành. Nhân hay ghé vào quán xép góc chợ để uống nước và tán dóc. Uống nhiều đâm ra quen mặt, thành ra khách ruột của chủ quán. Mà tay chủ quán tên Quan này cũng lạ, chịu khó pha cà phê phin, chứ không bán cà phê kho như mấy quán cóc khác. Kể ra uống cà phê kho thì chán thật, người ta bưng ly cà phê pha sẵn ra, có nơi còn cho sẵn đường, khách chỉ việc khuấy lên rồi uống. Chẳng thú vị chút nào cả. Đã vậy mà mấy nhà máy còn chế ra loại cà phê hoà tan, uống vào thấy chẳng giống cà phê chút nào, cũng chẳng thấy phê .

Thấy Nhân, Quan vui vẻ chào:
- Chào cậu, mấy bữa rày tớ trông cậu quá chừng.
- Có chuyện gì không?
- Có chuyện gì đâu. Vài ngày không thấy cậu ghé là tự nhiên thấy nhớ vậy thôi. Có trà ngon mà không có cậu, tớ chẳng biết uống với ai.
- Quán ngày nào cũng đầy khách vô ra vậy mà sao cậu kén thế?
- Cái giống uống trà nó như thế đó. Uống rượu thì dễ kiếm bạn hơn. Thôi để tớ pha ấm trà nhé.

Nhân ngồi xuống cái bàn quen thuộc ở góc quán. Quán dựng bằng cây thật dân dã. Mái lợp lá dừa chằm, còn chung quanh thì thưng bằng lá dừa xé. Cái lá dừa nước coi vậy mà an toàn hơn cây tranh. Nó khó bắt lửa hơn nên cũng đỡ lo hơn. Mà sao sống ở đời cứ phải lo hết chuyện này đến chuyện khác như thế. Không biết mấy con chim ngoài đồng chúng có lo bị cháy tổ không nữa?
***

Thứ Ba, 4 tháng 11, 2008

Bắt Bóng


Thôi rồi cơn cuồng mê
Tâm thần đau tái tê,
Vươn tay ra nắm lấy
Chỉ trống không thu về!

(Trích bài "Quy hồi cố quận")


***

Thứ Hai, 3 tháng 11, 2008

Chuyện Người Chèo Thuyền (2)

2.

Nhân đang mãi mê với tiếng chim hót thì đột nhiên có tiếng máy nổ ở đâu vọng lại. Con chim nhỏ giật mình thôi múa hát, nó nghểnh đầu như để tìm xem tiếng động ấy phát ra từ đâu. Tiếng máy đuôi tôm lớn dần, dội bình bịch trên mặt nước. Con chim đập cánh bay đi, để rớt lại mấy tiếng hót nhí nhảnh cuối cùng.

Nhân tiếc rẻ cầm lấy mái dầm chèo thuyền đi tiếp. Chàng cảm thấy hụt hẫng như người chưa được ăn no bụng, cái cảm giác lưng lửng khiến chàng không được thoải mái. Tiếng máy đuôi tôm càng lúc càng gần. Lát sau, chiếc ghe máy đã xuất hiện phía trước mặt chàng. Đó là một chiếc thuyền buôn chở đầy các lu vại đủ cở lớn nhỏ, đỏ ửng màu đất nung. Chắc nó vừa từ làng Gốm đến. Các thuyền buôn thường mua hàng ở làng Gốm rồi chở về các chợ ven sông rạch để bán. Nước mưa chứa trong lu đất uống ngon tuyệt. Nó vừa ngọt lại vừa mát, uống đến đâu nghe đã khát đến đó. Mà cái đất sét nung thật lạ, nó cũng hợp với cả nước nóng nữa. Nhân có bộ đồ trà con con bằng gốm đỏ ửng, pha trà mộc mà nhâm nhi thì thấy khoái chí hơn cả uống trà bằng những bộ đồ trà tráng men sang trọng khác. Chàng cũng chẳng hiểu vì sao, chắc vì chàng trót mê cái màu đỏ ửng của đất nung tự bao giờ! Mà lạ thật đấy. Cầm chung trà nhỏ bốc khói trên đầu mấy ngón tay, cái cảm giác ấm áp lẫn mịn màn do đất nung mang lại thật dễ chịu. Nâng lên mũi, để cho hương thơm tự nhiên của trà mộc toả vào đầu óc rồi nhâm nhi từng ngụm trà ngọt đắng quả là một cái thú dân dã rẻ tiền mà lại rất đáng giá. Chàng có nghe nói về nghệ thuật trà đạo của người Nhật. Chàng chưa uống trà theo kiểu đó bao giờ, nhưng chàng có cảm giác là nó lễ mễ trịnh trọng quá, chắc là không hợp với tính khí của chàng.

Cái ghe máy chạy ngang qua chiếc thuyền nan của Nhân. Người đàn ông, chắc là chủ ghe, đang cầm lái. Cô vợ thì lúi húi đun nấu gì đó ở cái sàn gỗ cơi ra phía sau đuôi ghe, khói bếp bay dạt theo gió. Cô đang lo bữa sáng, hay bữa trưa? Một thằng nhóc ở trần trùng trục, da rám nắng đang vui vẻ đứng "tè" ở bên hông ghe. Nó nhe hàm răng sún lủn ra cười với Nhân. Chàng giơ tay vẫy chào cả nhà. Ông chồng cũng vẫy tay đáp trả. Người vùng sông nước giản dị thế đó, cứ gặp là giơ tay chào, không cần phải quen biết gì cả. Thích thật.

Tiếng ghe máy xa dần rồi im bặt, trả lại cho Nhân cái yên ả của thiên nhiên. Nhân vừa khua mái dầm vừa âm ử hát. Chàng hát không hay, nhưng mà cứ thích hát rỉ rả suốt ngày như thế. Hình như cứ lúc nào trong lòng chàng có một cái gì đó thì chàng lại âm ử hát. Có lẽ âm nhạc nó tuôn ra từ đáy lòng mình? Nếu mình không để cho nó tuôn ra, thì lòng mình sẽ bị ách tức mất!

Thuyền đi ngang một cánh đồng năn bát ngát. Ở vùng đất phèn, năn mọc xanh rì. Ở xa cứ ngỡ là bàng, nhưng bàng thân cứng hơn và làm được nhiều việc, còn năn thì có vẻ vô dụng hơn. Trên vạt năn rộng mênh mông, lốm đốm nhiều chú cò trắng. Lũ cò đang kiếm ăn. Nghe nói người ta không ăn thịt cò, vì tanh rình. Cò ăn cá thì thịt nó tanh chứ gì. Còn con người? Nhân tự hỏi thịt con người có mùi vị như thế nào nhỉ.
***

Thứ Bảy, 1 tháng 11, 2008

Chuyện Người Chèo Thuyền (1)

1.

Nhân mạnh tay khua mái dầm, chiếc thuyền nan tách ra khỏi bờ, men theo con kênh tẻ, hướng mũi ngược dòng sông Lớn. Phía trời đông, những tia sáng đầu ngày bắt đầu chiếu lên rực rỡ. Cảnh bình minh làm cho tâm hồn Nhân cảm thấy thư thái và hứng khởi. Bình minh bao giờ cũng đẹp và cũng mới. Cứ mỗi sáng thức dậy, trời đất lại trao tặng con người một vận hội mới, cho dù đó là một vận hội với nhiều thuận lợi xuôi chảy hay là một vận hội với bao thử thách trắc trở. Với Nhân, cái hấp dẫn của một ngày mới là ở đó: nó cung cấp cho chàng một chuỗi thời gian tinh khôi để chàng có thể dệt nên tác phẩm độc đáo là cuộc đời của chàng, một cuộc đời sẽ hoà quyện với bao nhiêu cuộc đời khác để làm nên bản hoà tấu vĩ đại của nhân loại, bản hoà tấu có lúc vui tươi bay bổng và cũng có khi sầu thảm ủ ê, nhưng cho dù thế nào đi nữa thì đối với chàng đó vẫn luôn là bản hoà tấu tuyệt vời.

Hôm nay không phải là ngày nước lớn, cũng chưa phải là ngày nước ròng, con kênh êm ả trôi xuôi với vài gợn sóng lăn tăn. Nhân thong thả chèo thuyền nan theo con nước nhẹ. Hai bên bờ thật thanh vắng yên tĩnh. Khu vực này không có dân cư, chỉ có cây cối mọc hoang nên cảnh vật thanh bình đến lạ lùng. Những buổi đầu ngày, Nhân rất thích chèo thuyền ngang những khu vực hoang vắng như thế, nó khiến tâm hồn chàng thoáng đãng và như được hoà nhập vào thiên nhiên. Cái thiên nhiên hoang dã sao mà có sức cuốn hút đến lạ lùng. Nó không nói gì mà sao như có vô vàn tiếng nói cất lên từ khắp nơi. Càng lắng tai nghe, càng để mắt nhìn lại càng nghe thấy nhiều điều mà những lúc bình thường chàng không thể nào nghe thấy được. Thiên nhiên có cách trò chuyện rất đặc biệt, hết sức gần gũi nhưng cũng hết sức đòi hỏi người bạn của nó phải lắng nghe với trọn tấm lòng. Nếu chỉ nhìn bằng mắt và chỉ nghe bằng tai thì dường như thiên nhiên chỉ là một không gian câm lặng mà thôi!

Chiếc thuyền nan vẫn từ từ lướt đi. Thỉnh thoảng mấy cụm lục bình xuôi theo dòng nước va vào mạn thuyền rồi lại dạt ra ngoài. Một vài con cá quẫy nhẹ ở xa xa. Dòng nước cứ êm trôi một cách bình lặng. Đột nhiên có tiếng chim hót lảnh lót ở phía trước. Nhân ngừng chèo lắng nghe. Tiếng chim vang lên như bài ca vui nhộn của đứa trẻ đang hồn nhiên hát. Cái không gian tĩnh mịch bỗng dưng sinh động hẳn lên, tương tự như khoảng sân trường vắng lặng trở nên huyên náo vui tươi khi trẻ con xúm lại nô đùa. Nhân nín thở lắng nghe. Tiếng chim hót tuyệt quá, nó trong veo và lanh lảnh bay toả trong không gian. Dường như tiếng hót cũng nhún nhảy theo điệu múa của con chim thì phải? Nhân buông mái dầm, lấy tay khoát thật nhẹ vào dòng nước để đưa thuyền nhích lần tới lùm cây ven bờ nơi tiếng hót phát ra. Cái cành tràm hơi xà xuống trên mặt nước. Chắc là con chim đang nhảy múa trên đó? Nhân nghiêng đầu nhìn thật kỹ. Đây rồi! Thì ra đó là một chú chim xanh nhỏ xíu. Chú chỉ bằng chừng ngón tay cái thôi. Cái mỏ nhọn cũng bé xíu, cong cong dễ thương, đang há ra hết cỡ để tha hồ ca hát. Chú vừa hát vừa múa, nhảy tưng tưng từ cành này sang cành khác, đôi cánh vỗ vỗ ra chiều khoái chí. Chú múa hát một cách hồn nhiên, không đỏm dáng, không ỏng ẹo mà sao hút cả hồn Nhân vào đó. Nhân im lặng để cho lòng mình bay bổng với chú chim bé xíu đáng ngưỡng mộ kia. Hình như âm nhạc đang tràn ngập không gian chung quanh chàng và đang chiếm ngự tâm hồn chàng.
***

Chủ Nhật, 26 tháng 10, 2008

Loan Tin Mừng


Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ,
loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.
(Mc 16,15)
***

Thứ Năm, 23 tháng 10, 2008

Chuỗi Mân Côi - Mùa Mừng (5)

Mầu nhiệm thứ 5
ĐỨC MA-RI-A ĐƯỢC THƯỞNG TRIỀU THIÊN NƯỚC TRỜI

“Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn !” (Lc 1,49)

Sau khi xác quyết Đức Ma-ri-a đã được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác, Giáo Hội tiếp tục nói lên niềm tin của mình vào địa vị cao trọng mà Thiên Chúa đã dành sẵn cho Mẹ trên thiên quốc : từ ngai tòa vinh hiển, Thiên Chúa đã tặng ban cho Mẹ một tước hiệu cao sang, Ngài đã tôn phong Mẹ làm Nữ Hoàng Thiên Quốc. Kể từ nay ánh hào quang vinh hiển của Mẹ sẽ mãi mãi chói ngời để tôn vinh Đấng đã thực hiện nơi Mẹ biết bao điều huyền diệu. Đức Ma-ri-a – một phụ nữ với cuộc sống bình thường lúc còn tại thế – giờ trở nên một nhân vật phi thường nơi thiên triều. Suốt dòng truyền thống của mình, Giáo Hội đã không ngớt tán dương Mẹ bằng muôn vàn danh hiệu cao cả : Mẹ là Nữ Vương chín phẩm thiên thần, là Cửa Trời rộng mở, là Sao Biển rạng ngời, là Ngai Tòa Đa-vít… Mẹ là Mẹ Hằng Cứu Giúp, là Máng chuyển thông ơn Chúa… Giáo Hội đã dạy con cái mình chạy đến cùng Mẹ để được trợ lực, được an ủi vỗ về.

Mẹ ơi ! Hôm nay con cũng đến nép dưới chân Mẹ để chiêm ngắm các vinh hiển mà Chúa đã ban cho Mẹ. Suốt các mầu nhiệm vừa qua con đã cùng đi với Mẹ để học thưa “Xin vâng” trước lời mời gọi của Thiên Chúa, biết quảng đại nghĩ đến nhu cầu của tha nhân, biết trân trọng cuộc sống khó nghèo, biết vội vã tìm kiếm khi lạc mất Chúa. Con đã cùng với Mẹ theo chân Chúa suốt chặng đường thương khó. Và con cũng đã vui mừng hoan hỉ với Mẹ khi suy ngắm Chúa sống lại và lên trời, đã học mở rộng lòng đón Chúa Thánh Thần ngự xuống… Qua ba mùa Vui, Thương, Mừng, Mẹ đã là người Mẹ dịu hiền sánh bước bên con để chỉ cho con thấy vẻ đẹp muôn màu của tình yêu Thiên Chúa. Mẹ đã cùng con bước đi, tay trong tay, lòng bên lòng. Nhưng giờ đây con xin được quỳ gối trước thánh nhan để xưng tụng Mẹ là Nữ Vương của con. Giờ đây con muốn thân thưa với Mẹ những lời nỉ non của một đứa con bé nhỏ dại khờ.

Mẹ ơi ! Thời gian qua nhanh, tuổi đời chồng chất, cuộc sống với trăm ngàn thử thách, với muôn nỗi khó khăn vẫn vây phủ lấy con. Những sa ngã, những thất bại, những đau đớn ê chề liên tục để lại những vết hằn trên khuôn mặt và trong tâm hồn con. Cuộc sống đòi con phải luôn phấn đấu, phải luôn khởi sự lại. Lắm lúc con thấy mình đang già cỗi đi. Mà quả thật con không còn ở tuổi ươm mơ dệt mộng nữa. Những tờ lịch nối tiếp nhau rơi xuống nhắc con nhớ rằng mình đã trở thành một “người lớn”. Nhưng Mẹ ơi ! Càng lớn, con lại càng thấy mình cần có một Người Mẹ để chạy đến nép vào lòng sau những giờ vất vả lao động ; con cần có một Người Mẹ để giải bày hết những vui buồn, sướng khổ của đời mình. Con cần, nhưng con lại thường quên rằng mình vẫn luôn có sẵn Người Mẹ ấy kề bên. Cuộc sống với bao công việc dồn dập như nước lũ cuốn hồn con trôi mãi, trôi mãi…

Mẹ ơi ! Con cần phải dừng lại để chạy đến bên Mẹ, dù chỉ vài phút vắn vỏi trong cả một ngày sống. Con phải chạy đến bên Mẹ để được Mẹ ủi an, đỡ nâng, khuyến khích. Dù chỉ ít phút thôi nhưng chúng sẽ giúp con rất nhiều trong ngày sống.

Mẹ ơi ! Mẹ là tạo vật toàn bích của Thiên Chúa. Những mệt mỏi của cuộc sống làm con ngại phải tiến lên, ngại phải bơi ngược dòng nước lũ, ngại phải trở về với ngọn nguồn tinh khôi của mình. Con lấm lem bê bết quá nên con ngại phải gột rửa chính mình. Con chỉ muốn sống “vậy vậy” thôi, rồi ra thế nào thì thế ! Nhưng Mẹ ơi ! Mẹ là Nữ Hoàng Thiên Quốc, con là con của Mẹ mà lại đành lòng để mình lấm lem bê bết như thế này ư ?

Không Mẹ ạ ! Con nguyện sẽ theo chân Mẹ, sẽ cố gắng sống xứng đáng là con của Mẹ. Mẹ ơi ! Con muốn thân thưa với Mẹ mỗi ngày : “Thánh Ma-ri-a Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội…” ./.

Thứ Tư, 22 tháng 10, 2008

Chuỗi Mân Côi - Mùa Mừng (4)

Mầu nhiệm thứ 4
THIÊN CHÚA ĐƯA ĐỨC MA-RI-A VỀ TRỜI

“Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc ; tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ…” (Kh 12,6a)

Sau khi Chúa Giê-su về trời, sách Công vụ Tông đồ chỉ đề cập đến Đức Ma-ri-a trong một câu vắn gọn : “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su và với anh em của Đức Giê-su”. Đó là quãng thời gian chờ đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống, còn sau đó Đức Ma-ri-a lại trở về với chỗ đứng thầm lặng của mình trước ngày được thiên sứ truyền tin : các trình thuật kế tiếp không còn nhắc đến Mẹ nữa. Người ta chỉ hình dung ra hình ảnh quen thuộc của Mẹ ở căn nhà Na-da-rét xưa : khiêm nhu, bác ái, khó nghèo , tín thác… Bây giờ, sau lời trối của Chúa Giê-su trên thánh giá, Mẹ đã được Gio-an đưa về nhà ông. Ở đó, cũng theo lời trối của Chúa Giê-su, Mẹ thi hành sứ mạng làm Mẹ Hội Thánh mới khai sinh. Như xưa Mẹ đã ân cần dưỡng dục Chúa Giê-su nơi xóm nghèo Na-da-rét, thì nay hẳn là Mẹ cũng vẫn tiếp tục ân cần săn sóc chỉ dạy những người con thiêng liêng mà Chúa Giê-su đã trối phó cho Mẹ. Các tông đồ, các môn đệ và các tân tòng chắc hẳn đã tìm đến bên Mẹ để học theo những gương mẫu tuyệt vời của Mẹ, để nghe Mẹ thuật lại những kỷ niệm sâu đậm của cuộc đời Chúa Giê-su, để kể cho Mẹ nghe những vui buồn của những lần ra đi rao giảng về Chúa cho dân chúng… Mẹ bận rộn suốt ngày với những người con mà Chúa Thánh Thần gởi đến cho Mẹ. Đã hơn ba mươi năm, bây giờ Mẹ không còn là cô thiếu nữ trẻ trung của thuở truyền tin. Thời gian với những vất vả lao lung, nhất là những muộn phiền của những ngày theo Chúa Giê-su trên đường khổ nạn đã in đậm dấu trên Mẹ. Bây giờ, nơi căn nhà của thánh Gio-an, người ta gặp được một bà mẹ đã chín muồi với thời gian, đã thấm nhuần với ân sủng. Khi đến bên Mẹ người ta thấy lòng mình yên ấm như được gặp chính Đức Giê-su Con Mẹ…

Thế rồi giờ khắc đã điểm, đã đến lúc Thiên Chúa gọi Mẹ về trời chung hưởng hạnh phúc với Con Mẹ. Các thánh sử không ghi lại một câu nào về giờ phút trọng đại này. Mẹ đã đến giữa trần gian và đã từ giã trần gian trong sự âm thầm của một nữ tì khiêm hạ của Thiên Chúa. Các thánh sử không ghi, nhưng Giáo Hội đã kế thừa để nói lên lời tuyên tín của mình : Thiên Chúa đã thực hiện lời kinh “Ngợi khen” mà Mẹ vẫn thường suy gẫm : Ngài đã cất nhắc Mẹ, đã đưa hồn xác Mẹ về trời.

Mẹ ơi ! Mẹ đã được Thiên Chúa đưa lên trời cả hồn lẫn xác. Cái giờ khắc Mẹ bước qua ngưỡng cửa của cuộc đời hữu hạn để tiến vào cõi phúc bất diệt thật là trọng đại. Nơi Mẹ, Thiên Chúa đã làm nổi bật ý nghĩa đích thực của một đời người. Mẹ đã làm gì để được Thiên Chúa ân ban vinh dự cao quý đó ? Mẹ đâu có làm phép lạ, đâu có bôn ba rao giảng, đâu có chịu tử đạo… Không, Mẹ chỉ âm thầm sống trọn vẹn cuộc đời của một nữ tì khiêm hạ : Mẹ chỉ là người vợ dịu hiền đảm đang của thánh Giu-se, là người mẹ ân cần đôn hậu của Chúa Giê-su. Trước mắt người đời, Mẹ chỉ là một phụ nữ nghèo nàn chất phác như muôn vàn phụ nữ nghèo nàn chất phác khác. Thế nhưng trước mắt Thiên Chúa, Mẹ là một thụ tạo hoàn hảo hơn tất cả mọi thụ tạo. Mẹ hoàn hảo không phải vì Mẹ đã làm nên những kỳ công tuyệt vời, mà vì đời Mẹ đã kết tinh toàn bằng Thánh Ý Thiên Chúa. Mẹ đã không từ chối Ngài một điều gì, nên Ngài cũng đã không chối từ Mẹ một điều gì. Ngài đã ban cho Mẹ tất cả vinh quang xứng với lòng trung tín của Mẹ.

Mẹ ơi ! Xin dạy con biết ý nghĩa thâm sâu của việc Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác. Xin cho con hiểu rằng không có cuộc đời nào là vô nghĩa, là tầm thường, là tẻ nhạt buồn chán cả. Tất cả mọi phút giây, mọi công việc của đời con đều có giá trị trường cửu. Khi con nhắm mắt xuôi tay từ giã cõi đời để đi vào vĩnh cửu, chính những phút giây, những công việc đó sẽ lại xuất hiện để nên công trạng hoặc nên lời cáo tội con trước mặt Thiên Chúa. Mẹ ơi ! Xin nhắc con năng suy gẫm đến cái chết của mình để biết noi theo gương sống của Mẹ, hầu khi qua khỏi đời này, con được Chúa cho vào chung hưởng vinh phúc với Ngài trên quê trời ./.

Thứ Ba, 21 tháng 10, 2008

Chuỗi Mân Côi - Mùa Mừng (3)

Mầu nhiệm thứ 3
CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG

“Ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác nhau, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,4)

Vâng theo lời căn dặn của Chúa Giê-su lúc Người lên trời, các tông đồ trở về Giê-ru-sa-lem bắt đầu cuộc tĩnh tâm chờ đón Chúa Thánh Thần. Đức Ma-ri-a, các anh em Chúa Giê-su và một vài phụ nữ cũng đến hiệp lòng với họ. Trong căn phòng quen thuộc, nhóm người ít ỏi đại diện cho Hội Thánh sơ khai dốc hết tâm trí cầu nguyện để chuẩn bị đón nhận Đấng Phù Trợ đã được Thầy hứa ban. Sau những biến động của cuộc Tử Nạn, những hân hoan của ngày Phục Sinh và Lên Trời, đây là những giờ phút lắng đọng của họ. Mỗi phút giây trôi qua đều đậm nét thiêng liêng. Sự linh thiêng đánh động các tâm hồn yêu mến việc thiêng liêng, quy tụ họ lại gần nhau. Số người tham gia cứ tăng dần lên…

Lễ Ngũ Tuần đã đến, thành Giê-ru-sa-lem lại đông nghẹt khách thập phương đổ về mừng lễ. Nơi căn phòng quen thuộc, các tông đồ đang đắm chìm trong tâm tình sốt mến. Bỗng nhiên một cơn gió lạ ùa vào khắp nhà, rồi những ánh sáng diệu kỳ từ đâu tràn tới tựa như những hình lưỡi lửa ngự xuống trên họ : quyền năng Chúa Thánh Thần bao trùm lấy họ. Như các phím đàn bén nhạy được tài năng của người nghệ sĩ thần kỳ chạm đến làm vang lên những âm thanh muôn vẻ, họ hân hoan cất cao những lời kinh cảm tạ.

Khách hành hương lạ lùng về sự việc xảy ra, ùn ùn kéo nhau đến trước phòng hội. “Ơ kìa lạ chưa, tại sao những người này nói được tiếng của nước tôi ?” – mọi người đều bỡ ngỡ hỏi nhau – “Sao lại như thế này nhỉ ? Họ say rượu chăng ?” Phải, họ say. Nhưng không say vì rượu mà vì quyền năng của Chúa Thánh Thần. Lòng họ đang ứ tràn ân phúc đây này, có ai hiểu họ chăng ? Phê-rô khảng khái đứng lên giảng giải. Đám đông hiếu kỳ bu lại đông nghẹt ; họ nghe và lòng họ cũng rộn lên, cũng muốn nhập vào nhóm người đang rộn rã hạnh phúc đó.

Mẹ ơi ! Khi Chúa Thánh Thần ngự xuống, hẳn là Mẹ lại đã hát lên kinh “Ngợi khen”, bài ca mà Mẹ vẫn thường nhẩm đi nhắc lại từ sau chuyến đi lên miền cao viếng thăm nhà bà Ê-li-sa-bét. Vâng, Chúa Thánh Thần mà hơn ba mươi năm trước đã ngự xuống trên Mẹ, nay lại ngự xuống trên những người thân yêu của Con Mẹ. Hơn ai hết, Mẹ hiểu rõ niềm vui đang trào dâng đó.

Mẹ ơi ! Sao mà vui thế, ngày con người được quyền năng Thiên Chúa chạm đến. Khi suy gẫm về mầu nhiệm Hiện Xuống, lòng con cũng đang rộn vui lên. Con vui nhưng khổ nỗi con chẳng biết sống niềm vui này như thế nào cả ! Mẹ ơi, xin Mẹ giúp con trở về tận chốn tĩnh mịch của lòng con để khám phá ra rằng : nơi ấy, Chúa Thánh Thần vẫn hiện diện một cách âm thầm nhưng liên lỉ. Chính Ngài sẽ soi sáng cho con hiểu được những lời Con Mẹ dạy ; chính Ngài sẽ giúp con vượt qua muôn ngàn khó khăn trong cuộc sống ; chính Ngài sẽ thực hiện nơi con điều huyền diệu mà Mẹ đã từng thắc mắc : “Việc ấy xảy ra làm sao được…?” Phải, việc ấy xảy ra làm sao được, cái sứ mạng cưu mang Chúa Giê-su và đem Chúa đến cho những người khác. Sứ mạng ấy lớn lao và cao cả quá, làm sao con dám đón nhận nếu không có Chúa Thánh Thần phù trợ. Con ngu ngơ và nhát đảm lắm, con sẽ sống làm sao với sứ mạng trọng đại đó nếu không có Chúa Thánh Thần là nguồn khôn ngoan và dũng lực của con ?

Mẹ ơi ! Thật là cần thiết, những tác động của Chúa Thánh Thần nơi con. Xin Mẹ dạy con biết chuyên tâm cầu nguyện để được Ngài đổ tràn ân sủng, để niềm hưng phấn của Ngài trào dâng trong con và chuyển lan tới những người chung quanh, để nhờ đó mọi người nhận ra rằng chỉ có niềm vui xuất phát từ Thiên Chúa mới là nguồn vui bền vững đích thật ./.

Thứ Hai, 20 tháng 10, 2008

Chuỗi Mân Côi - Mùa Mừng (2)

Mầu nhiệm thứ 2
CHÚA GIÊ-SU LÊN TRỜI

“Nói xong Người lên trời ngay trước mắt các ông, và có đám mây rước Người lên, khuất mắt các ông” (Cv 1,9)

Những ngày hạnh ngộ qua nhanh. Kể từ lúc sống lại, Chúa Giê-su đã liên tiếp hiện ra với các môn đệ để củng cố lòng tin của họ : Người xóa tan nỗi buồn của Ma-ri-a Mác-đa-la, soi sáng lòng trí tối tăm của hai môn đệ làng Em-mau, quở trách sự nghi ngờ của Tô-ma, trợ lực cho các môn đệ vất vả trên biển hồ Ti-bê-ri-a, trao phó nhiệm vụ cho Si-mon Phê-rô… Các môn đệ mừng rỡ khi gặp lại Thầy, vị Thầy mà họ tưởng rằng cái chết khổ nhục đã vĩnh viễn cướp mất khỏi họ. Nhưng không, Người đã chiến thắng tử thần và đã trở lại. Họ lại được trò chuyện với Người, được cùng ăn cùng uống với Người. Nỗi sợ hãi của họ đã tan biến, nhường chỗ cho niềm vui bất tận đang trào dâng trong lòng. Họ muốn được mãi mãi sống bên cạnh Người…

Thế nhưng đã đến lúc họ phải chia tay Người, đã đến lúc Người trở về với Đấng đã sai phái Người xuống trần gian. Người ân cần dặn dò những lời cuối cùng và chúc lành cho họ. Thế rồi, như một tia sáng nhiệm mầu, Người được cất nhắc lên trời, một đám mây che phủ Người và họ không còn thấy Người nữa.

Dáng Người đã khuất mà họ còn bồi hồi đứng đó, mắt nhìn đăm đăm lên trời. Họ không muốn rời gót. Họ muốn đứng yên đó để kéo dài cái hạnh phúc được sống bên Người. Họ đứng đó như đứng giữa một giấc mơ tuyệt đẹp… Và này, hai thiên sứ hiện đến để đưa họ về với thực tế, để nhắc nhở họ tiếp tục con đường mà Thầy đã dẫn họ bước đi : “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời ? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”.

Mẹ ơi ! Con Mẹ đã lên trời, để lại trong lòng Mẹ và trong lòng các môn đệ biết bao kỷ niệm đậm đà. Nhưng Giê-su Con Mẹ không muốn chỉ để lại cho Mẹ và những kẻ Người thương mến các kỷ niệm đẹp mà thôi, Người còn muốn để lại cho Mẹ và cho tất cả nhân loại một con đường lên trời. Người muốn hẹn gặp tất cả nơi quê hương của Cha Người. Vì thế, không phải bồi hồi đứng ngóng lên trời là đủ, mà còn phải biết noi theo bước Người đã đi.

Mẹ ơi ! Con thường dễ rơi vào nguy cơ “đứng ù lì bất động”. Với những bài nguyện ngắm, những giờ chia sẻ, những nỗ lực được coi là “phi thường” của con, con dễ mắc vào ảo tưởng tự cho rằng mình đã “siêu thoát”, đã “đạt đạo” ! Với những công trạng như thế, con tự cấp phát cho mình một tờ tuyên dương và nghĩ rằng đó sẽ chính là vé vào cửa Nước Trời ! Như một chú chuột bạch leo hoài trên vòng quay luẩn quẩn, con loay hoay mãi mà chẳng thể tiến lên được ; lòng thì cứ tưởng rằng mình đã kề cận Nước Trời lắm rồi ! Con bám chặt vào mặt đất, đưa mắt ngó lên trời và nghĩ rằng mình đã đến nơi ! Thật là một ảo tưởng nguy hại Mẹ ạ ! Xin Mẹ nhắc con trở về thực tế của chính con. Con còn nặng nề lắm với những ràng buộc của thế gian. Thói quen ù lì tự mãn như một vòng xích khóa chặt con lại không cho tiến lên. Càng tự hào về mình bao nhiêu, con càng trở nên ù lì bất động bấy nhiêu ! Con như một chú ếch ngồi dưới đáy giếng nhìn lên trời và tưởng rằng bầu trời cũng chỉ nhỏ hẹp như cái miệng giếng của mình !

Không Mẹ ạ ! Chúa Giê-su đã lên trời, đã tỏ cho con thấy vẻ bao la rộng lớn của Nước Trời. Xin Mẹ cho con biết cái nhỏ bé hữu hạn của con để mỗi ngày một thêm cố gắng bước theo con đường Chúa Giê-su đã mở ra. Xin cho con biết thăng tiến không ngừng, cho đến lúc nào được gặp Người nơi quê trời mới thôi ./.

Chủ Nhật, 19 tháng 10, 2008

Chuỗi Mân Côi - Mùa Mừng (1)

Mầu nhiệm thứ 1
CHÚA GIÊ-SU SỐNG LẠI

“ Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng bị đóng đinh chứ gì ! Người đã chỗi dậy rồi, không còn đây nữa…” (Mc 16,1-14)

Thế là hết ! Vị Thầy khả kính không còn nữa. Viên đá đậy cửa mộ đã khép lại sau lưng họ những ngày tháng tuyệt vời. Kỷ niệm càng đẹp thì nỗi luyến nhớ càng khó nguôi ngoai ! Ma-ri-a Mác-đa-la, Ma-ri-a Cơ-lô-pát và Sa-lô-mê nôn nóng đợi ngày hưu lễ qua đi để tới viếng và xức thuốc thơm lên xác Chúa. Họ muốn ôm ấp mãi hình ảnh của một người Thầy đã đến và đã biến đổi đời họ. Họ muốn có Người ở mãi bên mình… Trời vừa mờ sáng, các bà vội vàng ra mộ, lòng những lo lắng không biết làm sao mở được tảng đá đóng cửa huyệt. Nhưng ơ kìa, lạ chưa, cửa mồ đã mở tung ra. Chuyện gì thế này ? Ma-ri-a Mác-đa-la hoảng hốt chạy về báo tin cho Phê-rô và Gio-an. Họ cùng chạy tới mộ, và họ đã thấy gì ? – Chiếc mồ trống rỗng, cùng với lời thiên sứ báo tin : “Người đã sống lại rồi !”

Thầy đã sống lại thậy ư ? Ma-ri-a Mác-đa-la nửa tin nửa ngờ. Những người kia đã ra về cả mà chị còn ở lại, còn mãi miết khóc thương đến độ Chúa đến bên cạnh chị mà chị vẫn không hay, vẫn tưởng là một người làm vườn nào đó. Nhưng một tiếng gọi quen thuộc vang lên : “Ma-ri-a !” Ôi, tiếng Thầy đây mà ! Vậy là Thầy đã sống lại thật. Chị vui mừng muốn phát điên lên… Chị tức tốc chạy về báo cho bằng hữu biết cái tin sốt dẻo này…

Đang lúc ấy, trên đường đi Em-mau, hai người bộ hành buồn bã cúi đầu rảo bước. Họ muốn trở về quê nhà để nguôi đi nỗi muộn phiền thất vọng. Giê-su Na-da-rét, vị Thầy mà họ tin tưởng sẽ cứu dân tộc khỏi ách nô lệ đã chết rồi. Một số bạn bè nói rằng Người đã sống lại, nhưng làm sao mà tin được chuyện đó !… Và này, Người cũng đến rảo bước bên họ để giải thích cho họ hiểu Kinh Thánh và nhận ra Người đã sống lại thật.

Người cũng hiện ra với nhóm Mười Một để xua tan nỗi nghi ngờ và những âu lo của họ.

Thế còn Đức Ma-ri-a ? – Cả bốn sách Tin Mừng đều không ghi lấy một chữ về Ngài !

Mẹ ơi ! Giê-su Con Mẹ đã sống lại rồi. Chắc chắn cái tin này chỉ sốt dẻo đối với những người hoài nghi thôi. Còn đối với Mẹ, Mẹ đã tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa, Mẹ đã tin tưởng hoàn toàn vào Con Mẹ. Người đã nói rằng Người sẽ sống lại, thì chắc chắn Người sẽ sống lại. Mẹ vẫn sẵn sàng chờ đón Người phục sinh từ cõi chết như Mẹ đã sẵn sàng đón nhận Người từ thiên quốc ngự xuống đầu thai trong lòng Mẹ. Mẹ đã cùng chịu khổ đau với Người và Mẹ tin chắc rằng Mẹ cũng sẽ được hưởng niềm hoan hỉ với Người.

Mẹ ơi ! Giê-su Con Mẹ đã sống lại rồi. Người là niềm vui không bao giờ mất của những ai tin tưởng vào Người. Ấy thế mà nhiều lúc con đã sống muộn phiền như là Người vẫn còn nằm yên trong mộ. Con đã khóc than bi lụy như Ma-ri-a Mác-đa-la, đã chán nản thất vọng như hai môn đệ làng Em-mau, đã sợ hãi cuống cuồng như nhóm Mười Một.

Không, Chúa Giê-su đã sống lại và Người đang đến bên con, đang sống trong con. Con không được phép buồn sầu Mẹ ạ… Con phải vui lên, vui nhiều lên nữa chứ, phải không thưa Mẹ ? Chính nhờ Người đã phục sinh mà con mới có can đảm đón nhận tất cả mọi gian nan thử thách trong cuộc sống. Tất cả, ngay cả cái chết của bao người thân yêu và chính cả cái chết của con cũng mất đi khuôn mặt bi thương vẫn ám ảnh con người. Đức Giê-su đã chiến thắng tử thần, đã vĩnh viễn đẩy lùi ách sự dữ vào bóng tối, đã xóa tan nỗi đau đớn u sầu của cuộc khổ nạn. Người đã sống lại để đưa ra cho con một lời bảo chứng : hễ ai tin tưởng vào Người, kẻ ấy sẽ không phải tủi nhục bao giờ. Đằng sau cuộc tử nạn là sự phục sinh, đằng sau thập giá khổ nhục là vinh quang bất diệt của ngày sống lại ./.

Thứ Sáu, 17 tháng 10, 2008

Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc (2)

Ảnh chụp tại giáo xứ Long Toàn, Bà Rịa - 07.2008

(Xin được hiệp thông với cuộc khổ nạn của Hội Thánh Việt Nam)

Ôm Con mà Mẹ đớn đau,
Đoạn trường ai đã qua cầu mới hay!
Con ơi, vẫn có Mẹ đây.

*

Thứ Năm, 16 tháng 10, 2008

Chuỗi Mân Côi - Mùa Thương (5)

Mầu nhiệm thứ 5
CHÚA GIÊ-SU CHỊU CHẾT TRÊN THÁNH GIÁ

“Đức Giê-su kêu lớn tiếng : “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”. Nói xong, Người tắt thở” (Lc 23,46)

Đã đến nơi hành quyết, đám lính lột áo Chúa Giê-su ra rồi bắt Người nằm lên thập giá. Tiếng búa chát chúa vang lên. Chiếc đinh đầu tiên, rồi thứ hai, rồi thứ ba… ngập xuống chân tay Chúa Giê-su. Cơn đau tột cùng tưởng chùng như đã cướp mất sự sống của Người. Nhưng không, Người vẫn còn đó để uống cạn chén đắng Cha Người trao phó. Thập giá được dựng lên, kèm theo tấm biển ghi vội vàng dòng chữ : “Giê-su Na-da-rét, vua dân Do Thái !” Hai bên Người, hai cây thập giá khác cũng vừa được dựng lên : hai tên tội phạm cũng lãnh án tử hình chiều hôm ấy. Thật lạ lùng, Con Thiên Chúa lại đồng chung số phận với tội nhân !

Đâu cả rồi, nhóm thân bằng quyến thuộc ? Đâu cả rồi, đám ái mộ tôn sùng ? Đứng dưới chân thập giá chỉ vỏn vẹn có mấy người : Mẹ Ma-ri-a, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, Ma-ri-a Mác-đa-la và Gio-an. Họ đứng đó, im lặng, thông phần khổ đau với Chúa Giê-su. Đây là những giây phút trọng đại mà vì chúng Người đã được sai đến trần gian. Từ trên thập giá, Chúa Giê-su hé mắt nhìn những con người trung kiên ấy. Một nỗi thân thương tràn ngập tâm hồn Chúa Giê-su. Người thốt lên : “Thưa Bà, đây là con của Bà…” Ôi, tình yêu nhiệm mầu thắng vượt cả khổ đau. Người đã yêu thì yêu cho đến cùng, cho dẫu thịt nát xương tan. Người không đành nhắm mắt khi chưa nói lên lời nhắn gửi cuối cùng…

Giờ thì mọi sự đã xong, tình yêu đã trọn, Người đã có thể yên lòng ra đi. Nơi kia, Cha Người đang dang tay chờ đón lễ vật cao quý nhất dâng lên Chúa Cha. Suốt cuộc đời Người đã sống theo thánh ý Cha, thì giờ đây Người cũng chết để chu toàn thánh ý đó : “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha.”

Hỡi người Mẹ dịu hiền nhưng đầy can đảm của con, giờ đây Giê-su Con Mẹ không còn nữa. Người đã phó trao mạng sống vì yêu thương nhân loại. Mẹ đứng đó, lặng im nhìn xác Chúa Giê-su treo trên thập tự, lòng những ước ước ao được hiến tế chính mạng sống mình cùng Con. Mẹ còn đây mà Người đã chết rồi, niềm hạnh phúc tuyệt hảo của đời Mẹ đã ra đi vì tội lỗi nhân loại. Mẹ đớn đau nhìn xác Con rũ rượi, và chính trong nỗi sầu thương khôn cùng đó hai tiếng “Xin vâng” ngày xưa lại vang lên trong lòng Mẹ. Nhìn xác Chúa Giê-su, Mẹ hiểu ra được hết ý nghĩa của tình yêu. Vâng, yêu thương là thế đó, là cho đi tất cả, là trao ban chính bản thân mình. Giê-su Con Mẹ đã yêu đến tận cùng, và Mẹ, Mẹ cũng muốn yêu đến tận cùng.

Còn con ? Mẹ ơi ! Con cũng muốn yêu thương lắm chứ, trái tim con cũng đang thổn thức vì yêu, nhưng con chỉ muốn yêu có chừng mực thôi. Yêu thương mà thiệt thòi nhiều đến thế thì con chả dám đâu ! Con vẫn quen yêu thương một cách khác, Mẹ ạ ! Cửa lòng con vẫn luôn rộng mở, nhưng là để đón lấy những gì kẻ khác mang lại cho con. Còn nếu phải cho đi ? Con sẽ mở một cánh cửa khác, he hé thôi, để tiết kiệm những gì con đang có, để tiết kiệm chính bản thân con ! Mẹ ơi ! Con vẫn yêu thương đầy tính toán như thế đó. Con sợ mạo hiểm lắm ! Con phải giữ lại “một chút gì” cho chính mình rồi mới dám yêu thương. Con không liều mạng được như Chúa Giê-su Con Mẹ đâu !

Nhưng hôm nay nhìn lên thánh giá con mới hiểu ra rằng tình yêu đích thực không bao giờ có chừng mực. Hoặc là yêu đến tận cùng ; hoặc là không yêu thương tí nào cả. Con không thể yêu mà còn giữ lại chính mình. Con có thể hy sinh nhiều cho Chúa và cho tha nhân, có thể sống khắc kỷ tiết độ, có thể đầy độ lượng bao dung, có thể nguyện gẫm hàng giờ, bố thí hàng lô của cải, nhưng nếu con chưa cho đi chính mình thì con chưa hề biết yêu thương đúng nghĩa.

Mẹ ơi ! Con vẫn sợ mạo hiểm nhưng con lại muốn theo gương Giê-su Con Mẹ. Này đây đôi bàn tay đang ích kỷ níu kéo của con, này đây quả tim đang ngần ngại mở rộng của con, xin Mẹ nhận lấy và dâng lên Chúa để Người tập con biết quảng đại cho đi như Người đã trao ban chính mạng sống mình trên thánh giá ./.

Thứ Tư, 15 tháng 10, 2008

Mẹ Tiên Sa Avila

Mẹ cho con một tấm hình
Kèm theo chữ ký báo tin mẹ về.
Mẹ con chung sống cận kề.
*

Thứ Ba, 14 tháng 10, 2008

Chuỗi Mân Côi - Mùa Thương (4)

Mầu nhiệm thứ 4
CHÚA GIÊ-SU VÁC THÁNH GIÁ

“Vậy họ điệu Đức Giê-su đi. Chính Người vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Híp-ri là Gôn-gô-tha” (Ga 19, 16b-17)

Trước những tiếng reo hò cuồng nộ của đám dân Do Thái, Phi-la-tô đành chấp nhận xử oan người vô tội : ông ra lệnh mang Chúa Giê-su đi hành quyết. Bản án được thi hành ngay tức khắc. Một cây thập tự nhám nhúa nặng nề được mang đến, lũ lý hình đặt nó lên vai Chúa Giê-su rồi xua Người bước đi. Sức hơi mòn mỏi, Chúa Giê-su lê từng bước khập khễnh, bờ vai đã rướm máu vì đòn vọt giờ như bị cắt nát ra bởi thân gỗ xù xì. Mỗi bước chân là một cơn đau khủng khiếp dội khắp toàn thân. Máu từ các vết roi ứa ra nhuộm đỏ lưng áo. Máu từ các dấu gai chảy xuống che mờ đôi mắt. Và trong tâm hồn Chúa Giê-su, các giọt máu vô hình cũng đang ứa ra từ những vết thương của bội phản, của vong tình. Người đó – Con Chiên vô tội của Chúa Cha – đang hiền từ nhẫn nhục lê từng bước đến nơi xử án, theo sau là đám đông reo hò gào thét. Pháp trường đã gần nhưng Chúa Giê-su cũng gần tàn hơi sức. Người ngã xuống, gắng gượng đứng lên, rồi lại ngã xuống. Thấy Người không còn đi được nữa, đám lính gọi bừa một người nông phu vừa ngang qua đó, bắt vác đỡ thập giá cho kẻ tử tội. Đoàn người lại tiếp tục tiến lên, đỉnh đồi Gôn-gô-tha mỗi lúc một gần thêm.

Mẹ ơi ! Chen lẫn trong đám người cuồng loạn đang hò la chế diễu đó, lòng Mẹ nghĩ gì ? Hẳn là Mẹ đau đớn khôn cùng khi thấy Con yêu dấu của Mẹ phải đau đớn khổ nhục đến thế. Máu ướt đẫm châu thân Người mà Mẹ tưởng chừng như máu Mẹ cũng tuôn tràn chi thể. Đầu Mẹ không đội vòng gai mà Mẹ buốt đau như trăm ngàn mũi nhọn đang cắm vào da thịt. Vai Mẹ không vác thập hình mà lưng Mẹ oằn xuống như gánh nặng oan khiên kia đang đè bẹp Mẹ. Mẹ đau khổ, nhưng cũng như Người, Mẹ âm thầm thốt lên hai tiếng “Xin vâng”. Hai tiếng mà Mẹ vẫn không ngớt thân thưa trong mọi phút giây Mẹ sống.

Ôi Mẹ hiệp công cứu chuộc ! Mẹ đã can đảm thông phần vào cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su, xin Mẹ giúp con can đảm vác thánh giá của mình mỗi ngày và đi theo Chúa. Cuộc đời con cũng có lắm đòn vọt, lắm chông gai, lắm gánh nặng : gia đình, bè bạn, xóm giềng, áo cơm, tiền bạc, cửa nhà… và chính con, chính những suy tư dằn vặt, những lo toan của con đang làm con rướm máu, đang đè nặng lên con. Mẹ ôi ! Đã nhiều lần con lê từng bước mệt mỏi rã rời. Con té xuống, gắng gượng đứng lên, rồi lại té xuống. Lắm lúc con tưởng chừng mình đã kiệt lực không còn chỗi dậy được nữa. Lúc ấy con khẩn khoản thầm mong có một ai đó – một Si-mon Ki-rê-nê của con – ghé vai vác đỡ cho con gánh nặng. Con cô đơn và yếu đuối lắm. Con những chỉ muốn buông xuôi !

Mẹ ơi ! Xin Mẹ nhắc con nhớ rằng : không bao giờ con phải lẻ loi trong cuộc sống. Không nỗi đau nào, không gánh nặng nào con phải gánh chịu một mình ; vì hết thảy mọi khổ nhục của kiếp người, Đức Giê-su Ki-tô Con Mẹ đã gánh lấy. Người đã đi tiên phong để con nhìn lên Người mà can đảm tiến bước. Người chính là Si-mon Ky-rê-nê của con, một Si-mon Ky-rê-nê luôn sát kề bên con để sẵn sàng nâng đỡ mỗi khi con kiệt sức. Mẹ ơi ! Tại sao con lại quên Người ? Tại sao con lại hoảng sợ khi nghĩ đến thập giá hàng ngày của con ? Con yêu Chúa mà con lại sợ thánh giá ư ? Như thế thì con không xứng đáng để đến với Người, Mẹ ạ !

Xin Mẹ dạy con biết kết hợp những khổ nhục hàng ngày của con với thập giá Chúa Giê-su để biến chúng nên phương thế thánh hóa đời con và góp phần vào công cuộc cứu rỗi mà Người đã thực hiện khi chịu khổ đau vì loài người chúng con ./.

Thứ Hai, 13 tháng 10, 2008

Chuỗi Mân Côi - Mùa Thương (3)

Mầu nhiệm thứ 3
CHÚA GIÊ-SU CHỊU ĐỘI MŨ GAI

“Chúng kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người, và trao vào tay mặt Người một cây sậy. Chúng quỳ gối trước mặt Người mà nhạo rằng : Vạn tuế Đức Vua dân Do Thái !” (Mt 27,27-31)

Đánh đập Chúa Giê-su xong, bọn lính lôi Người vào công đường. Vừa thấy Người, các tốp quân đang có mặt ở đó liền ùa tới. Thấy vẻ mặt tang thương của Chúa Giê-su, đồng thời nhớ lại lời cáo tội của dân Do Thái, chúng bèn nghĩ ra một trò chơi mới : biến phạm nhân thành một tên vua thảm hại ! Trò đùa này lập tức được cả bọn hăng hái tham gia. Chúng lột chiếc áo đã đẫm máu của Người ra rồi khoác cho Người một chiếc áo đỏ, màu tượng trưng cho vương quyền La Mã ! Cẩm bào đã có rồi, còn vương miện và vương trượng ? Một tên lính nảy ra một ý tưởng độc đáo : chúng lấy một dây leo dại gai mọc tua tủa kết lại đội lên đầu Người, rồi dúi vào tay Người một cây sậy. Thế là đầy đủ cho Ngài, hỡi đức vua tội nghiệp ! Lại phải làm lễ triều bái tân vương nữa chứ ! Chúng quỳ gối làm bộ cung kính : “Vạn tuế Đức Vua dân Do Thái !” Cả bọn phá lên cười ngặt nghẽo. Ôi thôi thì chúng khạc nhổ, chúng vả mặt, chúng nhạo báng thỏa tình. Một tên hứng chí giằng lấy cây sậy rồi gõ vào đầu Chúa Giê-su. Được gõ đầu Vua Ít-ra-en, đó chẳng phải là một vinh dự lớn lao ư ? Cả bọn lại cười như điên dại. Đám lính thỏa thuê mà cười cợt, mà sỉ nhục. Còn Chúa Giê-su ? Người ngồi đó im lặng “như một con chiên hiền lành bị xén lông”. Chiếc vòng gai cắm sâu vào đầu, máu tươi từng dòng ứa ra, chảy dần xuống hòa lẫn với nước bọt của bọn phỉ nhổ, vẽ lên khuôn mặt đau thương của Người những đường nét dị hợm. Bấy giờ Phi-la-tô cho điệu dẫn Người ra trước công chúng và nói với họ : “Này, chính ông ta đó !”

Phải, đó chính là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng là Con Thiên Chúa đồng thời cũng là Thiên Chúa, Đấng mà Kinh Thánh đã tiên báo sẽ trị vì ngôi báu Đa-vít cho đến muôn đời… Vâng, chính Đấng ấy giờ đây xuất hiện trước mắt mọi người như một tên thảm hại.

Mẹ ơi ! Con không thể nào hiểu thấu tình yêu vô biên mà Đức Giê-su Con Mẹ đã dành cho loài người chúng con. Vì yêu, Người đã không chối từ bất cứ một điều gì để cứu chuộc chúng con. Hẳn lòng Mẹ đã chua xót vô vàn khi thấy Người trong chiếc áo đỏ sỉ nhục, đầu đội mão gai, khuôn mặt bê bết những máu và nước bọt. Đức Giê-su của Mẹ đó. Khuôn mặt tinh khôi mà Mẹ vẫn trìu mến ngắm nhìn giờ đây đang lấm lem bê bết vì tội lỗi chúng con. Ngoài Mẹ ra, còn ai nhận biết kẻ đang bị sỉ nhục kia là Con Thiên Chúa, là Vua muôn loài ?

Mẹ ơi, con kiêu ngạo quá ! Chính vì kiêu ngạo mà con đã phủ lên khuôn mặt bê bết tội lỗi của con những nét tinh khôi. Con sợ nhìn thẳng vào lòng mình, con sợ phải đối đầu với những xấu xa hợm hĩnh của chính con, con sợ phải nhận chân cái “giá trị bụi tro” của mình, con sợ phải sống khiêm nhượng vì tưởng rằng khiêm nhượng sẽ khiến đời mình trở thành ti tiện. Để khỏi sống khiêm nhượng, con đã khoác cho sự kiêu ngạo của mình những mỹ từ bóng bẩy : nào là phẩm giá, là danh dự, uy tín… Con dùng chiếc kính lúp kiêu ngạo của con để soi lên đời những người khác, để đánh giá họ. Như người Biệt phái trong dụ ngôn, nhiều lần con kiêu hãnh thốt lên : “Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vì con không tồi tệ như những kẻ khác”. Con cám ơn Chúa nhưng lòng con nghĩ thầm : mình không tồi tệ vì mình thừa sức để sống công minh. Con quên rằng sở dĩ con chưa đến nỗi tồi tệ là vì Chúa đang che chở cho sự yếu đuối của con. Con quên rằng, nếu con gặp thử thách như họ, rất có thể là con đã tồi tệ hơn họ nhiều. Con tưởng mình đã sống tốt lành thánh thiện lắm. Con quên rằng nếu được hưởng dồi dào ân phúc như con, hẳn nhiều người đã vượt xa con trên đường trọn lành. Con kiêu ngạo, nên con đã bôi son trát phấn cho khuôn mặt xấu xí của mình, và mỗi lần làm như thế là con đã khạc nhổ vào mặt Chúa Giê-su nơi con, làm cho khuôn mặt đẹp đẽ đó trở nên hợm hĩnh xấu xa.

Mẹ ơi ! Xin cho con hạ mình khiêm nhượng, biết nhận ra những khuyết tật của lòng con. Không phải để mặc cảm thất vọng, nhưng là để tin tưởng hơn vào Thiên Chúa, Đấng đã làm cho Đức Ki-tô, người tử tù bị sỉ nhục, trở nên nguồn vinh quang bất diệt cho mọi kẻ đặt hy vọng vào Người ./.

Chủ Nhật, 12 tháng 10, 2008

Chuỗi Mân Côi - Mùa Thương (2)

Mầu nhiệm thứ 2
CHÚA GIÊ-SU CHỊU ĐÁNH ĐÒN

“Bấy giờ, tổng trấn phóng thích tên Ba-ra-ba cho họ, còn Đức Giê-su, thì ông truyền đánh đòn” (Mt 27,26a)


Suốt một đêm dài, những kẻ thù nghịch đã áp giải Chúa Giê-su đi khắp thành Giê-ru-sa-lem, từ nhà Kha-na đến nhà Cai-pha, từ dinh Phi-la-tô tới dinh Hê-rô-đê, rồi lại từ dinh Hê-rô-đê trở về dinh Phi-la-tô. Phi-la-tô thấy Chúa Giê-su vô tội, nhưng vì yếu nhược, ông không dám bênh vực Người. Để tỏ ra vô can, ông rửa tay rồi truyền cho quân lính đánh đòn Người. Đức Giê-su, con người vô tội, phải gánh chịu roi vọt như một kẻ tội phạm ; còn Ba-ra-ba, tên tử tù, lại được hưởng ân xá như một kẻ công chính. Ôi, lòng dạ con người thật là tráo trở ! Họ hò reo, họ phẫn nộ, họ cương quyết đòi mạng Chúa Giê-su ! Tiếng reo hò của dân chúng như một chất kích thích cuồng loạn ập vào đám lính hung tợn. Chúng kéo Người ra trói vào cột đá rồi bắt đầu ra tay hành hạ Người. Những ngọn roi liên tiếp giáng xuống thân mình Chúa Giê-su như một cơn bão loạn. Những vết hằn chằng chịt xé nát lưng người vô tội, máu rỉ loang dần, rồi đẫm ướt thân mình Chúa Giê-su. Càng thấy máu, lũ lính càng như điên tiết, chúng say sưa đánh, đánh, đánh… mặc dù chúng chẳng biết con người đang quằn quại đau đớn kia bị đánh vì tội gì !

Ôi Giê-su ! Chúa đã cam nếm mọi khổ đau của kiếp người. Vừa cất tiếng chào đời, Chúa đã phải rét run vì giá lạnh. Lúc còn măng sữa, Mẹ đã phải bồng Chúa dầm sương dãi nắng trên đường bôn tẩu sang Ai Cập. Về Na-da-rét, Chúa đã phải nhọc nhằn vì lao động. Ra đi rao giảng, Chúa đã đói, đã khát, đã mệt mỏi, đã hao mòn vì sứ mạng Chúa Cha trao phó. Giờ đây, cái thân xác đã trải bao khốn khổ phong trần kia lại phải đón lấy những đòn roi oan nghiệt đang ập xuống như bão táp.

Mẹ ơi ! Khi suy gẫm mầu nhiệm thứ hai của đường khổ nạn, con xấu hổ gục đầu vì thấy mình đã nhiều lần làm như Phi-la-tô, rửa tay tuyên bố mình vô tội trước những đòn roi Chúa Giê-su phải gánh chịu. Đã lắm lần con làm như chỉ có những người Do Thái thời đó mới là nguyên nhân khiến Chúa Giê-su phải chịu đòn, chỉ có họ mới phải chịu trách nhiệm về sự oan nghiệt đó ! Nhưng không, chính con, chính những tội lỗi của con cũng đã góp phần vào cái oan nghiệt vốn đã oan nghiệt kia, chính con cũng đã là duyên cớ gây ra những đớn đau mà Con Mẹ phải gánh chịu. Không phải chỉ có họ mà còn có cả con tham gia vào việc hành hạ Con Mẹ ngày hôm ấy. Chính con là Kha-na, là Cai-pha, là Phi-la-tô, là Hê-rô-đê, là đám lính, là lũ dân cuồng nộ… Phải, chính con, Mẹ ạ !

Mẹ ơi ! Xin cho con biết đớn đau vì những bội phản của mình. Xin cho con biết khổ chế thân xác, biết vui nhận hy sinh gian khổ để thông phần vào những khổ đau Con Mẹ đã chịu vì tội lỗi của toàn nhân loại. “Hãy ăn năn thống hối ! Hãy ăn năn thống hối !” Đó là lời khuyên nhủ mà Mẹ vẫn không ngừng lập lại với chúng con mỗi khi Mẹ hiện ra trên trái đất. Chính con, chính những người chung quanh con đã phạm tội, đã tham dự vào cuộc hành hạ Chúa Giê-su ; thì cũng chính con, chính những người chung quanh con phải ăn năn thống hối vì các tội lỗi ấy. Như xưa Chúa đã chịu đòn roi thay cho chúng con, thì nay chúng con cũng có thể và có bổn phận phải hy sinh đền tội thay cho nhau. Chính Đức Giê-su Con Mẹ đã ban cho chúng con diễm phúc ấy khi Người kết hợp chúng con nên một trong Người. Chúng con nên một trong tình yêu thì cũng phải nên một trong những lao đao trắc trở của tình yêu ấy.

Mẹ ơi ! Xin cho con biết khổ đau vì tội lỗi con, để rối từ đó biết khổ đau vì tội lỗi của bao người khác. Giờ đây Chúa không đòi hỏi con phải đánh phạt thân xác, phải tuân thủ những hình thức khổ chế gắt gao như bao lớp tiền nhân đã nêu gương sáng chói cho chúng con. Chúa chỉ muốn con đón nhận những khổ nhọc từng ngày : cái lạnh buốt của những sớm tinh sương, cái oi nồng của những trưa nắng cháy, cái nặng nề của nghề nghiệp, cái vất vả của lo toan… và tất cả những gì vẫn xảy đến trong cuộc sống. Mẹ ơi ! Xin cho con biết đón nhận chúng như những phương thế để góp phần cứu rỗi chính con và bao nhiêu người khác nữa ./.

Thứ Sáu, 10 tháng 10, 2008

Chuỗi Mân Côi - Mùa Thương (1)

Mầu nhiệm thứ 1:
CHÚA GIÊ-SU SẦU BUỒN TRONG VƯỜN CÂY DẦU

“ Cha ơi, nếu Cha muốn, xin tha cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Lc 22,39-46)

Giờ cao điểm của sứ mạng cứu chuộc đã đến. Sau khi lập bí tích Thánh Thể, Chúa Giê-su và các môn đệ đi lên núi Cây Dầu; rồi Người gọi Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo Người vào vườn Ghết-sê-ma-ni. Đêm xuống đã lâu. Một bầu khí tĩnh mịch đến rợn người bao trùm lên khu vườn. Các môn đệ dù đã được Chúa Giê-su căn dặn phải tỉnh thức mà cầu nguyện, đều thiếp ngủ vì mệt mỏi. Trong cái vắng lặng đượm màu tang tóc đó chỉ một mình Chúa Giê-su đối đầu với gánh nặng tội lỗi của nhân loại. Người quỳ xuống và tưởng chừng như tất cả tội lỗi của loài người đổ dồn lên vai Người. Đức Giê-su, con người vô tội, cảm thấy tâm hồn mình bị giày vò vì những cao ngạo, những hận thù, những tham vọng, những đồi bại của con người. Càng vô tội, Người lại càng cảm thấy đau khổ vì sẽ phải bị đối xử như một phạm nhân. Hình ảnh cây thập giá, những đòn roi, những lời mắng nhiếc sỉ nhục, và nhất là sự hèn nhát, sự bội phản của những kẻ thân tín cứ dội lên trong đầu óc Chúa Giê-su. Sự thống khổ tột cùng xâm chiếm lấy Người. Không chịu đựng nổi cơn bức phá nội tâm, các mao quản bứt tung ra, máu hòa lẫn với mồ hôi nhỏ thành từng giọt xuống đất. Cơn xâu xé thật đến kinh hoàng! Chúa Giê-su, một con người cương nghị, đã phải đau đớn thốt lên: “Cha ơi, xin tha cho con khỏi uống chén này…”.

Trong nỗi thống khổ tận cùng đó, ai là kẻ sớt chia cay đắng với Chúa Giê-su? Các môn đệ, những người được Chúa Giê-su hết lòng yêu mến, đều đã ngủ vùi!… Oái ăm thay, dưới kia, trong thành phố, vẫn còn một số người tỉnh thức. Họ tỉnh thức để lập mưu bắt giết Chúa Giê-su. Họ, những kẻ thù nghịch vẫn còn thức họp bàn mưu sự; còn các ông, những môn đệ thân tín, lại yên ngủ để mặc Chúa Giê-su đau khổ một mình!

May mắn thay, không phải chỉ những kẻ thù của Chúa Giê-su là còn tỉnh thức. Không, trong thành phố chắc chắn vẫn còn một người âm thầm cầu nguyện suốt đêm. Người đó chính là Đức Ma-ri-a, người mẹ dịu hiền nhưng can đảm của Chúa Giê-su, người Mẹ hiệp công cứu chuộc của nhân loại.

Mẹ ơi! Mẹ đã sớt chia nỗi thống khổ mà Chúa Giê-su đã gánh chịu vì tội lỗi loài người. Xin Mẹ dạy con biết thật lòng ăn năn thống hối vì những lỗi phạm của con. Chính con, chính những hư đốn đồi bại của con đã góp phần làm tăng sự đau khổ của Chúa Giê-su con Mẹ. Trong cái gánh nặng đã đè lên vai Người, chính con đã, đang và sẽ ném thêm vào đó những khối đá của lòng cao ngạo, của sự tự mãn, của nông nỗi, lười biếng… của tất cả mọi tệ hại của đời con từ lúc thụ thai trong bụng mẹ cho tới ngày trở về với bùn đất. Chính con chứ không ai khác, Mẹ ạ!

Mẹ ơi, Xin dạy con biết thế nào là thật lòng thống hối. Con, một kẻ không biết bao nhiêu lần đã vào tòa cáo giải xưng tội như một máy tính điện tử. Con đã lập cho mình một danh sách liệt kê các tội thường phạm vào "bộ nhớ", để rồi đến tòa cáo giải con chỉ cần "bấm nút" là các tội được kể ra vanh vách, và sau đó đâu lại hoàn đấy!

Mẹ ơi, Xin dạy con biết rằng ăn năn thống hối không chỉ là nhìn lại những lỗi lầm mình đã phạm, mà trước hết phải là nhìn thấy và ngăn ngừa những gì có thể xảy ra. Muốn được Chúa thứ tha, không phải con cứ mặc tình phạm tội rồi tha hồ quỳ dưới chân Người mà khóc lóc! Xin Mẹ đừng để con “đánh lận con đen” với lòng từ bi của Chúa, nhưng xin cho con biết rằng mình được tha thứ là để yêu Chúa nhiều hơn. Chúa tha thứ cho con là để con chỗi dậy và tiến lên, chứ không phải để con mặc tình ngủ vùi trong tội lỗi của mình, bỏ mặc Chúa với nỗi sầu buồn vì phải gánh lấy sự bất trung thất tín của con ./.

Thứ Năm, 9 tháng 10, 2008

Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc

Đức Mẹ Bãi Dâu, 07-2008

"Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên...
Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà"
(Lc 2,34-35)

Chủ Nhật, 5 tháng 10, 2008

Chuỗi Mân Côi - Mùa Vui (5)

Mầu nhiệm thứ 5: LẠC MẤT CHÚA GIÊ-SU VÀ GẶP LẠI NGƯỜI TRONG ĐỀN THỜ

“Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết” (Lc 2,41-50)

Mười hai năm thấm thoát trôi qua, Hài nhi Giê-su năm nào nay đã thành một thiếu niên chững chạc. Vào dịp lễ Vượt Qua, Người được Thánh Giu-se và Đức Mẹ đưa lên Giê-ru-sa-lem để dự kỳ đại lễ đầu tiên trong đời. Kinh thành như muốn vỡ tung ra vì những đoàn người đông đúc từ khắp nơi dồn về. Đền thờ Giê-ru-sa-lem đầy ắp những người là người! Cuộc lễ diễn ra thật uy ngiêm và trang trọng. Lễ tan, mọi người lũ lượt kéo nhau ra về. Trong dòng thác người khổng lồ ấy, kiếm tìm nhau quả là một chuyện gay go. Vì thế mãi đến lúc chiều xuống, khi tới nơi nghỉ chân, Thánh Giu-se và Đức Mẹ mới gặp lại nhau. Không thấy Chúa Giê-su, hai vị liền tìm đến các nhóm bà con quen biết để hỏi thăm tin tức. Thế nhưng, đi hết nhóm này sang nhóm khác mà vẫn chẳng thấy Chúa Giê-su. Hốt hoảng, các ngài liền tức tốc quay trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng những thầm mong gặp Người đang trên đường về… Đã một đêm, rồi một ngày ròng rã trôi qua, người con yêu quý vẫn bặt vô âm tín. Bóng chiều lại dần buông xuống, hai ông bà ruột đau như cắt khi nghĩ đến những bất trắc có thể xảy tới cho con mình. Tối hôm đó, cả hai không tài nào chợp mắt, chỉ trông trời mau sáng để lên đường tiếp tục tìm Chúa Giê-su.

Mẹ ơi, con hình dung ra cảnh Mẹ trằn trọc suốt canh thâu, nỗi buồn sầu bao trùm lên Mẹ. Ôi những giờ khắc thiếu vắng Chúa Giê-su sao mà nặng nề trống rỗng đến thế! Trong đêm dài vắng lặng, Mẹ nhớ đến da diết hơi thở quen thuộc của người con yêu dấu. Mới chỉ xa cách Người mấy buổi mà Mẹ tưởng chừng như thời gian trống vắng đã kéo dài tới vô tận. Mẹ đã nhận Người làm tất cả của Mẹ, nên nếu thiếu Người thì tất cả sẽ chẳng còn ý nghĩa gì. Mẹ phải tìm gặp lại Người, tìm gặp lại nguồn hạnh phúc duy nhất của đời Mẹ. Mẹ nhớ lại những tháng ngày êm ấm bên cạnh người con chí ái. Ôi, chuỗi ngày hạnh phúc biết bao. Bây giờ nếu phải xa cách Người mãi mãi thì những ngày tháng còn lại sẽ tẻ nhạt biết dường nào! Trong đêm tối, Mẹ khẽ nhắc tên Người: “Ôi Giê-su!”

Mẹ ơi! Tai con đã biết bao lần nghe lời nhắc nhở: “Đức Giê-su chính là sự sống của anh em”; mắt con đã bao lần đọc thấy: “Thầy là cây nho, chúng con là nhành”; miệng con đã bao lần thốt lên: “Chúa là cùng đích đời con”… Thế nhưng trong thực tế con đã sống ra sao? Con đã làm như những gì tai con nghe, mắt con đọc, miệng con tuyên xưng chỉ là những lý thuyết suông. Chúa có đó. Chúa cần thiết đó. Nhưng chỉ cần thiết trong một mức độ nào thôi! Chúa chưa phải là tất cả của con. Ngoài Chúa ra, con còn rất nhiều thứ phải kiếm tìm, phải gìn giữ nữa cơ mà! Con yêu Chúa, nhưng đồng thời con cũng yêu nhiều điều khác nữa. Thế nên chưa khi nào con thấy tim mình trống vắng cả. Thiếu Chúa thì mới chỉ là thiếu một phần thôi thì nào có hề gì!

Mẹ ơi! Xin Mẹ loại bỏ khỏi con tâm tình quái ác đó. Xin Mẹ dạy con biết quay quắt như Mẹ và Thánh Giu-se trên đường tìm kiếm Chúa xưa. Xin Mẹ cảnh giác con những lúc con lạc mất Chúa trong đời. Vì không có gì khốn khổ cho bằng một kẻ đã đánh mất hết phần sản nghiệp mà vẫn đinh ninh mình còn đầy đủ sung túc. Xin Mẹ đừng để quả tim con bị đánh lừa không nhận ra được những thay đổi nhỏ nhặt trong nồng độ tình yêu của con đối với Chúa.

Mẹ ơi, thật là đáng sợ khi người ta từ từ xa cách Chúa mà vẫn tưởng rằng mình còn ở cạnh bên Người! Mẹ ơi, xin Mẹ nhắc con luôn nhớ rằng: để khỏi lạc mất Chúa, con phải ra công tìm kiến Người mỗi giây phút của cuộc đời con. Và nếu nhỡ con có lạc xa Người thì xin cho con biết tốc tả kiếm tìm cho tới khi gặp lại Người như Mẹ và Thánh Giu-se đã tìm gặp Chúa trong đền thờ xưa ./.

Thứ Bảy, 4 tháng 10, 2008

Chuỗi Mân Côi - Mùa Vui (4)

Mầu nhiệm thứ 4: DÂNG CHÚA GIÊ-SU VÀO ĐỀN THÁNH

“Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa” (Lc 2,22-38)

Hôm đó, tại đền thờ Giê-ru-sa-lem, chẳng mấy ai để ý đến đôi vợ chồng trẻ nghèo nàn đang xếp hàng giữa đám đông tiến vào nơi hành lễ. Người chồng, nét mặt trầm tư nghiêm nghị, tay xách chiếc lồng chim là lễ vật của lớp dân nghèo túng. Còn người vợ, dáng nhu mì khép nép, âu yếm ôm chặt cậu con trai đầu lòng, chốc chốc nàng lại cúi xuống hôn nhẹ lên trán cậu. Họ bình dị quá, tầm thường quá, đến đỗi chẳng ai có thể đọc hết nỗi vui mừng trong lòng họ, cũng như chẳng ai có thể nhận ra cậu bé trai chính là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa giáng trần. Đám đông không hay biết, nhưng Giu-se và Ma-ri-a thì biết rõ con mình, vì thế cả hai đang đắm chìm trong tâm tình tạ ơn sốt mến…

Đột nhiên một ông lão hiền từ tiến đến cúi chào họ và ngỏ ý muốn ẳm bồng Hài Nhi. Ma-ri-a dịu dàng trao con cho người khách lạ. Vừa ẵm lấy Hài nhi Giê-su, mắt ông cụ ngời lên nét tinh anh rạng rỡ, ông thốt lên lời ca tụng: “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ…” Nghe lời ấy, Giu-se và Ma-ri-a càng thêm niềm hoan hỉ. Thế rồi, quay sang Ma-ri-a, ông báo trước số phận con trẻ: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en phải vấp ngã hay được trỗi dậy… Còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra.”

Kế đó, một cụ bà cũng tiến đến ca tụng Chúa và nói tiên tri về Hài nhi Giê-su.

Mẹ ơi! Khi suy ngắm mầu nhiệm dâng Chúa Giê-su với khung cảnh tế lễ trong Đền Thờ, con liên tưởng đến hiến lễ cuối cùng, khi Đức Giê-su con Mẹ hoàn tất sứ mạng cứu chuộc loài người. Hôm nay, Mẹ âm thầm ẵm bồng Hài nhi Giê-su – nguồn hạnh phúc tuyệt đối của đời Mẹ – lên Đền Thánh để dâng Người cho Thiên Chúa… Thế rồi hơn ba mươi năm sau, Mẹ cũng âm thầm đi bên cạnh con mình lên đồi Can-vê để cùng với Người hiệp dâng lên Chúa Cha hy lễ cao vời là chính Đức Giê-su Ki-tô con Mẹ. Và rồi dưới chân thập tự cũng chính đôi bàn tay Mẹ ẵm lấy thi thể đẫm máu của Con yêu dấu đã chết vì tội lỗi nhân loại. Trong ngày Truyền Tin, Mẹ đã thưa “Xin vâng”; thì nay Mẹ sống trọn vẹn lời thân thưa đó. Mẹ không giữ lại cho riêng mình một chút gì, dù đó là người con yêu quý mà Mẹ đã khó nhọc mang nặng đẻ đau, Mẹ cũng vui lòng dâng Người cho Thiên Chúa, vì Mẹ biết rằng trước khi là con của Mẹ, Người đã là Con của Thiên Chúa. Trước khi thuộc về Mẹ, Người đã hoàn toàn thuộc về Đấng đã sai Người đến thế gian. Mẹ dâng Đức Giê-su cho Thiên Chúa để nhìn nhận rằng chỉ Thiên Chúa mới có toàn quyền trên Người. Mẹ dâng trao, dù không biết những gì sẽ xảy đến với người con chí ái.

Mẹ ơi, Mẹ quảng đại quá. Còn con, con thật khó lòng cho đi những gì mình có; và thật khó hơn nữa khi đó là tất cả những gì quý báu nhất của đời con: một mái ấm gia đình, một người thân thương, một môi trường gắn bó, một công việc thích hợp, một chỗ đứng an toàn… Làm sao có thể cho đi, khi biết rằng hiến dâng có nghĩa là sẵn sàng đón nhận tất cả những gì sẽ xảy ra sau đó? Làm sao có thể cho đi, vì cho đi là kèm theo mất mát? Con đã nghèo quá rồi! Nghèo cả vật chất lẫn tinh thần. Giờ phải dâng hiến nữa, con sẽ còn lại gì? Con sợ lắm, con không muốn, Mẹ ơi!

Thế nhưng xin Mẹ hãy dạy con biết quảng đại như Mẹ. Xin Mẹ dạy con biết dâng lại cho Thiên Chúa tất cả, vì tất cả là của Thiên Chúa trước khi là của con. Con không được giữ lại bất cứ thứ gì cho riêng mình, vì một khi giữ lại như thế con sẽ vô tình phá hỏng những gì Thiên Chúa đặt vào tay con. Nếu xưa Mẹ đã ích kỷ giữ Chúa Giê-su lại cho riêng Mẹ, thì ai sẽ mang lại ơn cứu độ cho nhân loại chúng con?

Thánh Phan Sinh Nghèo


Bạn ơi, tôi bảo bạn này:
Hãy hoà chung với cỏ, cây, mây, trời...
Ngợi ca Thiên Chúa của tôi.

Thứ Sáu, 3 tháng 10, 2008

Chuỗi Mân Côi - Mùa Vui (3)

Mầu nhiệm thứ 3: GIÁNG SINH

“Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ”… (Lc 2,1-30)

Ngày trọng đại đã đến. Đấng “muôn dân thiên hạ đợi trông” sắp giáng sinh. Lẽ ra khắp thành Bê-lem, khắp xứ Giu-đê, khắp đất nước Do-thái và toàn thể dân tộc trên trái đất phải giăng đèn kết hoa, phải mở hội hoan ca để đón mừng Con Thiên Chúa giáng trần. Nhưng không, Tin Mừng Lu-ca còn cho thấy một khung cảnh trái ngược: không một ai thèm đón rước Thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a. Thậm chí các chủ quán trọ còn xua đuổi các ngài vì các ngài quá nghèo. Thánh Giu-se đành đưa Mẹ Ma-ri-a ra một hang súc vật ngoài đồng để trú qua đêm. Và chính trong cái hang tồi tàn ấy Con Thiên Chúa đã ra đời. Giê-su, “con trai bác thợ mộc Giu-se”, lại không có lấy một chiếc nôi tươm tất để nằm lúc chào đời! Em-ma-nu-en, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, lại phải sinh ra trong hoang vắng quạnh quẽ! …

Mẹ Ma-ri-a cúi xuống hài nhi đang run rẩy vì giá lạnh. Mẹ chợt nhớ đến những chiếc áo quần bé nhỏ xinh xắn, mà dù nghèo, Mẹ cũng dành dụm may sắm để chuẩn bị cho con yêu dấu của mình. Mẹ tiếc đã không thể mang chúng theo vì đường đi quá xa, nhà thì chẳng đủ tiền mướn người chuyên chở. Mẹ nhìn Hài nhi Giê-su, lòng Mẹ bâng khuâng. Mẹ không thể hiểu hết cái ý nghĩa nhiệm mầu đang bao quanh người con nhỏ bé đó. Ôi, có thể như vậy sao? Con Thiên Chúa lại có thể sinh ra như một đứa trẻ đầu đường xó chợ, lấy trời làm màn, lấy đất làm chiếu như thế ư? Tại sao Người lại từ chối chiếc nôi của Giu-se, từ chối những bộ áo quần Mẹ đã may sắm sẵn, để rồi sinh ra nơi đây, thiếu thốn đủ mọi thứ? Người muốn trở nên một kẻ nghèo hơn tất cả những người nghèo trên trần gian này ư? Người muốn trở nên một kẻ bị bỏ rơi hơn tất cả những người bị bỏ rơi trong cuộc đời này ư?…

Mẹ không thể hiểu hết được nhưng Mẹ vẫn một niềm kính cẩn. Trong cái hang giá lạnh tồi tàn này lòng Mẹ vẫn ấm lên một niềm hạnh phúc vô biên, bài ca “Ngợi khen” hôm nào vẫn vang lên trong Mẹ. Mẹ nghèo, nhưng Mẹ đã có Hài nhi Giê-su và Mẹ tin chắc rằng có Con Thiên Chúa là có một kho báu độc nhất vô nhị, là có tất cả mọi sự. Mẹ nghèo, nhưng Mẹ lại giàu sang hơn tất cả mọi kẻ giàu sang trên mặt đất này.

Mẹ thì như thế. Còn con? Con cũng đang sống trong cảnh nghèo túng. Con vất vả lao nhọc từ sáng đến chiều để mong kiếm đủ miếng cơm manh áo, thế mà nhiều lúc vẫn thiếu trước hụt sau. Căn nhà dột nát quá! Chiếc xe cũ kĩ quá! Chiếc áo đã sờn vai, cái quần đã rách tung cả gấu, đôi dép thì mòn đến đụng gót chân! Con muốn mua sắm một vài món đồ vặt vãnh, chỉ rẻ tiền thôi; thế nhưng, khi sờ đến ví tiền con lại ngần ngại không dám rút nó ra, vì sực nhớ rằng ở trong chỉ còn được có mấy tờ tiền lẻ! Con nghèo thật Mẹ ạ! Và con cũng nhớ nằm lòng lời Chúa Giê-su chúc phúc: "Phúc cho những ai nghèo khó…" Thế nhưng có một điều kỳ lạ là con chẳng thấy mình hạnh phúc tí nào cả. Con nghèo và con chỉ thấy khổ thôi!

Hôm nay, suy ngắm mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh, con mới nhận ra mình là một kẻ khờ dại. Con khờ dại vì con không biết đâu là ý nghĩa và giá trị của sự nghèo khó của con. Mẹ ơi! Xin Mẹ dạy con biết sống cảnh nghèo với tâm hồn nghèo khó, biết dâng lên Thiên Chúa lời kinh cảm tạ tri ân ngay cả lúc thiếu thốn cùng quẫn, biết dùng đời sống khó nghèo như đôi cánh nhẹ nâng con lên với Chúa và bay đến với tha nhân. Mẹ ơi! Xin đừng để cảnh nghèo như một vòng xích oan nghiệt trói chặt con xuống đất, đừng để sự thiếu thốn giết chết niềm Tin Cậy Mến trong con ./.

Thứ Năm, 2 tháng 10, 2008

Chuỗi Mân Côi - Mùa Vui (2)

Mầu nhiệm thứ 2: VIẾNG THĂM

“Hồi ấy, bà Ma-ri-a lên đường vội vã…” (Lc 1,39-56)

Sau khi được sứ thần chúc phúc và loan báo sứ mạng cưu mang Con Thiên Chúa, Mẹ vội vàng đi lên miền núi, đến nhà chị họ mình là Ê-li-sa-bét, vì theo lời sứ thần cho biết thì bà – dù cao tuổi – cũng đã mang thai được sáu tháng do ý muốn tốt lành của Thiên Chúa. Mẹ vội vã ra đi, vượt qua những chặng đường dài dốc dác, lòng vừa rộn rã niềm vui vừa ái ngại cho cảnh đơn chiếc của người chị họ. Mẹ nôn nóng đến đó để chia sẻ nỗi hân hoan của bà, nỗi hân hoan mà Mẹ cũng đang ứ tràn trong lòng, và đồng thời cũng để giúp bà trong những ngày tháng mang nặng đẻ đau; những ngày tháng mà đến lượt Mẹ, Mẹ cũng phải kinh qua.

Buổi gặp gỡ hôm ấy giữa hai bà mẹ được tràn đầy ân phúc thật là một cuộc hạnh ngộ. Chinh niềm hạnh phúc khôn tả nơi Mẹ đã tràn sang bà Ê-li-sa-bét, đã làm cho thai nhi trong lòng bà nhảy mừng, và dưới tác động của Thánh Thần bà cất tiếng thốt lên: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được phúc này là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy?” Lời chúc tụng này đã khai mở nguồn suối hân hoan nơi Mẹ. Đến lượt Mẹ, Mẹ cũng cất tiếng hát vang lời kinh cảm tạ: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi…”

Mẹ vui mừng, bà Ê-li-sa-bét vui mừng, thai nhi Gio-an vui mừng. Niềm hoan lạc vô bờ bến tràn ngập gia đình ông Da-ca-ri-a. Như những cây đàn được đụng tới bởi bàn tay thần diệu, tâm hồn họ được Thiên Chúa đụng đến làm dậy lên những lời ca hoan hỉ khôn cùng. Chính lòng khiêm nhượng thẳm sâu, chứ không phải sự kiêu căng lố bịch, đã khiến Mẹ hát vang lời kinh ca ngợi. Không! Mẹ không là gì cả, Mẹ chỉ là nữ tì của Chúa, tất cả sự huyền nhiệm này đều do Chúa làm nên. Mẹ không thể nín lặng, không thể không tôn vinh Thiên Chúa, Đấng Toàn Năng cao cả. Mẹ thật tuyệt diệu, ôi người Mẹ khiêm cung và đầy lòng biết ơn Thiên Chúa của con!

Vì sao có được nỗi vui khôn tả này? - Vì Mẹ cưu mang chính Niềm Vui của nhân loại, vì Mẹ đã không cất dấu Niềm Vui ấy cho riêng Mẹ, vì Mẹ đã quên mình để nghĩ đến bà Ê-li-sa-bét, nghĩ đến những người khác cũng đang cần có Niềm Vui tuyệt đối ấy.

Còn con, con cứ những muốn mình là vỏ ốc khép kín với hạt ngọc trai chiếu sáng cho riêng mình thôi. Bên ngoài là đêm tối, là bão táp mưa sa? Thì cũng mặc! Nào có liên hệ gì đến tôi? Ôi cái tôi của con quá lớn! Nó lớn đến nỗi che mất khuôn mặt của những người chung quanh con. Họ đói, họ khổ, họ cô đơn, họ chán chường tuyệt vọng… Thì cũng mặc họ! Quá lắm thì con cũng chỉ bố thí cho họ một ánh mắt, một câu nói hoặc một ý nghĩ thương hại. Và con tự nhủ: “Như thế là mình đã thông cảm, đã chia sẻ với họ lắm rồi!”

Nhưng Mẹ ơi, có thật như thế là đã đủ chăng, khi con còn có thể làm cho họ nhiều điều hơn thế nữa: nếu con không đủ khả năng để giúp họ một chén cơm, một manh áo; thì ít ra con còn có thể thân mật nắm lấy bàn tay chai cứng vì vất vả làm lụng của họ, ít ra con còn có thể ân cần đặt tay con lên vầng trán nóng bỏng vì cơn sốt của họ, ít ra con còn có thể gieo vào lòng họ niềm hy vọng mà họ đã đánh mất bấy lâu nay… Không, Mẹ ơi, con còn có thể làm được nhiều điều hơn thế nữa, vì con có thể giúp họ gặp được niềm hạnh phúc mà toàn thể nhân loại vẫn hằng tìm kiếm. Con còn có thể giúp họ, vì con đã biết rằng Đức Giê-su Ki-tô Con Mẹ chính là niềm hạnh phúc đó.

Nhưng Mẹ ơi, con ích kỷ quá! Con chỉ muốn giữ Chúa cho riêng mình con thôi. Con chỉ muốn an nhàn để tận hưởng cái êm đềm của “Kẻ thiết nghĩa với Chúa”! Con quên rằng: Chúa không hề kết nghĩa với những người ích kỷ!

Ôi Ma-ri-a, xin Mẹ dạy con biết nhìn đến những người chung quanh. Không phải nhìn chỉ để mà nhìn, nhưng là để mang đến cho họ một quả tim tràn đầy yêu thương, và nhất là mang đến cho họ Đức Giê-su Ki-tô Con Mẹ, như xưa Mẹ đã đến và ở lại ba tháng tại nhà bà Ê-li-sa-bét ./.

Thứ Tư, 1 tháng 10, 2008

Chuỗi Mân Côi - Mùa Vui (1)


CHUỖI MÂN CÔI TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY
Nguyên tác: Notre Dame de tous les jours - PAULA HOESL

TRẦM TĨNH NGUYỆN phóng tác 
Kính dâng ĐỨC MẸ LA VANG. Kỷ niệm Năm Thánh 2000

MÙA VUI
Mầu nhiệm thứ 1: TRUYỀN TIN

"Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà" (Lc 1, 25-38).

Mẹ ơi! Khi suy ngắm mầu nhiệm truyền tin con vẫn thường tự hỏi: “Mẹ đang ở đâu, đang làm gì khi sứ thần Gáp-ri-en đến báo cho Mẹ hay ý định hết sức trọng đại ấy của Thiên Chúa?”

Mẹ đang ở trong một góc phòng yên tĩnh, đang đắm chìm trong những giây phút cầu nguyện thân mật với Chúa, Đấng mà Mẹ hằng thiết tha yêu mến chăng? Có lẽ khung cảnh đó thích hợp hơn đối với các tu sĩ trong các tu viện khả kính ; phần con, bận rộn với một ngày sống đầy ắp những công việc thường nhật, con lại thích Mẹ cũng như con, cũng đang bận rộn với một công việc bình thường nào đó trong ngày: hoặc đang nấu cơm, đang giặt giũ, hoặc đang quét dọn nhà cửa, hay đang khâu vá những chiếc áo quần đã sờn rách… và chính lúc đó sứ thần Chúa xuất hiện. Chắc hẳn có người sẽ không dám "thích" như thế vì sợ sẽ làm giảm giá trị của việc truyền tin: "Một sự kiện trọng đại như thế mà lại diễn ra trong một khung cảnh tầm thường kia ư?"

Thưa Mẹ, theo con chính cái tầm thường kia lại càng làm nổi bật vẻ trọng đại của sự việc, càng làm cho con người thấu hiểu hơn sự liên kết sâu xa giữa Thiên Chúa và kẻ Ngài yêu mến, bởi vì đối với những người nghĩa thiết thì đâu chẳng là nơi gặp gỡ, hà tất phải cần đến một căn phòng khách sang trọng mới hàn huyên tâm sự được ư?

Và chính trong khung cảnh tầm thường đó sứ thần đã nói lên lời chúc phúc: “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”, và kế đó là trọng tâm của sứ điệp: “Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai…”

Mẹ ơi, con hiểu tại sao lúc ấy Mẹ bối rối thốt lên: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào…?” Phải, Mẹ bối rối vì đã hiến dâng trọn vẹn con người và cuộc đời của Mẹ cho Thiên Chúa cốt để làm đẹp ý Ngài. Chưa bao giờ Mẹ dám nghĩ đến tước vị làm Mẹ Đấng Thiên Sai như biết bao thiếu nữ Ít-ra-en vẫn hằng mơ ước. Với Mẹ, chỉ cần ý Chúa được thực hiện thì lòng Mẹ hoan hỉ lắm rồi ; còn công việc, địa vị, dù trang trọng hay tầm thường thì trước mặt Chúa cũng chẳng có ý nghĩa gì. Chính trong tâm tình khiêm hạ và tín thác đó mà Mẹ đã được sứ thần cho biết: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà…" Không còn do dự, Mẹ khiêm tốn thưa với sứ thần: "Tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói."

Mẹ ơi! Trong cuộc đời của con cũng đã có biết bao lần Chúa gởi đến những sứ điệp tương tự như thế. Đó là những lúc con gặp những khó khăn, những bất ngờ trái ý. Những lúc đó, thay vì tìm xem Chúa muốn nói gì với con qua những sự kiện kia, thì con lại đâm ra cau có phàn nàn. Con không muốn làm những gì ngược với sở thích, vì thế con tìm đủ mọi lý lẽ để biện hộ cho mình: con đổ lỗi cho tất cả mọi thứ, trừ ra chính con! Ôi, thật tội nghiệp cho con, tội nghiệp cho tất cả những ai chỉ biết sống theo ý riêng của mình. Con quên rằng xưa kia Mẹ đã thưa “Xin vâng” với trọn tấm lòng. Cùng với tiếng “Xin vâng” đầy tín thác ấy, Mẹ đã gạt bỏ ý muốn của Mẹ để chọn ý Chúa làm ước nguyện của mình.

Mẹ ơi! Con vẫn hay mơ ước làm được những công việc vĩ đại vì danh Chúa, vì thế những chuyện vặt vãnh hàng ngày dễ làm con chán nản bực bội. Con mơ làm “thánh lớn” mà quên rằng cái lớn lao của sự thánh thiện không hệ tại ở việc làm nhưng hệ tại ở tâm tình khi làm nhưng việc đó: Mẹ không chỉ trở nên cao trọng vì được làm Mẹ Ngôi Hai Nhập Thể, mà có lẽ đúng hơn phải nói rằng: vì Mẹ đã đón nhận thánh ý trong mọi giờ khắc, mọi tình huống của cuộc đời, nên Mẹ đã trở nên cao trọng và được chọn làm Mẹ của Con Một Chúa Trời.

Lạy Trinh Nữ Ma-ri-a, xin dạy con biết đón nhận tất cả những gì xảy đến trong cuộc đời con với tâm tình của Mẹ khi nhận lời thiên sứ truyền tin. Xin dạy con biết cưu mang Chúa trong mọi cảnh huống của đời con bằng tiếng “Xin vâng” đầy tín thác của Mẹ ./.

Chị Thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su

Chị thánh Têrêxa lúc 8 tuổi


Hoán cải để nên như trẻ nhỏ (Mt 18,3)

Để trả lời câu hỏi của các môn đệ: “Ai là người lớn nhất trong Nước Trời?” , Chúa Giê-su đưa ra một mẫu mực tưởng chừng như trái ngược hẳn: “Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời.” Câu trả lời mới nghe qua thì nghịch tai – mà chân lý thì mới nghe qua đều thường nghịch tai như thế - nhưng cứ để cho nó thấm dần vào lòng mình, cứ để cho nó ăn lan vào mọi ngõ ngách của đời sống mình, cứ để cho nó trở thành một chuẩn mực để xác định các giá trị nhân linh trong cuộc sống, thì ta sẽ thấy nó không những không còn nghịch tai mà lại trở nên êm ái đằm thắm dễ nghe.

“Nên như trẻ nhỏ”, ý tưởng này làm tôi lập tức nghĩ đến hình ảnh hài nhi Giê-su Na-da-rét nằm co ro run rẩy trong cái máng súc vật ở ngoài đồng Bê-lem. Nên như trẻ nhỏ trước tiên hẳn phải là như thế, và để mà như thế thì quả là không đơn giản tí nào! Nếu chỉ nhìn vào em bé Giê-su nằm rét run đó mà thôi thì có lẽ vấn đề sẽ đơn giản thật. Thế nhưng, nếu ta chiêm ngắm cho thật thâm sâu thì ta sẽ thấy nơi em bé Giê-su đang ẩn chứa một điều hết sức vĩ đại: chính Ngôi Hai Thiên Chúa hiện diện trong cái hình hài nhỏ bé bình thường này. Điều không đơn giản là ở đó. Để nhập thể một cách trọn vẹn, không ‘đóng kịch’, Ngôi Hai Thiên Chúa đã phải tự hủy mình ra không, đã phải thật sự từ bỏ thiên tính của mình để đến xếp hàng vào trong đoàn lũ con cháu của A-đam: Ngôi Lời Sáng Tạo tự xếp hàng vào trong đoàn lũ loài người thụ tạo! Điều không đơn giản này vượt quá tầm mức suy tưởng của con người. Ta có thể nói một cách hơi ‘hàm hồ’ rằng Ngôi Hai Thiên Chúa đã phải “hoán cải” để nên một trẻ nhỏ: Ngài mang lấy mọi hệ luỵ từ thân phận thấp hèn như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Và chính hành động này đã khởi đầu cho một kỷ nguyên mới trong lịch sử loài người. Nếu không xúc phạm đến thiên tính của Chúa Giê-su thì ta có thể nói đây là sự “hoán cải” kiểu mẫu đầu tiên và vĩ đại nhất mà con người phải noi theo.

“Trở nên như trẻ nhỏ” là một công việc khó khăn, nhất là khi ta đã lỡ thành ‘người lớn’ mất rồi. Lại còn khó khăn hơn, khi ta tự cho là mình đã ‘trưởng thành’ trọn vẹn. ‘Người lớn’ thì có nhiều điều hay, nhưng cũng có lắm điều dở! Khổ một nỗi là ‘người lớn’ ít khi thấy được cái dở của mình, ít khi chịu khó đón nhận cái hay đến từ bên ngoài mình. ‘Người lớn’ tạo ra một thế giới trong đó họ là chủ, là nhà lập luật, là quan toà, là ... mọi sự cho chính họ. Thiên Chúa sẽ rất vất vả để có thể chen chân vào trong cái vương quốc riêng tư của họ, hoặc nếu có chen chân vào được thì cũng gặp nguy cơ trở nên thần dân của họ! Thiên Chúa khó mà ‘trị’ được ‘người lớn’. Đối với ‘người lớn’, Nước Thiên Chúa khó mà “trị đến” được!

Trẻ nhỏ thì không rắc rối phức tạp như thế. Trẻ nhỏ gọi: “Cha ơi!” rồi phó thác tất cả cho cha mình. Trẻ nhỏ không đòi quyền làm chủ, cũng không so đo hơn thiệt với cha mình. Tuy cũng có lúc nài nỉ vòi vĩnh, nhưng cuối cùng thì ý kiến của cha bao giờ cũng là nhất. Chúa Giê-su lúc đã ngoài 30 tuổi vẫn còn giữ nguyên vẹn nét trẻ nhỏ của mình khi Ngài thốt lên trong vườn Cây Dầu: “Cha ơi! Cha có thể làm được mọi sự, xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mc 14,36). Và cho đến giây phút cuối đời trên thập giá, Chúa Giê-su cũng không đánh mất nét trẻ nhỏ đó: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Quả thật Chúa Giêsu là mẫu mực tuyệt hảo cho những ai muốn thực hiện lối sống “nên như trẻ nhỏ”. Có thể nói rằng từ lúc sinh ra cho đến lúc chết Chúa Giê-su đã không hề ‘già’ đi bao giờ. Chúa Giê-su vẫn mãi mãi là trẻ nhỏ trước mặt Chúa Cha và chính vì thế Chúa Giê-su là người đầu tiên được Chúa Cha đón nhận vào Nước của Ngài: “Nếu anh em không quay trở lại mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18,3).

Trẻ nhỏ vẫn luôn miệng gọi: “Cha ơi!”, chính vì thế mà lời kinh Chúa Giê-su dạy cho các môn đệ là kinh “Lạy Cha”. Chúa Giê-su là mẫu mực của nếp sống “Nên như trẻ nhỏ” và Ngài cũng muốn truyền lại cho những kẻ theo Ngài cái bí quyết độc đáo này. “ Lạy Cha chúng con... “, đây chính là lời kinh của những trẻ nhỏ. ‘Người lớn’ thì ít khi chịu gọi Cha ơi ới như thế vì sợ mắc cỡ! Còn nên như trẻ nhỏ thì họ lại ngại ngần.

“Nên như trẻ nhỏ” vì thế đòi hỏi phải hoán cải. Hoán cải là bỏ đi con người cũ và mặc lấy con người mới. Đông phương ta có nói “Cải lão hoàn đồng” là cũng nằm trong ý nghĩa này. Bỏ con người cũ không dễ như bỏ một chiếc áo cũ và mặc lấy con người mới cũng không dễ như mặc một chiếc áo mới. Con người cũ ta bỏ đi vẫn sẵn sàng để trở về lại và con người mới ta vừa hình thành vẫn sẵn sàng để vuột mất đi. Hoán cải đòi hỏi phải nỗ lực và cậy trông liên lỉ. Nỗ lực với tất cả khả năng xác hồn mình có được và cậy trông trọn vẹn vào ơn Chúa. Sự hoán cải này chỉ hoàn tất vào cuối đời ta, khi ta lặp lại câu nói của Chúa Giê-su trên thập giá: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha.” Khi ấy, vĩnh viễn ta được trở nên trẻ nhỏ, vĩnh viễn ta được Chúa Cha nhận là con yêu dấu của Ngài ./.