Các Trang
Thứ Năm, 31 tháng 10, 2024
Kinh Chiều
Thứ Tư, 30 tháng 10, 2024
Thần học thiêng liêng (tiếp theo & hết)
Hồn của tông vụ không phải là nguyện
cầu, như Dom Chautard nghĩ, nhưng là đức Ái. Ðức Ái Chúa Kytô là hồn sống duy
nhất cho cả Hành lẫn Chiêm.
Theo
thánh Tôma, "toàn thiện cốt yếu ở huấn lệnh Chúa, trong có lời khuyên
(Phúc Âm)... Nhưng cả lời khuyên lẫn huấn lệnh đều quy về đức Ái cả". Do
đó theo Gustave Thils, để đi vào tinh thần và ý nghĩ của lời khuyên Phúc Âm,
cần ghi tạc sống động vào lòng sự liên đới ấy của lời khuyên với đức Ái.
K.
Rahner cũng coi "toàn thiện Kytô giáo là ở sự hoàn thiện đức Ái
thôi". Ðức Ái ấy mở đồng thời về phía Thiên Chúa và loài người, nên rất
nhân bản, mà cũng hoàn toàn siêu nhiên, lại có tính cách chung và siêu thế. Do
tính cách chung và siêu thế, siêu nhiên, cũng như vì sự hoàn thiện đức Ái ở mặt
này, mà việc thanh luyện từ Trời phải thật gắt gao.
Tân Ước thích nhìn đức Ái dưới
dạng Agapê, nhưng Cựu Ước lại quen ngắm nó như một Erôs.
Thật ra, Yêu trong Hy ngữ có tới
ba động từ để chỉ: Fileô, Erômai và Agapaô. Người ta dùng Fileô cho những đối
tượng thanh cao, có khi trừu tượng, như Theo-filos, kẻ yêu Thiên Chúa; như
filo-sofia, sự yêu đại trí, tức triết học. Người ta dành Erômai khi nói đến
những mối tình say đắm, tình lứa đôi. Còn Agapaô là yêu vị tha và cao thượng,
hợp với cách thẩm định của lý trí, như giữa cha con với nhau, một thứ yêu
chuộng (estime). Có lẽ Fileô thì không đủ, còn Erôs trong thực tế lại quá
nghiêng về nhục dục và chiếm hữu, nên để khỏi hiểu lầm, các tông đồ và giáo phụ
đầu tiên cố tránh từ ngữ đó. Thế nhưng các huyền nghiệm nhân sau này, nhất là ở
phái nữ, hình như không thể diễn tả hết sự thân mật trong kinh nghiệm mà lại
không nhờ đến ý tưởng Erôs.
Ðức Ái của giai đoạn đầu, giai
đoạn Minh minh đức (illuminativa), dù ảnh hưởng mạnh đến đâu, cũng chỉ làm nên
những Vượng cảm (consolation) với độ cồn quá yếu. Ðể nồng thành men say, ngọt
thành mật vị (gout, theo tiếng gọi của Tiên Sa), mật trấp (nước mật), thì đức
Ái thiên phú phải trực tiếp vào cuộc. Có điều vì nó là một thứ mật và lửa mới
mẻ, mà cảm năng lại chưa quen, nên không cảm nhận chi hết. Nếu trong Chiêm, thì
đây là Ðêm tối; nếu trong Hành, hẳn đây là Ðơn lạnh. Ðêm tối và Ðơn lạnh sẽ
giúp khiếu năng tri và cảm cai sữa và lọc trong, nhờ đó đức Ái thiên phú có thể
nổi hẳn lên và làm chủ cuộc sống.
Khi Thần Khí đã làm chủ cảm tính
(và ý chí) hoàn toàn bằng Tín-Vọng-Ái thiên phú, thì cảm tính hết còn gây nguy
hiểm, khiến hành giả có thể yêu thương tự nhiên, khi mà nước tự nhiên ấy đã hòa
tan trong sông biển của siêu nhiên rồi:
Như thế, đức Ái thiên phú không
hề đối lập với tình yêu tự nhiên. Khi nó đã chiếm hữu hoàn toàn cảm tính rồi,
thì hòa tan trong siêu nhiên, tình yêu (tự nhiên) sẽ bội tăng sức mạnh.
Bước tiến của đức Ái đi từ thủ
đắc sang thiên phú. Tới thiên phú, thì đó là huyền nghiệm. Ðến lượt huyền
nghiệm đức Ái cũng tiến nữa, và tiến từ nông sang sâu. Kịp đến khi đạt hết
chiều sâu, thì như trong chiêm, nó lại tràn ra hết bề mặt, để không còn phân
biệt giữa trong với ngoài, giữa tự nhiên với thiên phú, cũng như giữa yêu Chúa
với yêu anh (chị) em. Ðây là Hôn nhân thiêng liêng, và đường tiến tới cao điểm
ấy có thể là chiêm hay hành cũng được.
Ở trên, chúng ta đã đặt ra hai
mốc chính của tiến trình đức Ái: mốc thủ đắc và mốc thiên phú, mốc chủ động và
mốc thụ động.
Nếu xét về hiệu quả ở đức hạnh,
cũng được phác họa nhiều thứ tiến trình khác, của đức Ái minh nhiên hay mặc
nhiên. Thánh I nhã chẳng hạn nói đến Ba hạng người và Ba cấp khiêm nhường. Ở Ba
hạng người, thì cao nhất là kẻ siêu thoát, chỉ muốn điều Chúa muốn thôi. Ở Ba
cấp khiêm nhường, thì siêu thoát lại ở hạng hai, còn chỗ cao nhất dành cho kẻ
vượt trên bất thiên, đã chọn nghèo túng và sỉ nhục để nên giống hoàn toàn với
Chúa của lòng mình.
Yoan Thánh Giá trình bày một
thang cấp khác, thang muời bậc, nó chi tiết hơn:
-- cấp
dưới cùng: không thiết chi ngoài Chúa.
-- cấp
hai: khắc khoải kiếm tìm một mình Chúa.
-- cấp
ba: thấy Chúa thánh thiện đến nỗi, bất cứ gì tôi làm, tôi cũng thấy bất xứng
cả.
-- cấp
bốn: yêu mạnh đến nỗi muốn làm bất cứ gì có thể vui lòng Chúa, chứ không nghĩ
đến mình.
-- cấp
năm: khát Chúa đến nỗi như không đợi chờ nổi.
-- cấp
sáu: tình yêu rất thanh khiết và phát triển đến nỗi ta tiến rất lẹ, bay rất
nhanh.
-- cấp
bảy: đức Ái mạnh đến nỗi vượt trên mọi toan tính, khiến hành giả lớn mật, bạo
gan, chẳng gì mà không dám làm vì Chúa.
-- cấp
tám: thuộc về kẻ đã tìm thấy cái mình thiết tha ao ước, nên an thỏa hoàn toàn
(trong Ðấng lòng mình yêu). Tình trạng ấy, trong giai đoạn tám này, chỉ đạt
được từng lúc và trong thoáng chốc thôi.
-- cấp
chín: đã được thanh lọc thuần khiết và cảm nhận Chúa có mặt thường hằng, nên
lửa dù bốc rất cao, mà lửa ấy vẫn êm dịu, ngọt ngào. Hẳn đây là Hôn nhân thiêng
liêng, chỗ mà chiêm và hành không còn khoảng cách, chỗ mà từ đó sang vĩnh phúc
chỉ còn một bước thôi, lúc cuộc sống chấm dứt rồi.
-- cấp
mười: chỉ đạt ở thiên quốc, chỗ mà hồn thấy Chúa trực diện bằng cái nhìn trong
suốt, cái nhìn nó biến hồn nên giống Chúa như in.
Ðức Ái thập cấp của Yoan Thánh
Giá đúng là đức Ái của chiêm nhân. Quả là ở vài giai đoạn giữa và cuối, nó có
thúc bách hành động đấy, nhưng hành động mới được coi như hậu quả của chiêm lại
chưa đủ nhấn mạnh, cũng như yêu người chưa được nối liền ngay với yêu Chúa. Cho
nên, để tạo thế quân bình giữa hành và chiêm, phải đưa yêu người và tiếng gọi
lên đường vào buổi gặp Chúa đầu tiên. Vâng, tiếng gọi của Chúa luôn là tiếng
gọi lên đường lưỡng diện: tìm Chúa ở nội tâm và tìm hạnh phúc của loài người.
Ngay lúc gặp Phêrô trong mẻ cá thứ nhất, Chúa đã hứa: Ta sẽ biến anh thành ngư
phủ kéo cá người! Và khi gặp lại các tông đồ sau Phục Sinh, Chúa sai họ đi
giảng và làm phép Rửa. Vâng, sự gặp gỡ Chúa luôn đi đôi với tiếng gọi lên
đường.
Thế nhưng, vì người ta có những
khả năng và khuynh hướng rất khác nhau, nên Chúa có thể mời một số người vào
con đường tu ẩn. Có điều dù tu ẩn, họ vẫn phải tham gia vào sứ mệnh mở Nước
Cha, tham gia bằng hy sinh cũng như cầu nguyện. Như thế, người ta có thể mở
Nước Cha và nên thánh hoặc bằng con đường Hành, hoặc bằng con đường Chiêm. Kẻ
đi con đường Chiêm và Xuất thế trình bầy bộ mặt cánh chung và siêu thế của Ðạo.
Còn kẻ đi con đường Hành và Nhập thế thì làm chứng cho việc Nhập Thể của Ngôi
Lời. Hai con đường và hai loại người có thể bổ túc cho nhau vì ý nghĩa kép ấy
của Nước Chúa nhờ vào nhất tính của Hội Thánh huyền thân Chúa Kytô.
Dù Chiêm hay Hành, nếu nên thánh
thì bước tiến vẫn là từ đức hạnh thủ đắc sang đức hạnh thiên phú, do đó huyền
nghiệm là cần. Huyền nghiệm chẳng qua là biểu hiện của đức thiên phú khi nó vào
cuộc thẳng với cuộc sống chúng ta. Vâng, chỉ có Tín-Vọng-Ái thiên phú mới đủ
sức làm những thanh lọc cuối cùng và đưa đức hạnh đến đỉnh cao của nó. Vả cũng
chính sự vào cuộc trực tiếp của thiên phú mới chuyển hẳn cuộc sống và công việc
sang cho đầu tầu Thần Khí, nhờ đó hoàn tất sự Thuận Thiên của chúng ta. Có điều
ý thức về huyền nghiệm (huyền nghiệm ánh sáng trong chiêm) không phải là cần.
Một huyền nghiệm phảng phất vì tiềm ẩn trong cuộc sống và hành động mới là điều
không thể thiếu cho sự hoàn thành thánh thiện nơi chúng ta.
Huyền nghiệm là sự vào cuộc trực
tiếp của các đức thiên phú chúng đến thanh lọc tận căn và đốt nóng đến độ chót.
Bởi thế, huyền nghiệm rất cần để ta nên thánh, nhất là thánh cao. Thế thì làm
sao để nên thánh, nhất là thánh cao, những con người suốt đời bôn ba vì Nước
Chúa, không có nhiều giờ chuyên chiêm được? Vậy hẳn phải có một thứ huyền
nghiệm khác cho hành nhân, huyền nghiệm ấy hẳn không sáng lên được như trong
chiêm, do đó mà gần như không có nghiệm tri, không được ý thức.
Nếu huyền nghiệm trong chiêm
thiên về sáng và tác động đến các khiếu năng tri thức, thì huyền nghiệm trong
hành hẳn nghiêng về nóng và xâm chiếm đến cảm tính và ý chí thôi, nên đương sự
gần như không thấy chi, mà hành động cũng không hề bị cản trở.
Nếu trong chiêm, ánh sáng mới làm
khiếu năng không quen mà thấy tối, thì trong hành, lửa mới do không quen mà cảm
tính cũng thấy đơn côi, vắng lạnh. Ðây là lúc Tín-Vọng-Ái thiên phú bắt đầu vào
cuộc, sẽ thay chỗ dần cho các đức đắc thủ vốn yếu ớt, khiến từ đây cuộc sống và
hành động sẽ do Thần Khí làm chủ hoàn toàn.
Tùy theo độ sâu của tác động đức
Ái-Vọng thiên phú mà có những biểu hiện trong đức hạnh khác nhau, chúng nói lên
những cấp bậc khác nhau của thánh thiện. Cấp cao nhất sẽ là một với Hôn nhân
thiêng liêng, điểm hẹn cho cả Chiêm lẫn Hành.
Nguồn: https://vntaiwan.catholic.org.tw/syquy/thlieng.htm
Thứ Ba, 29 tháng 10, 2024
Thần học thiêng liêng (tiếp theo)
Huyền Nghiệm Hành Ðộng
và Tiến Trình Ðức Ái
Như chúng ta thấy (ở chương 29),
huyền nghiệm mang tới một thanh lọc tận căn, đi đôi với sự nấu sôi đức Ái đến
độ chót. Sở dĩ được thế, là vì năng đức thiên phú tiến thẳng vào cuộc sống,
thay vì thấm vào từng giọt qua cố gắng tu thân của ta. Nhất là với tự ái và sức
nặng thể xác, chỉ có đêm tối mới nạo vét được tới đáy cái Tôi, chỉ có đức Ái
Chúa mới nâng cao tới sự nhẹ nhàng của tinh thần. Như thế, xem ra không thể nên
thánh nếu không qua mái trường huyền nghiệm.
Thế nhưng một tông đồ, ngày đêm
bù đầu với công việc làm sao có nhiều thì giờ và sự rảnh rang để chuyên chiêm,
hầu đạt tới ánh sáng chan hòa của huyền thức? Như chúng ta đã thấy (ở chương
29), để tới đỉnh cao là Hôn nhân thiêng liêng, phải trải qua những giai đoạn
"tập sự" và thanh luyện kéo dài ở An tĩnh, Hoàn hiệp, Xuất thần,
chúng gần như không cho phép làm gì, nói chi đến làm nhiều.
Thế thì phải chăng để nên thánh,
cần bớt việc tối đa, hầu có thể cầu nguyện rất dài, rất lâu? Quả thật, rất
nhiều thánh mục tử, như cha sở Ars, phải dành cả đêm để cầu nguyện, ngủ thì hầu
như không còn, mà ăn chỉ tí ti.
Có điều đâu phải mọi thánh đều
huyền tri, hay ít là huyền tri ở mức cao? Lắm vị, dù cầu nhiều đấy, mà chẳng
huyền nghiệm chi đáng kể, như trường hợp Vinh Sơn Phaolô, Phan Sinh Xavier,
Tiên Sa Lisieux, vv... Nghĩa là người ta vẫn thánh mà không xuất thần chi hết.
Vì thánh là ở đức hạnh, nhất là đức Ái, thế mà đức Ái cũng như mọi đức đều phát
triển bằng cả hành lẫn chiêm, với một bên nổi bật. Nghĩa là dù chiêm nhân cũng
phải phục vụ phần nào, dù hành nhân cũng có lúc phải tâm sự sâu xa với Chúa.
Quả thật, con người chỉ đáng người khi có đời sống nội tâm phong phú và đời sống
đạo đức sâu xa. Và có như thế, thì hành động của họ mới có một hướng đi thiêng
liêng thật.
Thế nhưng, để đức Ái phát huy hết
sức mạnh, nó phải vọt thẳng từ trong ra, từ Trời xuống, để thiên phú thay thế
dần đắc thủ. Khi thiên phú nhập cuộc để trực tiếp lèo lái cuộc đời anh như thế,
thì dù không sáng rõ một huyền thức, cũng phải chắc có một huyền nghiệm nào
rồi, và đây là huyền nghiệm hành động, nó nghiêng về sống nghiệm hơn là về
nghiệm tri (do đó khó hiển lộ ra).
Vì tính cách lờ mờ, sơ thoảng của
thứ huyền nghiệm này, cũng như vì hành nhân thiếu sự rảnh rang để quan sát nội
tâm, nên chẳng thấy ai ghi lại sự kiện, cũng như chẳng ai dựa vào để phân tích
cả.
Bởi đây là điều cần biết, lại
chưa có người khai phá, nên chúng ta đành mò mẫm vậy. Vì phải mò, nên dễ sai,
lại không có gì nhiều để nói. Bởi thế, phải xin lỗi bạn đọc trước khi múa
dìu...
Ðể tìm hiểu huyền nghiệm hành
động vốn chưa có người khai lối, có lẽ tốt nhất nên dựa vào những gì nghiệm
chiêm có thể cung cấp, mà bắt đầu là Hôn nhân thiêng liêng nó chẳng những là
tột điểm của huyền chiêm, mà tột điểm của huyền hành nữa. Vâng, ở Hôn nhân
thiêng liêng, không hề còn khoảng cách, thậm chí phân biệt giữa chiêm với hành.
Bởi lẽ ở đây người ta sống và nghiệm Chúa từ trong ra đến ngoài, từ trên xuống
đến dưới, từ tri thức sang hành động. Vâng, Hôn nhân thiêng liêng đúng là đỉnh
cao và điểm hẹn của cả hai con đường hành và chiêm.
Thấy huyền nghiệm hành động ở chỗ
hoàn tất của nó rồi, chúng ta có thể từ đấy, ngược dòng bằng suy tưởng về điểm
khởi phát để dựng nên những mốc đánh dấu bước tiến.
Hôn nhân thiêng liêng vừa là điểm
cực sáng của tri thức, vừa là điểm cực nóng của tình yêu, mà bước tiếp theo hẳn
là vĩnh phúc rồi. Kẻ theo đường chiêm, khi tới Hôn Nhân thiêng liêng, sẽ được
thôi thúc hành động cho "Nước Cha mở đến", khi mà hành động ấy không
còn ngăn trở anh chiêm hưởng Chúa. Kẻ theo con đường hành, lúc tới Hôn nhân
thiêng liêng rồi, cũng chiêm hưởng Chúa bằng chính công việc của mình. Ðúng như
các sứ đồ xưa, khi gặp Chúa (hiện ra) cũng là lúc được sai đi dạy dỗ và làm
phép Rửa.
"Hỡi
chị em, hồn mà Chúa chọn làm nơi ở đặc biệt, hồn ấy không còn biết đến nghỉ
ngơi, cũng chẳng màng danh lợi, không thiết được chuộng quý. Hồn luôn cận kề
bên Chúa, nên hồn chẳng nghĩ chi đến mình. Mối bận tâm duy nhất của hồn là làm
sao để làm vui lòng Chúa, là làm cách nào để biểu lộ tình yêu với Chúa đây. Mục
đích cầu nguyện là thế đấy, chị em ạ. Hôn nhân thiêng liêng luôn thúc ta làm
hết việc này đến việc khác, và đấy là dấu hiệu ơn Chúa".
Có điều hẳn bạn thắc mắc: Nếu Hôn
nhân thiêng liêng là kết quả của nhiều năm tháng nghỉ ngơi trong An tĩnh, Hoàn
hiệp và Xuất thần như thế, thì sao có thể đạt tới đấy kẻ trên đường phục vụ
luôn phải truân chuyên?
Xin thưa: Như Yoan Thánh Giá cho
thấy, huyền nghiệm không những là ánh sáng, mà còn sức nóng nữa. Nếu
Tín-Vọng-Ái ở chiêm nhân nghiêng về nghiệm trí, thì nơi hành nhân, chúng ắt
nghiêng về nghiệm cảm muốn, do đó các khiếu năng và quan năng chẳng cần ngưng
nghỉ, mà chỉ cảm tính vào cuộc thôi. Sự thanh luyện và tăng cường cho đức Ái
chỉ nhờ vào độ nóng của đức Ái ấy. Còn ánh sáng của Tri thì thoảng qua đôi lúc
cũng đủ.
Nếu trong chiêm, ánh sáng từ
trong hừng lên những độ sâu khác nhau, thì cũng ở những độ sâu khác nhau ấy mà
đức Ái bốc nóng cho hành nhân cảm nhận. Sự phân cấp huyền nghiệm, trong hành
cũng như trong chiêm, tùy vào những độ sâu nói trên. Nếu những độ sâu trong
nghiệm tri giúp xác định các giai đoạn An tĩnh, Hoàn hiệp, Xuất thần..., thì
trong cảm nhận của hành nhân, ắt cũng có gì vừa tương đương (xét theo độ nóng
êm của đức Ái, độ trơn tru của Thuận Thiên), vừa tương phản (như Ðộng đối
nghịch Tĩnh) với những hiện tượng ấy.
Trong chiêm, mỗi khi xuất hiện
một thứ ánh sáng mới, sẽ có một đêm tối chuẩn bị, thì trong hành, mỗi khi xuất
hiện một thứ lửa mới, cũng có những pha chuẩn bị, bằng cảm nhận đơn côi, vắng
lạnh, chắc thế, chúng phù hợp hơn với danh xưng "hoang mạc" (désert)
mà huyền nghiệm học Ðức dùng thay chữ Ðêm tối trên kia. Vậy, để đối lập với đêm
tối của chiêm, ta tạm dùng chữ Ðơn lạnh vậy.
Ðơn lạnh cấp một có thể là cảm
giác chán chường và vô vọng trong hành tác, mà không thấy nguyên nhân (tương
ứng với Ðêm tối giác cảm). Ðơn lạnh cấp hai sẽ là cảm giác tuyệt vọng, thấy như
Chúa bỏ ta và công việc ta làm, trao mặc nó cho ma quỷ. Vâng, Ðơn lạnh trong
Hành chắc tập trung vào đức Vọng, trong khi đêm tối tinh thần của chiêm nhân
thường tập trung ở đức Tin.
Cũng như Ðêm tối, sự Ðơn lạnh ấy
không thể không diễn ra khi đang từ sinh hoạt đức hạnh đắc thủ chuyển sang sinh
hoạt đức hạnh thiên phú. Có đơn lạnh, vì khiếu năng hành động chưa quen được
với những khách mới tới, do đó có vô cảm, trục trặc hay đất sụt lở dưới chân.
Có đơn lạnh khi vét nạo tới đáy để thanh lọc ý chí, tâm hồn, để thuần hóa con
ngựa bất kham là các khiếu năng tâm sinh lý cho một cuộc sống và hành động khác
trước.
Cốt lõi của nên thánh và hiệu quả
của tông vụ nằm ở Thuận Thiên: Thuận Thiên vì yêu. Sự Thuận Thiên phải đổi
chiều từ cố gắng của tôi làm theo ý Chúa, sang sáng kiến của Chúa hoạt động
thẳng trong ý muốn và hành động của tôi. Sức hút của ý Chúa ấy bắt đầu xâm nhập
ý chí tôi, để rồi từ ý chí lan sang các khiếu năng, khuynh hướng và năng lượng
tâm sinh mọi mặt, từ thẳm sâu ra tới cuộc sống, làm sao để cuối cùng, không còn
một đề kháng dù đức lý hay tâm lý, không còn một ma sát dù ở bề mặt hay bề sâu.
Ở điểm hoàn tất này, chúng ta có Hôn nhân thiêng liêng qua ngã đường hành động.
Trong Hành, giống như trong
Chiêm, trước huyền nghiệm sẽ trải dài một thời gian chuẩn bị, cả bằng tập đức
lẫn sửa thói xấu, nhất là vét rỗng tâm bằng những từ bỏ và thử thách nhiều mặt.
Ðây là Ðêm (chủ động) của giai đoạn Khởi và Tiến. Có điều đây là Khởi và Tiến
trong hướng tiến về Thành ở huyền nghiệm hành động, chứ không phải ở huyền
nghiệm chiêm hưởng.
Cũng như trong Chiêm, kẻ thực sự
ở trên tiến trình là kẻ ước muốn nên thánh, tận tâm tận lực vì Nước Trời. Kẻ
thực sự có ước muốn mạnh như thế dĩ nhiên là kẻ đang sốt sắng, nên làm việc
cũng hăng, mà nguyện cầu cũng hết sức.
Có điều cũng như trong Chiêm, kẻ
đang minh minh đức (via illuminativa) thường tàng giấu nhiều tự cao, tự ái, ỷ
mình và ưa tích lũy thiêng liêng, nghĩa là coi nên thánh như một cách làm giầu.
Thế rồi, trong khi mải mê công việc, họ có thể quên dần mục đích và ý nghĩa
siêu nhiên của nó, đến nỗi sinh "ghiền việc", lại muốn gắn nhãn hiệu
của mình trên công việc.
Khi ấy, những thử thách Chúa gửi
đến, những chống đối và trở lực gặp phải, sẽ giúp họ nhìn ra sự yếu đuối và bất
lực của mình. Trong tông vụ, họ chỉ là công cụ và "đầy tớ vô ích" khi
mà hiệu quả siêu nhiên chỉ có thể do một nguyên nhân siêu nhiên. Chỉ khi nào họ
hết hám danh, vụ lợi và tự ái, chỉ khi nào họ hết nương cậy vào sức mình mà chỉ
trông chờ ở Chúa thôi, Chúa mới vào cuộc hoàn toàn, để việc của họ nay trở
thành việc của Chúa.
Sự vét rỗng và thuần hóa bằng Ðêm
ấy ắt không thể đạt tới căn gốc con người. Ðể đạt tới căn gốc này, phải có sức
nóng thiên phú, do đó đêm tối hành động, tức Ðơn lạnh. Thấy đơn côi đấy, mà
thật ra có Chúa cận kề. Thấy lạnh lẽo đấy, mà thật ra nóng quá: tại chưa quen
sức nóng mới, nên vô cảm.
Ðức Ái thiên phú, cùng với bầu
đoàn thê tử các đức thiên phú khác đã nhập cuộc thẳng rồi. Chúng đến thế chân
các đức thủ đắc vốn quá yếu để hoàn tất việc tinh chế những "con người của
Chúa" (homme de Dieu), nhờ đó chuyển công việc của người thành công việc
của Trời. Vâng, huyền nghiệm hành động chẳng qua là hoạt động của các đức thiên
phú. Các đức ấy hiển lên nơi con người hành động bằng cái mà thần học kinh viện
gọi bằng tên Ðặc Huệ Thánh Thần (dons du Saint-Esprit). Qua đặc huệ và đặc
sủng, Thánh Thần nhảy vào dẫn dắt anh trực tiếp, để tự hành động trong công
việc của anh nay cũng thành công việc chính hiệu của Ngài.
Các đức thiên phú nói trên, bắt
đầu làm câm lặng cảm tính để thanh lọc, tinh chế và thuần hóa nó, cùng với các khuynh
hướng kèm theo, cho một phong cách hành động hoàn toàn mới. Việc của hành nhân
từ nay không còn là tự ý lèo lái công việc, mà buông mình theo tác động Thần
Khí để làm theo và làm với Thần Khí.
Thứ Tư, 23 tháng 10, 2024
Thần học thiêng liêng (tiếp theo)
Trong thời gian của những giai
đoạn huyền nghiệm nói trên, có thể diễn ra một số kinh nghiệm ngoại thường
như khải mạc (révélation), huyền ngôn (parole)
(Trong Nhật ký thiêng liêng, I-Nhã nói đến Loquela nội tâm và ngoại giới, hẳn
đó là huyền ngôn. Trong huyền nghiệm Ấn Ðộ, còn thấy nói đến âm thanh và màu
sắc ánh sáng) và huyền kiến (vision). Huyền kiến có thể
được coi như gò đống nổi cao lên giữa cánh đồng huyền nghiệm. Còn huyền ngôn và
mạc khải là những hiện tượng bất thường, kẻ có người không.
Bàn về huyền kiến và huyền tượng,
chúng tôi chỉ nhắm đề ra những tiêu chuẩn giúp phân biệt giả chân, những quy
tắc giúp tùy nghi ứng phó. Ðể được thế, cần biết đâu là địa tầng tâm lý ở đó
diễn ra huyền kiến này hay huyền tượng kia.
Ðối tượng của huyền tượng hay
huyền kiến có thể được cảm thấy như ở ngoài hoặc ở trong tôi. Ở ngoài khi do
cảm giác (vì cảm giác hướng ngoại), nghĩa là chính giác quan bị tác động. Mà để
tác động được vào chúng, chỉ cần sóng điện từ hay sóng đàn hồi thôi. Vâng, chỉ
cần bắt chước những sóng ấy mà tác động vào thính giác hay thị giác, là khiến
nhìn thấy hình ảnh nhân vật này, tiếng nói của quỷ thần kia rất dễ. Và đây là
trường hợp Maisen nghe tiếng Chúa trong bụi cây (Xh.3.2tt.), Bernadette nhìn
thấy Ðức Mẹ ở Lộ đức. Trái lại, khi Marguerite Marie Alacoque gặp Chúa bằng
"nội giác", thì đây là huyền kiến hình tưởng (vision imaginaire):
Chúa tác động vào trí tưởng của nữ thánh, để nơi ảnh tượng tâm lý ấy, Ngài có
mặt đặc biệt với chị và chị cảm nhận Chúa trong tâm hồn mình.
Tiên sa Avila và I-Nhã Loyola nói
đến huyền kiến Ba Ngôi của họ. Huyền kiến Ba Ngôi luôn là huyền kiến tuệ trí,
và huyền kiến tuệ trí chính yếu là về Ba Ngôi, đôi khi cũng về một mầu nhiệm
nào khác. Ba Ngôi khi ấy hoặc ở dưới dạng phân biệt, hoặc ở dưới dạng đồng thể.
Không biết đây có gì giống với huyền kiến yếu thể (d'essence), huyền kiến về
Thiên Chúa ở chỗ là bản nguyên: "Cha thì không ai biết" (Yo. 1.18 ;
Lc. 10.22) hay không?
Nếu kinh nghiệm Ba Ngôi của I-Nhã
nghiêng về hiểu, của Tiên sa nghiêng về hiện diện, thì thật ra hai vế đều có,
bởi tri đây là nghiệm tri, là tri ở thần (noũs), và thấy đây cũng bằng thần
nốt. Ðúng như Yoan Thánh giá hiểu, huyền kiến dù hình tưởng hay tuệ trí, là cả
sáng và nóng một lượt, với một trong hai vế nổi bật hơn.
Khi Thiên Chúa trao đổi trực tiếp
với hồn từ gốc (substance) Ngài đến gốc hồn (trong huyền kiến tuệ trí), thì
Satan không bén mảng tới nổi, nên ta tuyệt đối an toàn (Trao đổi "từ bản
gốc đến bản gốc" có thể diễn ra trong huyền kiến tuệ trí, trong mạc khải
về chính Thiên Chúa, thường dưới dạng Ba Ngôi). Satan dù có khuấy phá ở bề mặt
cũng chỉ uổng công thôi, vì Chúa đã neo vững hồn nơi Ngài tự bề sâu ấy. Có
điều, như I-Nhã nhận xét, phải phân biệt lúc huyền nghiệm thực với thời gian
liền sau, khi mà dư âm còn mạnh, khiến không rõ lằn ranh, nhưng Satan và bản
tính thì dễ dàng nhập cuộc rồi.
Cảm giác, cảm tính và trí tưởng
(thiết nghĩ phải kể cả tư tưởng nữa) là những mảnh đất vô chủ, mà ở đó cả thần
ác, thần lành và bản tính đều tung hoành được, nên rất khó nhận ra ai là tác
giả của trò chơi này, vở tuồng kia. Bởi thế, theo Yoan Thánh giá, không nên ham
và tin vào các huyền kiến và huyền tượng vốn diễn ra trên địa bàn ấy. Ðó đây
từng giờ phút, thiếu gì những vụ việc như "Ðức Mẹ hiện ra",
"Thánh Thần nhập", "hồn hiện về", "Chúa Cha
phán", v.v... Về quỷ thì, theo Yoan Thánh giá, hắn thường được thấy xuất
hiện dưới những hình thù khủng khiếp, nhưng cũng có khi dưới lốt thần lành. Một
đôi khi trong tích tắc, hắn đến "từ tinh thần đến tinh thần" với hồn
ta, và đây là một cảm nhận khủng khiếp, làm chết ngay được nếu kéo dài.
Thay
vì chia thành hai loại huyền kiến hình tưởng và tuệ trí như người khác, Yoan
Thánh giá lại phân thành ba:
-
huyền kiến hình thể (corporelles) qua giác quan hay trí tưởng.
-
huyền kiến thiêng liêng hữu niệm hay hình thể. Huyền kiến trước là những gì lý
trí hiểu nổi, còn huyền kiến sau có thể liên quan đến những gì sẽ xảy ra.
-
huyền kiến thiêng liêng thuần túy khi không còn qua cảm giác, ảnh tượng tâm lý
hay ý tưởng (mô thức) gì nữa. Huyền kiến thiêng liêng thuần túy, ở chỗ hoàn hảo
của nó, chỉ diễn ra ở trên Trời; còn ở mức khiếm khuyết thì một số thánh có thể
trải qua. Loại này chắc chắn là huyền kiến tuệ trí rồi.
Ðối với huyền kiến hình tưởng (và
ắt hẳn cũng thế đối với các huyền kiến do cảm giác cũng như các huyền tượng
khác), sau đây là những tiêu chuẩn giúp xác định nguồn gốc Thiên Chúa của
chúng:
1. Ấn tượng chúng để lại rất sâu
sắc, qua nhiều năm tháng không thể mờ phai. Có điều theo tâm lý học chiều sâu,
những gì từ vô thức tập thể vọt lên cũng đề lại ấn tượng sâu bền như thế.
2. Hiệu quả sẽ là sự ngọt dịu,
nhất là bình an sâu xa trong tâm hồn.
3. Hiệu quả còn là sự phát triển
đạo đức, mà đặc biệt là của đức khiêm nhường và thuận Thiên.
Riêng I-Nhã đề ra một quy tắc
phân định thần căn về các hiện tượng thiêng liêng nói chung: Chỉ đúng là do
Chúa cái gì từ bắt đầu suốt cho đến kết thúc đều tốt, nhất là càng lúc càng
tốt. Bởi thế, nếu cái gì bắt đầu tốt, mà rồi kém tốt dần, để cuối cùng không
tốt nữa, như cám dỗ đức tin và nhục dục, như cảm nhận tự phu, tự cao, ghét ghen
v.v..., thì đúng là có cái đuôi của thần ác đâu đây rồi.
Từ
lâu tại Việt Nam, ngoài những tin đồn về Ðức Mẹ hiện ra, quỷ hiện hình, hồn báo
mộng, còn thấy nói đến Ðức Mẹ ám, thậm chí cả Chúa Cha và Thánh Thần cũng ám
nữa. Ðúng là ÁM, vì các Ngài nhập vào để dùng miệng của chị này, ông nọ mà phán
nhân danh mình. Vâng, không phải Chúa nói với họ để họ nhân danh Ngài đi nói
lại với người khác đâu (Như trường hợp các ngôn sứ, Bernadette, v.v...), mà
Chúa (hay Ðức Mẹ) sử dụng miệng lưỡi và thân xác họ như công cụ vô tri để dùng
ngôi thứ nhất mà nói thẳng với chúng ta, giống như Quan Công " "thánh
phán" trong những cuộc lên đồng vậy.
Chúng ta thừa biết, đây không phải là cách xử sự của Chúa và các thánh vốn tôn trọng bản vị chúng ta, nên không thể " nhập vào" và " ám" chúng ta như quỷ quen làm. Vâng, dù trong Cựu ước hay Tân ước, dù nơi các huyền tượng được Hội thánh công nhận từ xưa đến nay, không hề có việc Chúa " ám" hay " nhập" như thế cả.
Huyền nghiệm chân chính là một
tri nghiệm siêu nhiên diệu huyền, nó diễn ra ở những độ sâu khác nhau của nội
tâm. Gốc nền của chúng là thứ kinh nghiệm siêu nghiệm (transcendantal) và căn
bản về Thiên Chúa ở tận đáy sâu vô thức: kinh nghiệm do Tín-Vọng-Ái thiên phú.
Huyền nghiệm căn bản này, qua đời
sống đức tin, nếu phát triển vượt mức, có thể được Chúa cho lộ ra phần nào ở ý
thức bằng huyền nghiệm. Chỗ hoàn tất của huyền nghiệm sẽ là huyền kiến vinh
phúc. Vậy huyền nghiệm chính là dự báo của vĩnh phúc, do đó đáng ước ao.
Huyền nghiệm, cùng với Ðêm tối,
có sức lớn lao để thanh tẩy tâm hồn, phát huy đức hạnh, nhất là gia tăng mạnh
đức Ái, nên vô cùng hữu ích cho việc nên thánh. Có điều với nên thánh, nó chỉ
là một phương tiện, lại chẳng tuyệt đối cần.
Huyền nghiệm thường được chuẩn bị
bằng lòng sốt sắng nên thánh, bằng cố gắng tu đức, cầu nguyện và suy niệm kiên
trì.
Huyền nghiệm là do Chúa phú và nó
đến từ trong, thường với tiến trình bốn bước: An tĩnh, Hoàn hiệp, Xuất thần và
Hôn nhân thiêng liêng.
Với An tĩnh, sức hút mới chỉ chạm
ý chí. Với Hoàn hiệp, các khiếu năng bị xâm chiếm hết, xem như ngủ yên. Với
Xuất thần, cả giác quan và thân xác cũng vào cuộc. Với Hôn nhân thiêng liêng,
mọi sinh hoạt trở lại bình thường khi mà chiêm hết ly cách với hành, khi mà
Chúa có mặt thường hằng với ta.
An tĩnh là kinh nghiệm ngọt ngào
khác thường, nó được sửa soạn bằng An tĩnh khô khan (Ðêm tối giác cảm). Tuy
không suy niệm được và hết sốt sắng, nhưng hành giả yêu thanh vắng và chẳng
thiết sự đời.
Hoàn hiệp mang tới một vị ngọt
ngọt hơn, một an định sâu xa hơn, mà kết quả là một đức hạnh kỳ diệu.
Với Xuất thần, hành giả thành thụ
động hoàn toàn. Huyền kiến thường xảy ra, còn hồn thì vô cùng khổ trong một nỗi
sướng vô cùng lớn.
Trong Hôn nhân thiêng liêng, hồn
chỉ còn thiết tha với ý Chúa và vinh quang Ngài, cũng như hạnh phúc của loài
người tất cả. Sự kết hợp vô cùng sâu và thường hằng với Chúa không còn ngăn trở
hành động nữa.
Trong tiến trình huyền nghiệm
trước Hôn nhân thiêng liêng, hồn phải trải qua những đợt thanh luyện khốn cực
bằng Ðêm tối giác cảm và Ðêm tối tinh thần. Thật ra, Ðêm tối là thứ ánh sáng
mới hẳn khiến hồn nhìn không thấy, và lửa nóng cũng mới khiến hồn không cảm
nhận được, thế thôi.
Chủ Nhật, 20 tháng 10, 2024
Thần học thiêng liêng (tiếp theo)
Trong đêm tối, không phải chỉ có
tối. Theo kinh nghiệm và hiểu biết của Yoan Thánh giá, thì vì chói bằng ánh
sáng quá sáng lại chưa quen, nên lóa mắt người ta chẳng thấy gì. Vâng, đây là
khởi đầu của một ánh sáng và sức nóng mới. Ta ngỡ ngàng vì không còn cảm nhận
chi (bằng những khiếu năng thường), nhưng giữa tối tăm ấy vẫn có một hiểu biết
(và yêu thương) nào đó thấp thoáng ở bề sâu.
Vậy đêm tối là một cái gì tích
cực, với chức năng kép là sáng soi và thanh tẩy. Ðây là thanh luyện luân lý nó
thiêu hủy thói xấu và tự ái. Ðây là thanh luyện tâm lý nó lấy đi chỗ dựa là
những khiếu năng quen thuộc, là sản phẩm của chúng (như ảnh tượng, ý tưởng...)
cùng tập quán tri cảm cũ xưa.
Ðêm tối có hai cấp, cũng là hai
giai đoạn, với đêm tối giác cảm (nuit des sens) là cửa vào và đêm tối tinh thần
(nuit de l'esprit) là cửa ra. Vì thế, nói đến tiến trình huyền nghiệm, không
thể không nói đến những đoạn đường hầm phải qua là các cấp loại đêm tối ấy.
- Ðêm tối giác cảm
Sau lâu năm chuyên cần suy niệm,
tới giai đoạn nào đó, chỉ cần một ý tưởng thôi, đủ cho anh sốt sắng hằng giờ:
anh đã đạt chiêm hưởng thủ đắc (contemplation active, acquise) rồi đó. Ðể từ
chiêm này chuyển sang chiêm thiên phú hay thụ động (contemplation infuse,
passive), Chúa phải dẫn anh qua Ðêm tối giác cảm nó thanh luyện anh cả về mặt luân
lý lẫn tâm lý, trong khi bắt đầu phú cho anh một thứ nghiệm tri mới từ trong đi
ra.
Ðây là lúc hồn không thể nhiều ý
nhiều lời trong quan hệ với Chúa nữa. Hồn không thể hành ý (discourir) vì cảm
thấy chán ngán, khô khan. Tệ hơn nữa, còn gặp cám dỗ về đức tin và nhục dục.
Ðêm tối giác cảm đã là bắt đầu
huyền nghiệm, chỗ mà hẳn Tiên sa đã gọi bằng tên An tĩnh khô khan (quiétude
aride) nó dẫn vào An tĩnh dịu êm (quiétude suave). Một thứ tia hồng ngoại nó
vượt qua ngưỡng (seuil) nghe và cảm, khiến sáng quá thành tối, nóng quá thành
lạnh đối với ta.
Ðây là thứ khô khan khác hẳn
những khô khan bình thường, do tình trạng tâm sinh hay do lầm lỗi. Nếu do tình
trạng tâm sinh, thì trạng thái ấy qua rồi, sốt sắng hẳn trở lại ngay, và ta suy
niệm dễ. Nếu do thiếu cố gắng, từ chối hy sinh, tìm ý mình hay lỡ chân sa ngã,
thì tuy ngại đến với Chúa, người ta chẳng ngại đến với thụ tạo đâu. Bởi thế,
sau đây là dấu hiệu của kẻ gặp đêm tối thực: Tuy không thể suy niệm nhưng họ
kiên trì trong cầu nguyện, lại ưa thanh vắng, lo phiền lòng Chúa, và chẳng
thiết tha sự đời. Bởi thế, họ rất khổ vì khô. Khô đây không phải là không yêu,
mà khát yêu (soif d'amour). Sự khát yêu hay "lo hoảng vì yêu"
(angoisse d'amour) ấy xuất hiện đôi phen vào lúc không hiểu tự đâu lòng bỗng bốc
lửa bằng một thứ lửa dị kỳ. Và lửa ấy có thể phụt lên từng chập, như tia bắn
vậy (angoisse d'amour d'inflammation).
Ðêm tối giác cảm là thuốc cai sữa
nó giúp ta bỏ dần thức ăn trẻ nít, và đây là sự thích ngọt, quen lấy tình cảm
làm thước đo thánh thiện. Vụ vào tình cảm mà tình cảm lại gần gũi với cảm giác,
người ta dễ bị quỷ đội lốt thần lành đến dẫn ta qua thứ đạo đức ướt át thoái
dần về phía nhục dục chả hạn lúc nào không hay. Lại nữa, lính mới trên đường
tiến đức cũng là kẻ mang nhiều ở ba lô sau lưng những tự mãn, tự phụ và tự ái,
mà đêm tối phải đến tiêu hủy bằng cách lột trần hết cho hồn thấy rõ sự khốn
cùng và bất lực của mình.
Vậy trong giai đoạn Ðêm tối giác
cảm hay An tĩnh khô khan ấy, hãy cố đi vào khiêm nhường và đơn sơ phó thác.
Ðừng ham hành ý (discourir) nữa, mà bằng lòng với thứ chiêm ngưỡng thuần túy
(contemplation pure) hay chiêm ngưỡng dường như không đối tượng, để nhìn bằng
thứ "nhìn suông" (regard simple), như không thấy Chúa đâu. Một cách
đơn sơ nữa, hãy yêu Chúa vì Chúa, chứ đừng vì an ủi, cũng đừng theo thói
"tham ăn thiêng liêng", cố tích góp thật nhiều, hết việc lành này đến
công lao khác. Trong lúc ấy, nhờ ánh sáng không sáng và lửa không nóng, Chúa sẽ
làm việc ở bề sâu vô thức anh, đốt cho các tật xấu và trở lực tâm lý héo khô đi
tự gốc. Tâm hồn anh nhờ vậy cũng trở nên trầm tĩnh và đạt tới niềm an định sâu
xa.
- Ðêm tối tinh thần
Ðêm tối tinh thần diễn ra ở độ
sâu nhất của nội tâm, ở chỗ gọi là Thần (noũs, buddhi), chỗ mà tri nghiệm không
còn phân ly với yêu thương, nhưng vì hết thảy xuất phát từ trong, nên khác lạ
với thức tri và cảm ở bề mặt ý thức. Ðây là thứ ánh sáng thuần túy, không có
bụi trần phản chiếu, nên không cho nhìn thấy gì. Ðây cũng là tình yêu không làm
rung dây đàn xác thịt, nên cũng không cho cảm thấy chi. Không rung lên ở dây
đàn tâm sinh tự nhiên, nên yêu không bốc lửa (inflammation) như đôi phen trong
đêm tối giác cảm, do đó không có yêu say đắm (passionné), mà chỉ có yêu ưa
chuộng (estimatif), yêu theo đánh giá của tinh thần. Do nghiệm định và đánh giá
ấy mà có đói khát dù không cảm đói khát, bởi thế sinh lo hoảng vì yêu, lo sợ
mất Chúa, tưởng như bị Ngài bỏ. Cũng thì lo hoảng vì yêu như ở đêm tối giác
cảm, nhưng lại diễn ra ở độ sâu nền tảng, nên đớn đau ghê gớm.
Ðây là đêm đầy ánh sáng, lạnh đầy
sức nóng, nhưng sáng có thể dồi dào hơn nóng (nghiêng về hiểu) hoặc ngược lại
(nghiêng về tiếp xúc trong yêu). Sáng đây là thứ sáng khác, thứ trực tri bằng
"cảm thức thần linh". Tia sáng này phát ra từ mặt trời bên trong,
"tia sáng của tối tăm" theo cách gọi của thánh Denys. Nóng đây cũng
là nóng ở độ sâu vô cảm, nên hủy thiêu đến rễ, nạo vét đến đáy, đến xương,
khiến hấp hối trong một thứ đau không hiểu nổi. Y như lửa nó vừa soi sáng, vừa
đốt củi cháy đen. Có gì như lao mình vào tay đấng mình yêu, mà lại bị đấng ấy
cự tuyệt, đánh bật ra khỏi Ngài. Thử tưởng tượng cú sốc!
Ánh sáng và tình yêu này diễn ra
tận đáy linh hồn, chỗ chỉ có một mình Chúa tiếp xúc và tiếp xúc thẳng với tôi,
như "từ gốc tới gốc" (substance à substance), khiến Satan không bén
mảng tới được, mà chỉ có thể khuấy phá gián tiếp từ ngoài, ở lớp giác cảm và
hình tưởng.
Thứ Năm, 17 tháng 10, 2024
Thần học thiêng liêng (tiếp theo)
- Hoàn hiệp (union
pleine)
Trong giai đoạn trước, lý trí,
trí nhớ và trí tưởng còn hoạt động được. Ðôi phen, một trong ba bị hút, nhưng
chỉ giây lát thôi. Hoàn hiệp bắt đầu khi các khiếu năng ngủ hết, mà ngủ không
hoàn toàn. Hoàn hiệp chỉ diễn ra chừng nửa giờ chi đó, nhưng đã ở trên đường
dẫn tới Ðính hôn (xuất thần), rồi Hôn nhân thiêng liêng.
Nói ngủ (sommeil des puissances)
như Tiên sa, cốt là để chỉ thứ tĩnh lặng của các khiếu năng đang bị hút vào
Chúa, ở bề sâu của hồn. Chúng như ngưng hoạt động, không để ý đến đời phía
ngoài và mình phía trong. Lý trí đôi khi cựa quậy, tìm xem cái gì đang diễn ra
mà kỳ diệu thế, nhưng rồi chẳng hiểu, nó lại nằm im. Có thể xem như yêu đấy, mà
chẳng rõ yêu gì và yêu cách nào. Vâng, khiếu năng gần như im lặng với tất cả,
trừ Chúa. Xác do đó bị ảnh hưởng: chân tay không cử động và đời sống thực vật
chậm lại, dù chưa có xuất thần.
Tuy hoàn hiệp diễn ra chừng nửa
giờ, nhưng tỉnh lại thì dường như mới bắt đầu thôi, bởi ý thức thời gian đã
mất. Tỉnh rồi thì biết rõ mình vừa ở nơi Chúa. Cảm nhận tuy không rõ nét, nhưng
ấn tượng rất sâu, đến nỗi không thể mờ phai theo chiều dài năm tháng.
Ðây là sức hút rất mạnh của Chúa
từ bên trong, mạnh hơn ở giai đoạn trước rất nhiều, nên vị ngọt cũng ngọt lịm
khác xa trong An tĩnh. Cả niềm xác tín về Hiện diện cũng thật lớn lao. Sự kết
hợp với Chúa gần như đã trọn vẹn, với kèm theo một an định sâu xa.
Con người luân lý vì thế đổi lốt
hoàn toàn, tới mức kỳ diệu. Lửa Ái nung nấu khiến anh phải gào lên trong tán
tụng bằng những lời bi bô, không thứ tự nào cả (Có gì giống như lời chúc tụng
bằng ơn dị ngữ trong buổi họp Thánh Linh), trong khi lòng cũng khát mong cho
mọi người tán tụng theo như thế. Yêu Chúa, anh rất quảng đại trong hy sinh, sẵn
sàng chịu điêu đứng vì Chúa, dù cái chết hay hỏa ngục, sẵn sàng làm những gì
khó nhất để tôn vinh Chúa, dù phải đảo lộn thế giới này. Nghĩ đến tội lỗi người
đời, anh như đứt từng khúc ruột và muốn xả thân cứu vớt.
Trong hoàn hiệp, trí năng như ngủ
hoàn toàn. Tuy chẳng hiểu gì, nhưng hành giả lại hiểu rất nhiều chỉ trong tích
tắc bằng thứ trực giác đầy bề sâu nó mang đến một cái biết "không chính
xác rõ ràng" kiểu Descartes, nhưng lại vượt xa mọi thứ biết trước đây. Do
trực giác, cũng là nghiệm giác ấy, những chân lý trừu tượng quen thuộc như
"Có Thiên Chúa", "Chúa có khắp chốn", "Tôi đến từ hư
không" nay bỗng thành hiển nhiên, cụ thể vô cùng.
Ở giai đoạn An tĩnh, chiêm hành
vẫn còn phân cách. Sau Hoàn hiệp, chị bắt đầu hành động với sự có mặt cảm thấy
của Chúa. Dẫu sao, hơi hướm Chúa từ chiêm ra đã mờ nhạt phần nào. Cả yêu người
cũng chưa thành một hẳn với yêu Chúa đâu. Trong hành động, Chúa vẫn còn khoảng
cách nào đó như vậy, khiến cho Satan vẫn quanh quẩn đâu đây, và sự cảnh giác cần
được duy trì. Trong giai đoạn này, Satan thường xuất hiện dưới lốt thần lành để
đưa anh xa dần ý Chúa và gần lại ý anh. Vậy thái độ cần cho anh là luôn trông
chờ "cho ý Cha thực hiện" !
- Xuất thần hay Ðính
hôn
Sức hút có thể tăng cường độ đến
nỗi các khiếu năng bị xâm chiếm hết, rồi cảm giác cũng cuốn theo. Ðây là trời
mưa, nên xảy ra vào lúc tôi không ngờ, mà cũng không cưỡng lại nổi.
Hồi đầu, chỉ có xuất thần sau lâu
giờ cầu nguyện. Sau này, chỉ cần một ý tưởng thôi, là đủ bốc thần lên khỏi xác.
Hồi đầu, xuất thần diễn ra từng đợt ngắn liên tiếp. Về sau, nó có thể kéo dài
một hơi suốt cả ngày.
Cũng hồi đầu, khiếu năng đôi lúc
còn cựa quậy; chứ sau đó, chúng an giấc hẳn, cả giác quan cũng thế luôn. Nhìn
từ ngoài, xem như đương sự ngất xỉu. Có điều nếu ngất xỉu, thì khiếu năng tắt
mạch, mà giác quan cũng ngưng tiếp xúc với thế giới. Chứ đằng này, tất cả chỉ
bị hút mạnh về phía trong, đến nỗi quên hết thảy. Một đôi khi, như trong trường
hợp Phan Sinh nghèo và Catarina Siena, đương sự có thể xướng lên mạc khải để
người ngoài ghi chép.
Trong Tự truyện, dù
nói đến ba chữ Xuất thần, Ðoạt thần và Phi thần, Tiên sa cho rằng chỉ có một
hiện tượng (dưới ba danh hiệu ấy) thôi. Nhưng theo diễn tả trong Lâu
đài, thì có vẻ đây là ba tiểu cấp khác nhau của Xuất thần, mà bước một là
Xuất thần đơn.
Với Xuất thần đơn (extase
simple), việc "lịm đi" diễn ra từ từ, với cảm nhận đau khổ vô song,
mà cũng sung sướng vô ngần. Trong giai đoạn này, huyền ngôn (paroles
surnaturelles) và mạc khải dễ xảy ra.
Việc xâm chiếm sẽ mạnh như gió
cuốn, đại bàng xớt mồi, khi tới cấp Ðoạt thần (rapt, ravissement). Cảm giác như
ngưng tắt khi ấy, bởi nếu cảm giác còn hoạt động bình thường, thì ắt xác chết
mất do không chịu nổi.
Khi Ðoạt thần quá mạnh, đến nỗi
thấy như hồn lìa khỏi xác, đất sụt dưới chân, thì đó là Phi thần (vol
d'esprit). Trong Phi thần, xác thường được nâng lên khỏi đất.
Trong Ðoạt thần hay Phi thần,
tình yêu có thể phụt lên thành tên lửa xuyên suốt, chỉ
trong nháy mắt thôi, mà đau không gì sánh nổi, sướng không sao tả được.
Nói chung, thì ở giai đoạn Xuất
thần, tình yêu không có vị ngọt thuần túy. Sướng khổ được cảm nhận đồng thời,
hòa lẫn với nhau. Thấy Chúa thật đáng yêu, mà khoảng cách lại còn đó, thì sướng
đấy cũng là rất khổ vậy. Chính vì yêu khát và khát yêu như lửa dễ bốc, nên hơi
tí là xuất thần ngay.
Dẫu sao, vàng vẫn chưa thuần
thành, nên luyện lọc còn phải tiếp, nhất là khi rời bỏ cung sáu sang Hôn nhân
thiêng liêng. Ðêm tối mà Chúa gửi lúc này thường là đêm tối tinh thần, nó cạo
rửa tới đáy sâu, nền tảng nhất, nên cũng rát đau kinh khủng, như địa ngục vậy.
Một trong những đêm tối như thế là cảm giác bị Chúa ruồng bỏ. Phải chăng đây có
gì giống với kinh nghiệm của Chúa Yêsu: "Cha ơi, sao nỡ bỏ con"?
Gần Chúa quá rồi, không thể vấn
vương gì với thụ tạo nữa. Yêu Chúa vì Chúa thực tình rồi, hồn chẳng muốn sướng
riêng cho mình, mà muốn mọi người cùng hưởng với mình. Vì Chúa, hồn có thể làm
những gì thật táo bạo.
Trong cung sáu nói trên, hồn gặp
nhiều huyền kiến, cả hình tưởng lẫn tuệ trí, nhờ đó đi sâu vào những mầu nhiệm
cao cả. Chỉ như một tia chớp lóe lên, và hồn nắm được ngay cả mớ chân lý, mà dù
một đời học hỏi cũng không có được, xét cả về khối lượng lẫn chiều sâu.
- Hôn nhân thiêng
liêng, hay Hóa hiệp (union transformante)
Ở đây, cùng với giác quan và thân
xác, các khiếu năng vẫn sinh hoạt bình thường. Chiêm không còn tách khỏi cuộc
sống, và giữa chiêm hành cũng chẳng có chi khác biệt. Chúa có mặt không từng
lúc như trước đây, mà thường hằng trong cảm nhận của anh, có mặt mà không làm
gián đoạn công việc nữa. Nghĩa là khi bận bịu, anh vẫn cảm nhận Chúa có đó một
cách phảng phất, như hai vợ chồng yêu nhau cùng làm bên nhau trong một gian
phòng. Kịp đến lúc rảnh rang, chỉ cần nghĩ tới, là anh lại "đối diện"
ngay với Chúa, thật sung sướng biết bao. Dù cường độ của "gặp gỡ" gia
tăng, nhưng bão táp thì chẳng còn. Yêu thật nhiều đấy, mà thuyền vẫn đằm, chứ
không đong đưa trên đầu ngọn sóng. Nghĩa là dù lửa lớn bên trong, dù cuồng
phong bên ngoài, một bình an sâu xa vẫn ngự trị và tỏa bóng tới ngoại diện con
người hành giả.
Từ đây, Chúa và hồn "tuy hai
mà một" khi mà nước mưa đã hòa với nước sông, và nước sông tới biển đã hòa
trong nước biển. Chúa và hồn như cũng trao đổi với nhau những quan tâm của đôi
bên. Chúa thì lo đến sự an toàn và lợi ích của hồn, khiến hồn thâm tín không
bao giờ bị Chúa bỏ, bị Chúa rút lại sự có mặt thường hằng của Ngài. Còn hồn thì
không còn thiết sống hay chết, địa ngục hay thiên đường, mà chỉ lo đến vinh
quang của Chúa và hạnh phúc của anh em.
Tình yêu Chúa quả không còn
khoảng cách với tình yêu anh em nữa. Hễ thấy ai khổ, là hồn khổ lây trong Chúa
nỗi đau khổ của họ. Hồn sẵn sàng dấn thân dù vào địa ngục để cứu nếu còn có thể
cứu. Lại dù yêu ai đến đâu, hồn không thể yêu ngoài Chúa, mà yêu vì hạnh phúc
của họ trong đức Yêsu Kytô.
Không bị treo nữa, nên các khiếu
năng dự vào những gì mà thần (noũs, esprit) đang hưởng. Trí năng có thể hiểu
đôi chút, bằng cách siêu thường, về những gì mà thần đang nghiệm tri. Có thể
nói cuộc sống trở nên một huyền nghiệm kéo dài. Và huyền kiến trong giai đoạn
này thường là huyền kiến tuệ trí về Ba Ngôi. Với hồn, Ba Ngôi có mặt khi thì
dưới dạng phân biệt (từng ngôi), lúc lại dưới dạng đồng nhất (một vinh quang,
một thể). Có thể có biểu tượng đi kèm: ngọn lửa hay đám mây sáng theo kinh
nghiệm Tiên sa Avila, hình tròn trắng hay trái cầu trắng trong kinh nghiệm
I-nhã.
Thứ Hai, 14 tháng 10, 2024
Thần học thiêng liêng (tiếp theo)
Tiến trình huyền nghiệm, hay
chiêm thiên phú, bắt đầu với cung bốn hay cách tưới hai, được gọi là An tĩnh
(quiétude). Kế đó đến Hoàn hiệp (union pleine), đến Xuất thần (extase) cũng gọi
Ðính hôn thiêng liêng (fiancailles spirituelles), để rồi tận kết với Hôn nhân
thiêng liêng (mariage spirituel).
Với An tĩnh, Chúa chỉ xâm chiếm ý
chí (theo Tiên sa), xâm chiếm có lẽ mới đến "mũi nhọn linh hồn" gì
đó. Với Hoàn hiệp, Chúa lấn thêm các "khiếu năng bên trong" (facultés
intérieures) là trí hiểu (entendement), trí nhớ và trí tưởng (imagination). Có
lẽ phải thêm cảm tính nữa, dù không được nói đến. Khi Chúa tiến ra đến giác
quan và thân xác (trở nên cứng đơ), thì có Xuất thần. Theo Tiên sa, khi từ
trong ra đến ngoài, tất cả được Chúa chiếm lĩnh một cách thường hằng và vững
chắc, trong hành cũng như chiêm, thì người ta đạt Hôn nhân thiêng liêng.
Theo
các nhà tu đức học, thì huyền nghiệm diễn ra cốt yếu không ở các khiếu năng
thường, mà ở "mũi nhọn linh hồn" nào đó. Theo siêu tâm lý học Ấn độ
cổ, huyền thức sinh ra từ cái khiếu năng siêu vi, vượt mọi khiếu năng thường,
và đó là Buddhi, tuệ trí. Buddhi tuy chưa phải tinh thần, nhưng giãi sáng tinh
thần. Buddhi là đỉnh chót của tâm nó tiếp xúc trực tiếp với Tinh thần thuần túy
(Purusïa).
Tâm
lý học ngày nay đã khám phá vùng tối tăm hay vô thức ở tâm, tại đấy cũng có
biết, muốn, cảm, nhưng bằng thứ biết, muốn, cảm xa lạ với khiếu năng biết,
muốn, cảm thông thường. Lại xem ra càng vào sâu vô thức, thì biết, muốn và cảm
càng khó phân ly và phân biệt với nhau.
Vậy
khi Tiên sa nói rằng Chúa chỉ xâm chiếm ý chí, chắc chị đã diễn tả kinh nghiệm
khó hiểu, "gió không biết từ đâu" (Yo. 3.8) này theo hiểu biết tâm lý
của người thời ấy. Thiết tưởng chị muốn nói đến cái sức hút ở bề sâu không đáy,
mà lý trí đã không hiểu, lại chưa có phần nữa, nên còn cựa quậy, lang thang.
Chúng
ta biết rằng cái thiên phú thì từ trong tiến ra, nên không phát hiện từ ngoài
được. Cái thiên phú đã sẵn đó ở đáy vô thức, và đây là việc biết và yêu Chúa
bởi ân sủng. Biết và yêu ở đây là do Tín-Vọng-Ái thiên phú, nên cũng vô thức
luôn. Khi tầng ý thức (conscient) và tiền thức (préconscient) đã được quét dọn
và sửa sang để chỉ còn hướng đi Ý Chúa, thì ánh sáng và sức nóng thiên phú kia
sẽ tỏa dần đến vành đai, để do ân Chúa có thể lấn sang ý thức phần nào, khiến
nó lóa mắt và kinh ngạc trước một cái gì chớp lên từ bề sâu, cái như vô sắc vô
thanh đối với lý trí. Chỉ khi sức hút từ trong đủ mạnh, thì các khiếu năng bị
hút theo cũng bặt im luôn. Im tiếng cuối cùng sẽ là cảm giác nó kéo theo sự
ngưng trệ hoạt động của các chức năng thực vật.
Xét
về hình thức và biểu hiện, huyền nghiệm Kytô-giáo khá giống với Samâdhi (đại
định) Ấn, Phật giáo. Samâdhi là một kinh nghiệm đơn giản và diệu kỳ, gồm nhiều
cấp nhưng quy về hai cấp chính: cấp hữu thức hữu niệm (samïprajnỵâta) và cấp
siêu thức siêu niệm (a-samïprajnỵâta). Gọi hữu thức hữu niệm khi mà tri thức dù
huyền bí và đơn giản, vẫn còn hiểu được bởi ý thức và qua ý tưởng. Ðồng thời
vẫn còn đối tượng được biết khác với chủ thể biết, dù chủ thể nằm trong đối
tượng ấy. Ánh sáng khi đó thật chói chang và niềm hoan lạc lớn lao.
Khi
hoan lạc như tan ra trong một an tĩnh dị thường ở bề sâu, thì xem ra chỉ còn
tinh thần thuần túy, cũng chẳng còn phân biệt vui buồn, khách (đối tượng) chủ
nơi sự an định sâu xa và thoát tục này. Vâng, ánh sáng đã trở nên trong suốt,
nên thấy hết mà chẳng thấy chi (rõ ràng ở đường nét, hình danh). Lại thấy đồng
thời (chứ không theo diễn tiến trước sau của tư tưởng), thấy trong cùng một lóe
chớp (sphutïa) bên trong và bằng một trực giác siêu thường (param pratyaksïam) nó
đi thẳng đến đối tượng cụ thể, không trừu tượng. Và đây là đại định siêu niệm,
siêu ý thức.
Trong
giai đoạn trực tri này, mọi cảm giác và tư tưởng đều bặt im, khiến ta có thể
gọi bằng ngôn ngữ Tiên sa là Xuất thần. Vì theo Tiên sa, trong xuất thần, mọi khiếu
năng đều ngơi nghỉ, và cảm giác cũng "treo" luôn. Vậy xét về biểu
hiện và hình thức, đại định siêu ý thức quả là Xuất thần. Còn đại định trước có
gì khá giống với An tĩnh (Oraison de quiétude) khi mà, như Tiên sa diễn tả, ý
chí được xâm chiếm nên lặng yên, còn mấy khiếu năng kia vẫn lang thang, nghĩa
là còn hiểu biết, tư tưởng và lý luận.
* * *
Trở lại với Lâu đài của
Tiên sa Avila, chúng ta hãy bắt đầu với bước thứ nhất:
- An tĩnh (quiétude)
Huyền nghiệm khai mạc với An tĩnh
khô khan (aride) nó chuẩn bị cho An tĩnh chính yếu là ngọt ngào (suave).
An tĩnh khô khan là một thứ đêm tối giác cảm, tối
không do thiếu sáng cho bằng chói sáng, theo giải thích của Yoan Thánh giá.
Vâng, Thiên Chúa bắt đầu gửi đến một ánh sáng hoàn toàn mới, hoàn toàn mạnh,
khiến anh tối tăm mặt mày. Ðây là tri thức từ đức tin thiên phú, ở đáy vô thức
chiếu lên. Ðây là sức nóng từ đức Ái thiên phú ở tinh thần tỏa đến. Bên trong
và bên ngoài bắt đầu đối mặt. Vì đối mặt lần đầu nên chưa nhận ra nhau: tối tăm
và khô khan là do đó. Không còn suy niệm, tức hành ý (discourir) được nữa, mà
cũng chẳng còn cảm, hưởng chi.
Tuy không thấy sốt sắng như
trước, nhưng tình yêu (ưa chuộng, d'estime) lại mạnh, khiến khổ vì vắng Chúa,
lo vì sợ phiền lòng Ngài. Lại yêu thích thanh vắng và chẳng thiết gì cả. Chứ
nếu khô khan trước Chúa mà chẳng ngán thụ tạo, thì đó không phải đêm tối, không
do Chúa làm đâu.
Những cám dỗ có thể xảy ra trong
kỳ này là cám dỗ đức tin, cám dỗ nhục dục, cám dỗ kiên nhẫn.
Khi tâm hệ phía ngoài đã quen với
ánh sáng mới và tình yêu Chúa (yêu mà không thấy nóng) đã dọn quang rác rưởi
của yêu mình, thì hồn sẽ hưởng một hoan lạc chưa từng biết, và đây là An
tĩnh ngọt ngào (quiétude suave). Cái vị ngọt này không phát sinh
mảy may từ cảm tính bề mặt, mà thấm từ sâu thấm ra, khác hẳn với thứ vượng cảm
gặp trước đây trong chiêm thủ đắc (acquise) (Tiên Sa Avila phân hẳn vị ngọt ấy,
mà chị gọi là Goût, khẩu vị, ra khỏi vượng cảm thông thường mà chị gọi là
Contentement, vừa lòng - Lâu đài IV.1). Tuy tình cảm dạt dào, nhưng chìm trong
thanh tĩnh. Sức hút mãnh liệt, khiến hồn neo vững ở bề sâu, dù bên ngoài còn
sóng nhỏ vật vờ do lý trí và trí tưởng lang thang. Sức hút rồi có thể từng đợt
mạnh hẳn lên, và một khiếu năng nào đó bị chiếm đoạt trong một thời gian ngắn
ngủi.
Sức hút bề sâu và an định ngọt
ngào sẽ bón thúc cho vườn đức hạnh trổ hoa muôn sắc, và ngăn cản thế tục không
cho lôi kéo anh nữa. Thế nhưng sự ngọt ngào kia chỉ đến như từng cơn thủy
triều, khiến cho nguy cơ tuột dốc còn đó, và hồn không thể lơ là canh gác được.
Ngay cả lúc Chúa viếng thăm, hồn vẫn nhiều ít phải cố gắng. Ðây là cố buông
mình theo ơn Chúa thúc động, cố kìm giữ cho khiếu năng khỏi khuấy động giấc ngủ
thiêng liêng. Cố nữa đôi lúc để thêm một cọng rơm cho lửa đang cháy bằng một
cái liếc mắt, một lời thở than ngắn ngủi. Vâng, một cọng rơm là đủ, chứ cả mớ
củi (của lý luận hay bài kinh) có thể làm lửa kia tắt mất.
Ngoài những khi lửa cháy mạnh như
thế, hãy lưu ý kẻo do sai lỡ, do tự mãn tự phụ mà lửa Ái ấy lụi tàn. Hãy tự
khiêm và nuôi dưỡng lòng kính sợ. Hãy nhớ kỹ rằng chỉ có Chúa là tác giả của
cơn say thiêng liêng kia, còn tôi chỉ việc ngửa tay đón nhận. Chẳng có thể tạo
ra nó, tôi cũng không giữ nó nổi thêm một giây, do đó đừng gồng mình lên làm
gì, chỉ hại thần kinh vô ích.
Nhiều kẻ yếu thần kinh, hễ tưởng
gì thấy nấy, và đó là hoang tưởng, rất nguy hiểm. Nên nhớ, kẻ yêu Chúa thật là
kẻ tìm Chúa chứ không tìm an ủi hay những kinh nghiệm lạ. Nhất là khi trong cái
chuộng lạ, còn ẩn ngầm tính háo danh.
Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2024
Thần học thiêng liêng (tiếp theo)
Tiến trình huyền nghiệm được
trình bày rõ và chi tiết nhất trong hai cuốn Tự truyện và Lâu
đài của Tiên sa Avila.
Tự truyện so sánh tri nghiệm với bốn cách tưới
vườn, mà huyền thức bắt đầu với cách tưới thứ hai. Tưới cấp một bằng nước kín
từ giếng, nên vất vả thì nhiều, mà tưới tẩm chẳng bao nhiêu. Tưới cấp hai thì
bằng gầu guồng, nước khá dồi dào lại đòi ít công sức, nên có giờ ngơi nghỉ
trong Chúa, và đây là huyền nghiệm An tĩnh (quiétude). Tưới cấp ba do nước
suối, nước sông, gần như chẳng vất vả gì, mà nước lại ngấm đầy tất cả: đây là
Hoàn hiệp (union pleine) với các khiếu năng ngủ hết (sommeil des puissances).
Tưới cấp bốn thì do mưa tưới, nghĩa là Trời làm, khiến cho mọi khiếu năng, thậm
chí giác quan, đều ngưng hoạt động. Hiện tượng này có tên gọi Xuất thần
(extase).
Mười hai năm sau khi hoàn
tất Tự truyện, Tiên sa khởi công Lâu đài mà chị
viết xong cùng năm 1577. Có lẽ vào thời Tự truyện, chị chỉ biết đến
Xuất thần, còn bây giờ sang Lâu đài, chị đã tiến xa để có thể thao
thao bất tuyệt về Hôn nhân thiêng liêng. Quả thế, trong Lâu đài,
ngoài ba bậc An tĩnh, Hoàn hiệp và Xuất thần ra, có thêm Hôn nhân thiêng liêng
nó làm nên cung (phòng) bảy. Nói rõ hơn. Có bốn cấp huyền nghiệm, từ cung bốn
đến cung bảy. Còn ba cung hay ba cấp đầu là của phần Thực hành (Pratique) chuẩn
bị. Sách Lâu đài này, Lâu đài nội tâm hay Lâu
đài linh hồn, cũng được gọi là Sách các (cung) phòng nữa.
Tại sao lại gọi cung phòng, hay
nơi ăn chốn ở? Tiên sa coi hồn như lâu đài Chúa ngự. Lâu đài ấy là một khối pha
lê trong suốt, với các cung Chúa ở được sắp theo thứ tự từ ngoài vô, cũng là từ
dưới lên. Chỗ cao nhất chính là chỗ sâu nhất theo cách hiểu của Augustin:
"Chúa cao vượt chỗ cao nhất của tôi và sâu vượt chỗ sâu nhất của tôi (Bắt
đầu từ đây, chúng ta tiến vô Lâu đài, vô từng phòng từ dưới
lên và từ ngoài vào. Chúng ta đi dưới sự hướng dẫn của Tiên Sa Avila khi mà chỉ
có chị được ơn biết lối. Nhưng chúng ta sẽ cố diễn giải lại cách diễn giải của
chị theo những hiểu biết mới hơn của chúng ta về thần học và tâm lý học. Nên
nhớ, cả Yoan Thánh Giá lẫn Tiên Sa đều trình bày huyền nghiệm trong khuôn khổ
của hệ thống ba bậc: Khởi, Tiến, Thành).
* * *
Có thể coi cung một và hai thuộc
giai đoạn thanh tẩy, còn cung ba dành cho cấp tiến đức (proficiens). Thuộc cung
một là kẻ đang tội lỗi nay nghĩ lại đôi phen và nhìn ra tình trạng tệ hại của
mình. Họ bắt đầu ăn năn và vật lộn khó khăn với thói hư tật xấu.
Cuộc chiến với nết xấu tiếp nối ở
cung hai, khi mà sa ngã đã bớt và đứng dậy dễ dàng. Người ta bắt đầu suy niệm
thật sự và nghe ra tiếng Chúa đôi phen.
Cung ba thuộc những ai đang tích
cực tiến đức. Họ cố tránh phiền lòng Chúa dù nhẹ thôi. Họ cầu nguyện lâu giờ và
đi vào con đường hy sinh, khổ hạnh.
Như
đã nói ở chương trước và đầu chương này, kẻ thật sự trên tiến trình nên thánh
là kẻ mong tiến xa, chứ không loanh quanh với tội và nết xấu. Ý định này, phần
đông chẳng có, mà nếu có cũng không rõ ràng, dứt khoát gì. Bởi thế, dù họ đang
tội lỗi nay nghĩ lại, hoặc chưa bao giờ sống bê bối cả, họ vẫn mãi thuộc cung
một hay cung hai. Nghĩa là không ở trên hướng tiến.
Kẻ
thật sự trên tiến trình là kẻ dù đang tội lỗi hay không, nay được ơn thúc đẩy
đã dứt khoát muốn đi về hướng Chúa và ra khỏi vũng lầy. Họ đã có một cái trớn
do ơn sốt sắng, nên dù mới ra khỏi hố sâu, họ đã ở cung hai, cung ba, dù còn
vướng một chân ở cung một bởi phải gay go chống đỡ. Ðây cũng là người thực sự
cầu nguyện và cầu nguyện sốt sắng rồi. Thật ra, rất nhiều vị thánh đã bắt đầu
như vậy đó. Họ rất quảng đại trong tình yêu dù chưa vững ở nền tảng.
Với kẻ mà khuynh hướng bản năng
chưa được thăng hoa và định hướng tốt, trong khi thói xấu còn nhiều và cám dỗ
mãnh liệt, thì họ phải cố cầu nguyện dù khô khan, phải cố hãm mình để tiến tới
tự chủ, hầu có thể đứng vững lúc phong ba nổi lên, hầu có thể đứng lên nếu lỡ
chân vấp té.
Việc chống chọi với thói xấu, để
dễ sinh kết quả, phải đi đôi với cố gắng luyện đức và tập hy sinh. Cám dỗ nhục
dục ư? Lúc thì bậm môi chống cưỡng, lúc lại thăng hoa bằng những tâm tình cao
thượng. Cám dỗ tham lam ư? Hãy rộng rãi với ai cần đến. Cám dỗ hám danh ư? Hãy
tìm vinh quang tôi trong vinh quang Chúa, vinh quang Giáo hội, vinh quang của
người thân...
Với kẻ nhờ ơn sốt sắng mà bắt đầu
hăng say nên thánh, họ dễ mắc một số khuyết điểm mà họ không thể coi thường.
Tôi có ý nói sự nệ cảm và hướng thân (égocentrisme), do đó sinh tự phụ và có
một lối nhìn cận thị.
Kẻ được nuôi quen bằng mật sẽ
không thích ăn những thứ không đậm đà dù rất bổ dưỡng. Kẻ mới say men vượng
cảm, sẽ nệ cảm và lấy cảm giác đánh giá những kinh nghiệm thiêng liêng. Thế mà
cảm tính, nhất là giác tính, theo Yoan Thánh giá, lại dễ chứa cạm bẫy, do đó
chẳng nên ham làm gì.
Thật ra, kẻ đang say sưa với nụ
hôn của Chúa sẽ chẳng buông theo những cảm giác háu ăn và háo sắc được. Trái
lại, họ hãm mình nhiều và thích hy sinh. Thế nhưng, nếu tránh ngoại cảm, họ lại
yếu về nội cảm, tức tình cảm. Họ thường yêu Chúa bằng thứ tình sôi nổi, mà tình
cảm sôi nổi lại ở bề mặt cảm tính, nên khá gần với cảm giác bên ngoài. Satan có
thể lợi dụng điểm yếu ấy, để từ một tình cảm cao quý, thiêng liêng, đưa ta dần
đến những tình cảm ngoại vi, thậm chí gần gũi nhục dục chẳng hạn.
Người
ta quen đối lập thể xác với tinh thần. Nhưng nên nhớ, tinh thần không phải là
lý trí (vốn hướng về khách thể, nên lạnh lẽo, khô khan), cũng chẳng phải ý chí
thuần túy. Nơi con người, dù tinh thần cũng sống động ở cả thân tâm, khiến ở
nó, tri đấy cũng là nghiệm đấy, muốn đấy cũng là ưa đấy. Tới một độ sâu nào đó,
tất cả chìm trong vô thức, khiến dù biết (như biết Chúa ở đức tin thiên phú)
cũng không thấy mình biết, dù muốn cũng không thấy mình ưa, dù yêu cũng không
cảm nhận chi cả.
Vào
thời Yoan Thánh giá và Tiên sa Avila, tâm lý học chưa phát hiện tầng vô thức
này, nên người ta chưa hiểu được như thế, và người ta tách hẳn ý chí ra khỏi
cảm tính, tách cảm tính ra khỏi tinh thần.
Vậy
vấn đề không còn là coi khinh tình cảm, nhưng là hướng về những loại tình cảm
sâu xa, nên cũng dễ khuất ẩn.
Kẻ bắt đầu sốt sắng cũng là kẻ dễ
tự phụ. Họ tưởng như mình thánh rồi, và nên thánh chẳng khó chi. Vì họ ỷ mình,
nên ân Chúa yếu bớt. Vì họ tự cao, nên lúc gặp khô khan và thấy lòng hướng hạ,
họ sẽ bỡ ngỡ, xấu hổ, bứt rứt không yên. Nhất là nếu lỡ sa ngã, dù chỉ một lần,
họ sẽ tuyệt vọng, thối chí. Họ nên nhớ, họ sinh ra từ hư vô và rất yếu đuối. Họ
phải biết rằng vượng cảm chân chính là ân Chúa, và không phải sốt sắng là gặp
Chúa, cũng không phải cứ sốt sắng mới gặp Chúa đâu. Vậy điều đáng ngạc nhiên
không phải là tôi sa ngã hay hướng hạ. Ðiều đáng ngạc nhiên là dù non yếu như
thế, trước đây nhờ Chúa ta đã sống tốt được, và dù bất xứng như vậy, đã có lần
Chúa viếng thăm, an ủi ta. Vậy hãy tri ân, và lợi dụng ngay cái tội như đòn bẩy
giúp đi lên bằng cách khiêm nhu, vét rỗng mình.
Kẻ mới dò dẫm trên đường toàn
thiện cứ tưởng như đường mình đi, điều mình nghĩ mới là phải, nên không chịu
nổi nếu thấy ai làm khác và sống khác. Họ hãy lo nên thánh cho mình hơn là xét
nét người (Mt. 7.5), và hãy tìm ý Chúa hơn là bắt Chúa và người khác theo ý ta.
Nên biết rằng còn nhiều cái họ chưa biết đâu, và nếu xét về kinh nghiệm, họ chỉ
là "lính mới tò te" thôi. Vâng, đừng ham dạy dỗ hay phê phán, vạch
đường chỉ lối cho người chỉ vì ỷ mình và ham thống trị!
Thứ Tư, 9 tháng 10, 2024
Thần học thiêng liêng (tiếp theo)
Trước đây, Kytô-giáo tưởng rằng
chỉ trong Hội thánh mới có huyền nghiệm. Kịp đến khi tiếp xúc với huyền nghiệm
Ấn, Phật giáo, người ta bắt đầu nghĩ đến khả thể về một huyền nghiệm tự nhiên.
Chỉ có thể gọi là tự nhiên nếu nguồn gốc của nó là tâm lý suông, thậm chí tâm
bệnh lý. Chứ làm sao gặp gỡ Thiên Chúa được nếu chẳng gặp trong siêu nhiên?
Chúng ta hãy xét vấn đề trên bình
diện nguyên tắc, sau đó mới đi vào phân tích hiện tượng. Trên nguyên tắc, dù
ngoài Giáo hội (hữu hình) vẫn có ân sủng, và đấy là ân sủng đức Kytô, do hành
động cứu chuộc của Ngài mà có. Ðã có thể ban ân sủng, tức sự kết hiệp với Chúa
bằng huyền nghiệm căn bản, thì hẹp gì mà Chúa không thể cho phép từ kinh nghiệm
căn bản ấy phát sinh huyền nghiệm hiện tượng?
Bạn sẽ chất vấn: Dù ngoài
Kytô-giáo nếu có huyền nghiệm thực, thì huyền nghiệm ấy luôn mật thiết với Chúa
Kytô; vậy cớ sao huyền nghiệm Ấn, Phật giáo chẳng mang một đường nét Kytô-tính
nào, lại còn đi ngược giáo lý ở nhiều điểm nữa?
Câu trả lời đã được sơ phác ở
cuối tiểu đề trên. Và đây là khoảng cách giữa huyền nghiệm căn bản (hay ân sủng
cùng Tín Vọng Ái thiên phú) với huyền nghiệm hiện tượng, cộng thêm khoảng cách
giữa huyền nghiệm này với việc hiểu nó bằng lý trí và giải thích nó bằng ngôn
từ. Do khoảng cách kép ấy, mà Chúa tuy có một, nhưng kinh nghiệm về Chúa có
nhiều, và giải thích kinh nghiệm càng dễ "tam sao thất bản". Phải,
Thiên Chúa vốn vô dạng, vô biên, nên đối với cách nhìn hữu dạng hữu biên của
ta, Ngài không thể giới hạn trong một chân dung rõ ràng và duy nhất. Mỗi người
khi nghiệm Ngài hay hiểu Ngài đều đã "chế biến" Ngài, phần nào đã
"sáng tạo Ngài theo hình ảnh của mình".
Nếu đây là huyền nghiệm huệ trí,
thì phần góp của con người rất ít, khiến ta thấy được chân dung "gin"
của Ngài phần nào. Có điều thấy (bằng thần) đâu phải là hiểu (bằng lý trí),
huống nữa diễn tả ra.
* * *
Như trên đã nói, nếu nghiệm Chúa
thực, thì phải nghiệm siêu nhiên thôi. Vấn đề bây giờ đặt ra, là có thể có hay
không những hiện tượng y như huyền nghiệm, mà thực thì không có gặp gỡ (đấng
thiêng liêng)?
Nếu đây là thị kiến giác cảm (qua
giác quan) hay hình tưởng (qua trí tưởng), thì chỉ cần tác động đúng cách đúng
chỗ vào cơ thể là phát sinh ngay. Tác động vô, thì dù tự nhiên, thần lành hay
thần ác đều làm được (mà không cần đối tượng có thực ở đấy). Tự nhiên, đó là
bức xạ tâm lý từ các nguyên tiêu vô thức, đó là từ vô thức những sóng thần cảm
xạ (affect). Tự nhiên, đó còn là một tâm hồn quá nhạy cảm và yếu đuối, khiến
nghĩ đến gì có thể thấy ngay cái ấy, và sự yên trí đôi khi hiển hiện thành
thương tật trên người.
Sự gặp gỡ thân thiết của hồn với
Chúa trong ân sủng được hiển lộ phần nào trong huyền nghiệm với ý thức ta. Vì
thế, đây là một hạnh phúc khó tả theo kinh nghiệm của Tiên sa Avila, Yoan Thánh
giá và bao người khác. Ðây là mùi vị tiên báo cho vĩnh phúc mai ngày.
Không thể tả, huyền nghiệm cũng
là kinh nghiệm không thể hiểu và không thể mờ phai. Cái ấn tượng sâu xa và khó
quên ấy sẽ mãi hướng ta về siêu nhiên và củng cố ta trong đạo đức, và vì thế
rất có ích.
Huyền nghiệm tuy cho ta nếm thử
"Chúa ngọt ngào biết bao" (quam dulcis), nhưng lại để thòm thèm,
khiến chỉ "một ý nghĩ hay lời nói nhắc cho thấy rằng chưa thể chết ngay
(để về hưởng Chúa trọn vẹn) đủ khiến cảm nhận, không hiểu do đâu, như một nhát
(búa), một mũi tên lửa... Và vết thương đau ghê gớm... ở chỗ sâu, mật nhất của
hồn, ở đó tia lửa dù chỉ thoáng qua, cũng biến thành tro bụi tất cả những gì nó
gặp ở bản tính phàm trần chúng ta" (Lâu đài, 6.11). Chính vì mạnh như thế,
huyền nghiệm hủy diệt trong phút giây mọi vấn vương, đồng thời gắn chắc ta với
Chúa. Vì huyền nghiệm "mê ly" đến thế, nên nó là đích nhắm duy nhất
của con đường Ấn, Phật.
Tuy không coi trọng huyền nghiệm
như vậy, nhưng vì sự phong nhiêu và phong phú của nó, một Kytô-hữu đức hạnh
không khỏi ước ao, mơ tưởng.
* * *
Ngoài huyền kiến vinh phúc
(vision béatifique) ra, Chúa Yêsu khi ở trần thế còn sống thường hằng cái kinh
nghiệm "Cha ta với ta là một", cái kinh nghiệm cấp cuối mà con người
có thể đạt tới ở đây: Hôn nhân thiêng liêng. Trong số các tông đồ, ít nhất có
Yoan và Phaolô vượt tới chiêm thụ động (contemplation passive).
Xuyên qua tác phẩm của mình. Yoan
để lộ một tầm hiểu rất sâu về quan hệ Ba ngôi, về sự sống siêu nhiên trong
tương quan với mầu nhiệm Nhập thể, về cuộc chiến giữa các sức mạnh thiêng liêng
ở hậu trường cuộc sống. Làm sao có nổi một thứ trực giác thần học cao đến thế
vào buổi khai sinh của đạo nếu không được sáng soi đặc biệt bởi huyền kiến trí
năng (theo cách phân chia của Yoan Thánh giá)?
Và cũng vậy đối với Phaolô, cùng
với Yoan được coi là thần học gia đầu của Kytô-giáo. Theo chính Phaolô tiết lộ,
ông tiếp nhận chân lý đạo từ Chúa phục sinh trực tiếp (2Cor. 12.1). Nhờ đó có
thế đứng sứ đồ ngang với những sứ đồ khác (Gal. 1.12-17). Rõ hơn nữa, ông cho biết
đã được mang tới tầng trời thứ ba, tức thiên đường (2Cor. 12. 1-4), và ông tỏ
ra rất quý trọng những ân huệ này.
Có điều, dù biết và quý huyền
nghiệm, như Chúa Yêsu, Phaolô và Yoan chẳng hề thôi thúc tín hữu phải cố đạt
được nó. Họ chỉ hướng lòng ta về Trời và chỉ đường cho ta đi tới đó thôi. Vâng,
vinh phúc Kytô-giáo được tìm ở cánh chung cơ, chứ chưa có mặt bây giờ như trong
Phật, Ấn giáo. Ðích tới đã chẳng nằm ở đây, lúc này, thì huyền nghiệm dù cao
nhất như Hôn nhân thiêng liêng cũng còn khoảng cách lớn với trực kiến vinh phúc
(béatifique). Vâng, huyền nghiệm mới chỉ là xem "qua tấm gương", chứ
chưa "mặt đối mặt" đâu (1Cor. 13.12). "Mặt đối mặt" vẫn là
cái phải vươn tới trong đức Vọng, nên tiếp xúc dù trong Xuất thần hay Hôn nhân
vẫn phải qua đức tin tăm tối.
Con đường Chúa mở ra và tông đồ
truyền lại luôn là con đường đức tin, được đón nhận từ ngoài qua huấn giáo
(catéchèse), được sáng soi từ trong bởi Thánh Thần. Lời giáng trần thành Lời
được khách quan hóa. Thánh Thần giáng lâm khiến Lời đang bên ngoài ấy được nhập
tâm, và Tín-Vọng-Ái được phú vào (thiên phú). Kể từ lúc này, nhờ thúc đẩy của
ân sủng và cố gắng sống đạo, sẽ hình thành dần nơi ta một kinh nghiệm đức tin.
Ðức tin thiên phú nhờ đó, từ bên trong sáng dần ra bề mặt ý thức, sẽ làm nên sống
nghiệm huyền bí đức tin (mystique expérientielle de foi) nó làm nền gốc để từ
đó có thể mọc lên huyền nghiệm chính danh Kytô-giáo.
Kinh nghiệm đức tin gọi là sống
nghiệm, vì nó tàng ẩn trong cuộc sống, trong hành động, cả trong thẩm định lờ
mờ của động cơ Vì Chúa, chứ chưa hiện rõ trên màn hình tư tưởng. Kinh nghiệm ấy
đã có gì là huyền (mystique) bởi do tác động từ trong của đức tin thiên phú,
của ân sủng nói chung. Ân sủng đang phát triển và lộ ra với sự hợp tác của ta
trong học hỏi và hành động. Ân sủng ấy rồi sẽ hiển định ở tâm tư thành một thứ
động năng đức tin (dynamisme de foi) và nhạy cảm đức tin (sensibilité de foi),
qua đó tôi có khả năng đánh giá một lý thuyết trong tương quan với toàn hệ
thống giáo lý của đạo, đánh giá một sự việc trong tương quan với toàn hệ thống
luân lý đức tin.
Sự đánh giá bằng sống nghiệm đức
tin ấy thường nghiêng về thực hành hơn lý thuyết. Cố nhiên một thần học gia
thông minh cũng có thể nhìn ra vấn đề dù không cảm nhận được. Nhưng nếu kèm
theo học thức và sự thông minh, còn có ánh sáng bên trong của đức tin, thì sự
sáng suốt của ông sẽ được lũy thừa trong một thứ trực giác sâu xa. Trái lại,
với ai thánh thiện mà ít học, thì sự nhạy cảm đức tin của họ cũng bị giới hạn
rất nhiều do thiếu chiều rộng của kiến thức và nút thắt của lý luận. Chính vì
thế, thánh Tiên sa Avila luôn đòi hỏi sự học thức của các linh hướng.
Vì con đường đức tin kết hợp cả
trong lẫn ngoài, cả sống nghiệm lẫn khách quan, nên tin cũng là một quy thuận
hai mặt: quy thuận cơ chế bên ngoài đi đôi với quy thuận Thần khí bên trong.
Có điều con đường ấy, tuy khởi
phát từ khách quan niệm lý (objectivité conceptuelle), nhưng lại tận kết ở sống
nghiệm, mà đỉnh cao là huyền kiến (hay sống nghiệm) vinh phúc, nên huyền
nghiệm, ở chỗ là sao bản trần thế và nếm trước của vinh phúc, luôn là điều đáng
ước mong của mọi người.
Có điều Kytô-giáo là đạo của tình
yêu, nên cái mà thánh nhân muốn cuối cùng, cái ấy không phải là vinh phúc, do
đó huyền nghiệm, nhưng là vinh quang Chúa Kytô và hạnh phúc của anh em. Chính
vì thế, họ sẵn sàng từ giã cái giường huyền nghiệm ấm êm để ra đi truyền giáo.
Thậm chí có vị thánh còn muốn sống mãi để mở Nước Cha, muốn đi vào chín tầng
địa ngục để biến nó thành thiên đường của yêu thương.