Thứ Hai, 30 tháng 7, 2012

Người cả đời tìm triết lý trên trống đồng Đông Sơn

13/07/2012 16:45
(VTC News) - Mới đây, bên ấm trà đậm hương Việt, các nhà nghiên cứu cổ sử Việt Nam, trầm ngâm kể về một người, mà họ tôn vinh là triết gia bị quên lãng của nước Việt. Người ấy dành cả cuộc đời nghiên cứu cổ sử Việt, viết tới 46 đầu sách, chỉ để khẳng định rằng, nền minh triết Việt đã có từ mấy ngàn năm trước, trước cả người Trung Hoa. Chuyện này thật lạ!

Người Việt là một phần của cái nôi nhân loại

Người ấy là giáo sư Lương Kim Định, người trọn đời chỉ làm một việc, ấy là giải mã những thông điệp của người xưa, để tuyên bố với thế giới rằng, người Việt không phải là một dân tộc nhỏ bé, nước Việt cũng là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại.

Người cả đời tìm triết lý trên trống đồng Đông Sơn
Cố GS. Lương Kim Định. 

Cố GS. Lương Kim Định sinh ra và lớn lên ở Nam Định. Từng giảng dạy ở Việt Nam. Sau này, ông du học sáng Pháp, rồi Mỹ. Mấy chục năm sống ở nước ngoài, nhưng ông vẫn miệt mài nghiên cứu cổ sử Việt. Ông đã chứng minh cho thế giới này hiểu rằng, nền triết lý Việt đã có từ rất lâu đời, thậm chí có trước cả Trung Hoa.

Bằng những nghiên cứu của mình, ông khẳng định tổ tiên người Việt chính là người Viêm Việt. Dân tộc này vốn ngự trị ở giữa vùng châu thổ sông Dương Tử và đã làm nên văn hóa Việt Nho, một nền văn hóa tinh thần, lấy nhu thuận là cốt lõi, đại biểu cho văn minh nông nghiệp.

Người cả đời tìm triết lý trên trống đồng Đông Sơn
Người cả đời tìm triết lý trên trống đồng Đông Sơn
Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh cũng từng chứng minh Kinh Dịch là của người Việt qua bãi đá cổ Sapa. 

Sau này, bộ tộc du mục, ấy là người Hoa, đã tràn từ phương Bắc xuống. Họ mang tinh thần võ biền, đàn áp, đẩy người Viêm Việt xuống phía Nam. Người Viêm Việt di tản đến khắp vùng Đông Nam Á rồi phân hóa thành nhiều chủng tộc khác nhau.

Luận thuyết này được ông đưa ra từ rất lâu rồi, nhưng chẳng ai thèm đếm xỉa. 45 năm sau khi ra đời luận thuyết của ông, khi khoa học hiện đại phát triển, ngành khảo cổ nghiên cứu qua nhiễm sắc thể (ADN), đã chứng minh rằng, dân cư Đông Nam Á xuất phát từ một chúng tộc khác người Trung Nguyên. 

Người cả đời tìm triết lý trên trống đồng Đông Sơn

Theo bản đồ di dân qua nhiễm sắc thể, được các nhà khoa học thế giới công nhận, thì con người hiện đại Homo Sapien, đã xuất phá từ châu Phi đi khắp thế giới. Một nhánh người đi qua Tây Tạng, một nhánh qua Bắc Mông Cổ, gặp nhau ở châu thổ Hoàng Hà, lập ra nền văn minh Trung Nguyên, khởi thủy nền văn hóa Trung Hoa bây giờ.

Một nhánh di chuyển theo ngả Ấn Độ, dừng lại ở châu thổ sông Hồng, và lập ra nền văn hóa Hòa Bình (20.000 – 5.000 năm TCN). Từ đây, họ di cư lên phương Bắc, đến tận sông Dương Tử, ra tận biển, định cư ở các đảo Đài Loan, Nam Dương, Mã Lai.

Lương Kim Định nhìn thấy Việt triết sống động trong đời sống hàng ngày của dân tộc. Nó là những nếp sống, những tư tưởng nằm trong tiềm thức được thấm nhuần qua tiếng nói, ca dao, lời ru, phong tục. Việt triết được thể hiện và phát huy qua những bước chân âm thầm của các bà mẹ Việt, những người bố Việt trên những nẻo đường mòn của dân tộc trong bao thế hệ. 

Người cả đời tìm triết lý trên trống đồng Đông Sơn
Trống đồng là báu vật của người Việt. 

Theo nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy, từ những phát hiện này, cùng hàng ngàn chứng cứ mà ông nêu trong các cuốn sách của mình, ông khẳng định rằng, người Việt đã xây dựng một nền văn hóa nông nghiệp Việt nhân bản và minh triết, mà ông gọi là Việt Nho.

Người Hoa đã học rồi thể chế thành kinh điển, đồng thời cũng làm sa đọa Việt Nho theo tư tưởng của văn minh du mục Mông Cổ.

Từ chứng lý rất mong manh, GS Lương Kim Định cho rằng, chính người Việt là chủ nhân của kinh Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc... Không những thế, tiếng Trung Hoa và cả chữ vuông Hán ngữ cũng là của người Việt!

Đề xuất của GS. Lương Kim Định quả đã gây chấn động, như sấm giữa trời quang khiến những đầu óc yếu đuối hoảng hốt và chống trả ông quyết liệt.

Triết Việt trên trống đồng

GS. Lương Kim Định gần như cả cuộc đời nghiên cứu chiếc trống đồng của người Việt. Tinh hoa văn hóa của người Việt đều dồn tụ vào những hình ảnh trên mặt trống. Ông nhìn thấy cả lịch sử Việt, văn hóa Việt, triết lý Việt trên chiếc trống đó.

Theo GS. Định, những hình người có cánh trên mặt trống đồng đại diện cho Mẹ Tiên, còn hình ảnh vòng ngoài vận hành ở tang trống chính là Rồng Cha. Mẹ Tiên và Rồng cha hợp nhau biểu thị đất trời hòa hợp, là thứ minh triết uyên bác xa xưa.

Người cả đời tìm triết lý trên trống đồng Đông Sơn
Người cả đời tìm triết lý trên trống đồng Đông Sơn
Mặt trống đồng biểu trưng của nguyên lý thống nhất từ vũ trụ. 

Nét dọc tang trống là Trời, nét ngang là mặt trống là Đất. Hai thứ ấy làm nên thực thể gọi là nhạc khí vũ trụ.

Vũ trụ thể hiện kích thước bao la của trời với đất. Cuộc hòa âm này chiếu giải lên toàn thân trống, tả lại một xã hội hạnh phúc tưng bừng đang ca múa gồm cả trời (mặt trời), đất (thuyền rồng, các con vật) và cả người.

GS. Lương Kim Định đã giành cả cuốn sách chỉ để mô tả triết lý Việt trên chiếc trống đồng. Đã có vô vàn phát hiện thú vị của ông. Thậm chí, những con số cũng đều theo quy ước bí ẩn của văn hóa cổ. 

Mặt trời ở giữa mặt trống thay cho trời làm trung tâm lan tỏa sức sống. Mặt trời tỏa ra 14 tia sáng. Rồi đến các vòng ngoài đều chia ra 2 bên chẵn lẻ.

Bên chẵn thì trên nóc nhà có 2 con chim, 6 người, đàn chim 4 cặp. Bên lẻ thì trên nóc nhà có 1 con chim, đoàn người 7, đàn chim 3 cặp. Vòng ngoài cùng chia làm 4 chỉ 4 chiếc hoa quỳ 9 cánh: 4x9=36, cũng có thể chỉ 4 phương. Nhưng mặt trời ở giữa, còn gợi ra suy nghĩ là bông hoa. 

Người cả đời tìm triết lý trên trống đồng Đông Sơn
Mặt trống đồng chính là bộ sử hạnh phúc loài người. 

Hoa quỳ lại có 9 cánh. Số 9 là tiên thiên của huyền sử, dân Lạc Việt lấy số 9 làm quan trọng, nhân với 2 thành 18. 18 chim to, 18 chim nhỏ. Số 18 là huyền số như: 18 ngàn năm Bàn Cổ, 18 đời Hùng Vương, 18 thước cao của ngựa Thánh Gióng...

Từ những hình ảnh trên trống đồng, đã hiện ra đời thực. Trên các đình làng Việt Nam thể hiện rõ nhất triết lý đó. Ðình là cái nhà có ba tầng kiểu nhà sàn: Nóc có chim đậu chỉ trời, người ở sàn giữa, bên dưới là đất. Trong đình cũng có 3 tầng như vậy, tức gồm cả tế tự cho trời, hành chính chia ruộng đất, còn người thì vui sống đình đám chơi xuân. 

Điều đặc biệt, là cả trên trống đồng và đình làng Việt, đều thể hiện vạn vật giao hòa, trời và người là một, chẳng có gì tục với thiêng mà phải riêng rẽ. Cuộc sống đời thường luôn tưng bừng đình đám, chấp nhận mọi sinh thú ở đời. 

Từ hình ảnh trên trống đồng, có thể thấy cuộc sống sinh động của người Việt xưa. Người Việt có hàng trăm điệu hò, điệu múa, nào là múa sinh tiền, múa sắc búa, múa chai, múa trống, múa đèn, múa dậm, múa bông lau...

Rồi các trò đua thuyền, kéo chữ, đánh cờ người, rối nước, rối cạn… Đó là những cuộc vui bất tận tỏa ra khắp cả nước. Chỉ có một thứ văn hóa, ấy là văn hóa toàn dân, không hề có chiến tranh tôn giáo hay ý thức hệ. Hơn 50 sắc dân thiểu số với những tín ngưỡng rất khác nhau, mà vẫn sống bên nhau suốt bao nhiêu ngàn năm hạnh phúc. 

Đó chính là nét đặc sắc của nền văn minh Lạc Việt, nền văn minh được khắc họa cụ thể trên mặt trống đồng. Mặt trống đồng chính là bộ sử hạnh phúc loài người. Đó có lẽ cũng là khát vọng mà người Việt hướng đến. Triết lý Việt chính là sự thăng hoa tột cùng của hạnh phúc loài người.

Tưởng niệm 15 năm ngày mất của GS Lương Kim ĐịnhSáng 14/7/2012, tại Văn miếu Quốc Tử Giám, nhân 15 năm ngày mất của triết gia Kim Định, Trung tâm Minh triết phối hợp với Trung tâm Lý Học Đông Phương lần đầu tiên tổ chức buổi tọa đàm tưởng niệm về ông.

Triết gia Kim Định (tên đầy đủ Lương Kim Định, sinh ngày 15/6/1915, mất ngày 25/3/1997) là một gương mặt văn hóa lớn của đất nước, đã để lại một di sản văn hóa đồ sộ hơn 40 đầu sách về những lĩnh vực triết học, văn hóa, đặc biệt là cổ sử Việt Nam… Ông có công lớn trong việc xây dựng nền tảng cho triết học Việt Nam và là người đề xướng thuyết Việt triết (Việt Nho) với những trụ cột triết lý: an vi, nhân bản, thái hòa, bình sản. Nhiều học giả trong nước tiếp nhận hướng nghiên cứu và phương pháp luận của ông đã có những công trình học thuật có giá trị. Môn đệ của ông ở nước ngoài trong làng An Việt đang tiếp tục công cuộc nghiên cứu của ông và theo đuổi một lối sống minh triết đáng quý.

Buổi tọa đàm có sự góp mặt của 30 nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử, những người yêu sử Việt trong đó đáng chú ý sẽ có các tham luận của GS.TSKH Trần Ngọc Thêm, TS Trần Ngọc Linh, nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Các nhà nghiên cứu đánh giá đúng công sức của triết gia Kim Định trong công cuộc truy tìm cổ văn hóa sử và minh triết của Việt tộc. Ông đã có những dự đoán tài tình, ngày càng được khoa học liên ngành khảo cổ, cổ thư, nhân chủng xác minh luận điểm của ông là có cơ sở.

Những bài viết liên quan đến nền văn minh Việt cổ


Dương An Phát
Nguồn: http://vtc.vn/394-340680/phong-su-kham-pha/nguoi-ca-doi-tim-triet-ly-tren-trong-dong-dong-son.htm

***


TƯỞNG NIỆM CỤ KIM ĐỊNH - IN MEMORIAM DOMINICI LUONG KIM DINH

(15/06/1915 - 25/03/1997)

Giáo Sư John B. Trần Văn Ðoàn
Ðại Học Quốc Gia Ðài Loan

Trở lại Ðài Loan sau cuộc Hội Nghị Quốc Tế tại Trường Kỳ, Nhật Bản, vừa ra khỏi phi Trường Ðào Viên, linh mục Trương Văn Phúc ra đón và cho tôi biết là cụ Kim Ðịnh vừa mới qua đời. Thực ra tôi không ngạc nhiên, bởi vì sau hai lá thư mà cụ gửi cho tôi vào tháng 6, rồi tháng 8 năm 1996, yêu cầu tôi sang gặp cụ để "bàn về những chuyện quan trọng nhất trong đời tôi", tôi trực giác ra là ngày của cụ đã gần kề. Thế nên tôi không buồn nhưng chỉ hơi tiếc là đã không gặp cụ được trong những ngày cuối đời của cụ. Vô tình rờ vào túi xách tay, tập Cửa Khổng của cụ mà anh Vương Kỳ Sơn mới gửi để tôi sửa lại cho tái bản, vẫn nằm đó. Trên những chuyến bay gần đây, tôi vẫn thường vừa đọc vừa sửa lại một số quan điểm cũng như những trích dẫn Hán ngữ trong tập, hy vọng là sẽ gửi tới cụ trong những tháng tới, gọi là một món quà tặng người bạn già khả kính, một tôn sư, một triết gia cũng như một chí sỹ mà tôi khâm phục. Cửa Khổng là tập sách đầu tiên của cụ mà tôi đã từng nghiền ngẫm khi còn theo lớp triết học tại Ðà lạt vào cuối thập niên 1960. Người đã ra đi, như bông hoa rực rỡ, nhưng theo cái Ðạo của Sinh Lão Bệnh Tử, tàn úa và rơi về lòng đất. Tôi nhớ lại một đoạn trong lá thư của thánh Phi-Ðức (1 Petrus 1,24) viết về thân phận con người: "Car toute chair est comme l'herbe, toute la gloire de l'homme est comme la fleur de l'herbe. L'herbe seche et la fleur tombe!). Cụ đã trở về với cái Ðạo Uyên Nguyên của cụ. Requiescat in Tao, Domino suo! Mà Ðạo của cụ là Logos, là chính Ngôi Lời Nhập Thể (Et Verbum incarnatum est!).
Tôi quen cụ Kim Ðịnh vào năm 1982. Vào tháng 8 năm ấy, tôi cho xuất bản một bài tiểu luận về Việt Thần (Một Suy Tư Thần Học, Dân Chúa, 8.1982), đưa ra một số quan điểm đóng góp vào công cuộc xây dựng một nền thần học Việt. Ðây chỉ là một bài dò dẫm, gần như hoàn toàn bị hàng giáo sỹ Việt lơ là. Thế nên, vào tháng 12.1982 khi đọc bài "Ðể Tiến Tới Một Nền Thần Học Việt Nam" (Dân Chúa, 12.1982 và 01.1983) của cụ Kim Ðịnh, tôi vô cùng thích thú và cảm động. Trong bài này, tiên sinh đã trực tiếp khẳng định quan điểm của tôi mà cụ cho là rất "tiến bộ". Ðối với một người háu học, vô danh như tôi, được một bậc tôn sư như cụ trả lời, thật quả là một vinh hạnh bất ngờ. Nhờ sự khuyến khích này, tôi quyết định dấn thêm một bước, thành lập nhóm nghiên cứu về Việt Triết. Chính vì thế, tôi mời cụ sang Trung Hoa Dân Quốc tham dự một Hội Nghị Quốc Tế về Triết Trung Hoa tại Ðại Học Ðông Hải (tháng 8.1984) trong đó cụ phát biểu một luận văn về "The Role and the Conditions of Ju in Our Present Age" (Sau được anh Tài Văn Huy và tôi dịch sang Hoa ngữ và phát biểu trong tạp chí Universitas, 11.1985). Từ đây một già một trẻ bắt đầu một công cuộc hợp tác lâu dài cho tới ngày cụ bị tê liệt.
Trong gần 10 năm trời cộng tác, mỗi người tuy hoàn toàn độc lập và phát triển con đường riêng của mình, chúng tôi vẫn luôn luôn quan tâm và hỗ trợ nhau. Tôi mời cụ thăm Ðài Loan lần thứ hai (với Tiến Sỹ Vũ Kim Chính và Tiến Sỹ Vũ Ðình Trác) nói về Nho Giáo tại Việt Nam tại Thư Viện Quốc Gia Trung Hoa (1987). Sau đó tôi cũng mời cụ tham dự Hội Nghị Triết Học Thế Giới (Brighton, 1988), và Hội Nghị Về Á Phi Học tại Toronto, (1990). Ngược lại cụ xin tôi giữ chức cố vấn cho Hội An Việt mà cụ thành lập vào khoảng 1984. Lần cuối cùng gặp nhau, cụ mong tôi giúp cụ tổ chức "Hàn Lâm Viện Việt Nam" mà cụ đương thành lập tại California. Tôi cảm thấy một cái gì bất an, mặc dù rất kính phục nhiệt tâm của cụ. Tôi cảm tưởng cụ đương bị "lợi dụng", một điều mà tôi thẳng thắn nhắc với cụ khi tôi từ khước chức vụ "Viện Trưởng" mà cụ đề nghị. Tuy thế, sợ cụ buồn, tôi chỉ hứa là nếu cụ cần, tôi có thể giúp cụ mỗi năm vào dịp hè.
Trong gần một thập niên nay (1983-1992), người ta có thể nói cụ Kim Ðịnh là làm việc như một siêu nhân. Gần chục tác phẩm liên tiếp ra đời. Hội An Việt được thành lập, khêu lên tinh thần ái quốc, yêu chuộng sự khôn ngoan cũng như suy tầm về nguồn dân tộc, giúp những bạn trẻ và trí thức cảm thấy hãnh diện về dân tộc Việt mình nơi nơi quê họ đất người. Từ các tiểu bang bên Mỹ, cho tới các nước tại Âu Châu, từ Gia Nã Ðại cho tới Âu Châu, nơi đâu cũng có phong trào Hùng Việt hấp dẫn cả ngàn người. Thật là một hiện tượng chưa từng thấy. Trong những năm nay, cụ thường gửi tặng tôi những tác phẩm mới cũng như những tin tức về phong trào Hùng Việt và Hội An Việt của cụ. Tôi cũng nhận thấy, có nhiều tác phẩm đã thấm nhuần ảnh hưởng của cụ (những bài của linh mục Trần Cao Tường, các anh Vương kỳ Sơn, vân vân!). Có thể nói mà không sợ lịch sử chê bai, cụ Kim Ðịnh có lẽ là một người trí thức Việt duy nhất có thể gây lên một ảnh hưởng như vậy. Như tôi từng khẳng định công lao của cụ tại Viện Triết Học của Trung Tâm Khoa Học Xã Hội, Hà Nội (18.01.1997), Kim Ðịnh vượt xa Trần Ðức Thảo trong lãnh vực suy tư và trong tinh thần ái quốc, cũng như sự nhiệt tâm của kẻ sỹ.
Sau lần gặp cuối cùng năm 1991, không đầy mấy tháng, tôi nhận được tin là cụ bị trúng phong, bán thân bất toại. Tôi có viết thư cũng như gọi điện thoại tới nhà Dòng Ðồng Công tại Carthage nơi cụ cư trú, song không có hồi âm. Từ đó hoàn toàn bặt tin cho tới năm 1994, khi tôi nhận được vài hàng chữ (viết bằng điện toán) hối tôi về việc san đình tập Chữ Thời của cụ. Tôi rất mừng nhận ra cụ đã khôi phục một phần nào. Song chắc là cụ không vui vì bài "Việt Triết Khả Khử Khả Tùng?" (1993), trong đó tôi tuy khẳng định triết học của cụ, song cũng phê bình tính chất thiếu nghiêm túc và quá lãng mạn trong nền triết học An Vi của cụ. Bẳng đi một đỗi, tôi nhận được lá thư cụ viết (06.1996), tương đối khá dài, về những gì cụ đã làm và muốn hoàn tất. Cụ xin tôi sang Mỹ gặp cụ gấp để bàn về việc hoàn tất hai tập Việt Triết và Việt Thần mà cụ muốn tôi viết chung với cụ, cũng như san đình lại tập Chữ Thời, một tập mà cụ cho là rất quan trọng, (song cụ tự nhận là quá đơn giản vì viết cho sinh viên lớp dự bị Ðại Học Sài Gòn). Tôi trả lời cụ, và cố gắng xếp đặt công việc để có thể sang thăm cụ vào tháng 8.1996. Dự định là thế, song vì bận dạy tại Ðại Học Vienna, Áo, rồi sau đó cho Ðại Học Hè tại Thụy Sỹ, cũng như một loạt bài diễn thuyết tại Hy Lạp và Ba Lan, nên tôi xin hẹn lại cụ vào tháng 10 hay 11.1996. Tôi nhận được lá thư thứ hai, và sau đó là thư của cha Lượng (Dòng Ðồng Công) xin tôi cho biết ngày giờ tôi đến để ra đón cũng như lo liệu chỗ cư ngụ. Một lần nữa tôi lại phải khất, vì tôi phải qua Ấn Ðộ, sau đó trở lại Ðức. Công việc dạy tại Ðại Học Frankfurt đòi tôi phải ở lại Ðức cho tới cuối tháng 11. Mà đầu tháng 12 tôi phải về dạy tại Ðại Học Bắc Kinh, và sau đó, vào tháng giêng 1997, tôi phải làm một loạt bài thuyết trình tại Bangkok, Hà Nội, Sài Gòn và Kuala-Lumpur, Mã Lai. Thế nên tôi lại khất quanh cho tới ngày hôm nay khi nhận được tin buồn là cụ đã trở về với Ðạo Uyên Nguyên, với Thượng Ðế của cụ.
Viết về Kim Ðịnh đòi hỏi một công trình, một điều mà chúng tôi sẽ làm trong một tập riêng về kim Ðịnh trong tương lai (dự định viết bằng anh ngữ, do Giáo sư Phan Ðình Cho và tôi chủ biên). Thế nên bài này chỉ viết ra để tưởng niệm người quá cố, nói lên mối tình đối với một bậc tôn sư, nhắc lại tình yêu nước, yêu dân tộc cũng như lý tưởng của cụ. Với cụ, chúng tôi đã thành lập Ủy Ban Nghiên Cứu Việt Triết (thành viên: Kim Ðịnh, Vũ Ðình Trác, Vũ kim Chính và Trần Văn Ðoàn, từ năm 1996, thêm Nguyễn Ðăng Trúc). Lần này, trong cuộc Hội Nghị tại Trường Kỳ (Nagasaki), Ủy Ban chúng tôi đã tích cực tham dự, chỉ thiếu cụ và Tiến Sỹ Vũ Ðình Trác. Ước mong rằng, vong linh và tinh thần cụ sẽ tiếp tục hiện diện trong Ủy Ban, để giúp anh em, nhất là những người hậu sinh, tiếp tục sứ mệnh của người Việt.
Trần Văn Đoàn
Nguồn: http://www.dunglac.org/index.php?m=home&v=detail&ia=1417

0 nhận xét: