Thứ Ba, 15 tháng 11, 2022

Triết Lý Nhân Bản NGUYỄN DU - Luận án của Cố Lm. Hán Chương VŨ ĐÌNH TRÁC

 

 TIẾT 1 : NHÂN TÍNH NHÂN TÂM

2. Nhân Tâm - Đây là điểm trọng yếu trong triết lý nhân bản nói chung, và trong tư tưởng Nguyễn Du nói riêng. Con người là tâm vũ trụ, mà nhân tâm lại là căn cơ của con người. Thế nên nhân tâm cũng là căn bản của vũ trụ. Do vậy mà có tâm học, là môn học căn bản của Nho gia.

Trong bài tựa sách Tập lục của Lục Tượng Sơn, Vương Dương Minh viết :

"Cái học của Thánh Nhân chính là tâm học".

(Thánh nhân chi học tâm học dã)[1].

Thực ra Vương Dương Minh cũng chỉ xác định lại ý nghĩa của sách Đại Học mà thôi. Nói nhân tâm đây cũng chỉ là nói cái Đạo của nhân tính. Nho gia khi nói tính thường nói tâm. Tuy có vài sự phân biệt nhỏ trong kiểu nói, tựu trung vẫn thuộc bản thể con người.

Chẳng hạn Mạnh Tử cũng chủ trương theo tiên nho :

"Mọi điều nhân nghĩa lễ trí đều tại tâm cả"

(Nhân nghĩa lễ trí căn ư tâm)[2].

Chỗ khác ông nói :

"Ai hiểu được tâm thì sẽ hiểu được tính"

(Tận kỳ tâm giả tri kỳ tính dã)[3].

 

Sau này Trình Minh Đạo cho rằng chữ Nhân hay "trắc ẩn chi tâm", mà Mạnh Tử nói, lại chính là . Vì thế Tâm lại là Lý[4]                 .

Chu Tử cho rằng :

“Nhân là tính, trắc ẩn là tình, thuận theo tâm mà phát xuất, tâm bao quát cả tính và tình" (Nhân thị tính, trắc ẩn chi tâm thị tình, tu tùng tâm thượng phát xuất lai, tâm thống tính tình giả dã)[5].

Ông còn nói rõ thêm :

"Tính thiêng của con người do tâm chứ không do tính".

(Linh xứ chỉ thị tâm, bất thị tính)[6].

Lục Tượng Sơn lại cho rằng : Tâm mới là Lý, chứ không phải Tính : "Tâm tức lý dã"[7].

Vương Dương Minh giải thích rõ hơn :

"Tâm là thể của tính, mà tính là thiên lý"

(Tâm chi thể tính dã, tính tức lý dã)[8].

Gần đây La Chỉnh Am giải thích thêm rằng :

"Tâm là phần linh thiêng của con người. Tính là lý bản nhiên của con người. Chỗ sở tại của Lý tức là tâm, mà chỗ sở hữu của Tâm là tính" (Phù tâm giả nhân chi thần minh, tính giả nhân chi sinh lý. Lý chi sở tại vị chi tâm, tâm chi sở hữu vị chi tính)[9].

Tất cả những lý thuyết đắp đổi ấy càng được sáng tỏ hơn dưới ngòi bút của Nguyễn Du. Ông không trình bày lý thuyết, nhưng đã trình bày một con người sống : sống bằng tâm bằng tính và cả bằng tình bằng tài, vẫn quy về một chữ Tâm. Theo ông, con người sở dĩ cao quý là do Nhân đạo, Thiên đạo và Địa đạo cùng lấy căn bản ở Tâm Đạo, mà chúng tôi sẽ minh chứng dưới đây.

a - Nhân tâm vi quý - Đúng theo quan niệm cổ truyền, con người là sức mạnh của Trời, là sự điều hoà của âm dương và là thanh khí của vạn vật, cho nên con người là cao quý nhất trong muôn vật: "Linh ư vạn vật"[10].

Chính trong quan niệm vững chắc này, Nguyễn Du luôn luôn giữ tâm hồn an tại. Đời sống vật chất nhiều gian truân khổ não : nào nghèo nàn, bệnh tật, nào bất trắc nguy nan với đủ thứ lo âu, lao tâm lao lực, coi như một kẻ sinh lầm thời không : "Thiên giáng kỳ tài vô dụng xứ" (Trời sinh có tài mà vô dụng)[11]. Nhưng may con người còn cõi tâm linh để tìm lối thoát : tự an tự độ; nếu không thế, con người sẽ chìm sâu trong khổ thống. Thế nên cuộc đời Nguyễn Du vẫn còn một niềm vui tự tại ở bản tâm.

Các vai trò trong thơ văn ông cũng toàn là những mảnh thành tâm thiện ý trong sáng giữa cuộc nhân sinh vẩn đục. Tất cả cuộc sống tâm linh tự tại được ghi nhận trong bài Đạo ý :

"Trăng sáng chiếu giếng xưa :

Nước trong không nổi sóng.

Không bị người khuấy đục,

Lòng này không lắt lay,

Dù bị người khuấy động.

Động chăng trong phút giây,

Tấm lòng lại trong vắt

Dường trăng sáng nước trong".

(Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh,

Tỉnh thủy vô ba đào.

Bất bị nhân khiên xả,

Thử tâm chung bất dao.

Túng bị nhân khiên xả,

Nhất dao hoàn phục chỉ.

Trạm trạm nhất phiến tâm

Minh nguyệt cổ tỉnh thủy)[12]

Tâm chính là nguồn sống và nguồn sáng của đời người. Trong cảnh dâu bể dễ tàn tạ, con người hãy còn cõi tâm phong phú để sống và để vươn lên. Vì thế niềm vui tự tại của nhà Nho là cõi tâm linh bát ngát an bình.

Trước cảnh đời ly loạn, Nguyễn Du vẫn an tâm trong niềm vui phong phú ấy. Ông viết :

Lá rơi hoa nở việc trước mắt,

Tâm trạng quanh năm vẫn sáng trong".

(Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự,

Tứ thời tâm kính tự như như)[13].

Mấy câu thơ khác cũng cùng một ý :

"Ở ẩn lòng buồn bỗng thấy vui,

Cõi lòng thanh thản như trăng sáng".

(U cư sầu cực hốt tri hoan,

Đạt nhân tâm cảnh quang như nguyệt)[14].

Nghèo như ông mà vẫn giữ được cất khí thanh cao. Đi săn bắn cũng không hẳn để cầu thực, mà chỉ cốt cho tâm thần được sảng khoái :

"Ta vui tìm bạn với hươu nai,

Cốt thoả tâm tình, không hám lợi".

(Ngô diệc lạc ngô mi lộc quần,

Giải thích nhàn tình an tại hoạch)[15].

Nếu đời sống thể xác bên ngoài có dư dặt, mà tâm hồn u uất, thì kiếp sống cũng vẫn đoạn trường. Mọi cảnh vật thiếu nhân tâm cũng trở thành vô vị.

Trong bài Đào hoa đàm Lý Thanh Liêm cựu tích ông viết :

"Cảnh nhờ người nghìn thu truyền mãi,

Đâu phải vì hồ nước đẹp mênh mông".

(Thiên niên thắng tích dĩ nhân truyền,

Bất tại du du nhất đàm thủy)[16].

Tất cả tập trường thi Đoạn trường tân thanh cũng chỉ là những tình tiết diễn biến do chữ Tâm mà thôi. Đây là một cõi tâm linh động. Cần lưu ý tới sự quan trọng của Tâm. Cũng chỉ vì tâm, mà có Tình cao cả. Cho nên mối tình của Kim Trọng và Thúy Kiều ngay từ đầu, đã đi vào Tâm.

Thúy Kiều bản tính đầy tâm huyết : “lòng đâu sẵn món thương tâm" (ĐTTT câu 81). Kim Trọng cũng "lại càng mê mẩn tâm thần" (ĐTTT câu 101). Trước khi chung đụng thể xác, họ đã đi sâu vào tâm hồn của nhau :

”Đã nguyền hai chữ đồng tâm,

Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai".

                        (ĐTTT câu 555-56)

Thế rồi trong suốt cuộc phân ly xa cách, họ vẫn gần nhau bằng tâm hồn tương cảm : Thúy Kiều thì "lỡ làng nước đục bụi trong, trăm năm để một tấm lòng từ đây" (ĐTTT câu 879-80). Có khi "bên trời góc bể bơ vơ, tấm son gột rửa bao giờ cho phai" (ĐTTT câu 1041-42). Kim Trọng cũng giống thế, chàng đinh ninh "chưa chăn gối cũng vợ chồng, lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang" (ĐTTT câu 2815-16). Cho dù sau này chàng đã chung sống với Thúy Vân, mà mối thâm tình với Thúy Kiều vẫn không nguôi :

"Khi ăn ở, lúc ra vào,

Càng sâu duyên mới càng dào tình xưa.

Nỗi lòng nhờ đến bao giờ,

Tuôn châu đòi trận, vò tơ trăm vòng".

                        (ĐTTT câu 2845-48)

Chính nhờ vậy mà hai người đã có ngày tái ngộ trong một mối tình đúng nghĩa chung tình :

“Tình nhân lại gặp tình nhân,

Hoa xưa ong cũ mấy phen chung tình".

                        (ĐTTT câu 3143-44)

Đặc biệt hơn nữa : cả hai cùng đi thêm một bước tình có vẻ siêu tâm, mà người thường không hiểu được. Nó thuộc loại tình tôn giáo hay tình siêu luân lý (sẽ bàn kỹ trong chương VI phần III dưới đây). Tác giả đã cố ý diễn tả mối tình siêu tâm lý đó một cách hợp lý :

"Bấy lâu đáy bể mò kim,

Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa ?

Ai ngờ lại hợp một nhà,

Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm".

                        (ĐTTT câu 3175-78)

Cũng không phải vô tình mà Nguyễn Du đặt câu sau đây vào miệng Thúy Kiều :

"Nghe lời sửa áo cài trâm,

Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng.

Thân tàn gạn đục khơi trong,

Là nhờ quân tử khác lòng người ta.

Mấy lời tâm phúc ruột rà,

Tương tri dường ấy mới là tương tri".

                        (ĐTTT câu 3179-3184)

Do vậy ta có thể mệnh danh mối tình Vương Kim là mối tình thuần tâm hay siêu tâm, để trở thành phi thường cao quý.

b - Nhân tâm vi bản - Theo đúng quan niệm của Mạnh Tử vừa trưng trên kia (Nhân nghĩa lễ trí căn ư tâm), Nguyễn Du cũng nhìn rõ mọi nhân đức cũng như đau khổ và khoái lạc đều do Tâm. Cho đến cả thiên đàng địa ngục cũng đều do Tâm cả. Hơn nữa Thiên đạo và Địa đạo cũng căn cứ ở Tâm đạo.

Có thể nói : tất cả đạo lý dẫn khởi trong Đoạn trường tân thanh gồm tóm ở một chữ Tâm. Vạn vật tồn ư tâm, thiên lý cũng ở Tâm, mà Đạo cũng tại tâm.

Tâm là một hữu thể linh động trong Trời Đất, đúng với quan niệm "Nhân giả thiên địa chi tâm dã" (con người là tâm của Trời Đất)[17]. Vì thẽ vũ trụ này thiếu Tâm cũng như thiếu hồn, sẽ im lìm, không biến động được. Cảnh vật mà thiếu người cũng không còn ý vị, cũng như cảnh vui cảnh buồn đều do con người cả.

Khi Thúy Kiều sống tại thanh lâu, thân thể hình hài được nâng niu trân trọng, đôi khi đến được tôn thờ, nhưng tâm hồn nàng không thể chìm đắm trong những hương vị vật chất, nên không bao giờ nàng an vui trong cảnh huống đó, khiến cảnh vật nào cũng như nhuốm màu tang tóc.

Nguyễn Du ghi nhận :

"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ".

                        (ĐTTT câu 1243-44)

Cũng một cung đàn do cũng một bàn tay nắn nót, mà lúc buồn lúc vui, cũng là tùy do Tâm. Khi Vương Kim tái hợp trong cảnh tình cao đẹp, Thúy Kiều vâng ý chàng nảy lại ngón đàn ngày xưa, trong một tâm trạng lâng lâng vừa sạch nợ đoạn trường, Kim Trọng cũng dâng tràn niềm vui :

 

"Chàng rằng : phổ ấy tay nào ?

Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy".

                        (ĐTTT câu 3207-08)

Thúy Kiều đã để lộ tất cả tâm trạng sáng trong vừa được thanh tẩy qua câu nói chân tình : "tẻ vui bởi tại lòng này" (ĐTTT câu 3209) .

Thiết tưởng Thúy Kiều đã chứng minh thành thực theo đúng thực tại của đời nàng. Đây cũng là Tâm học của Phật gia và Đạo gia. Ta hãy nghe hai vị tu hành : một ni cô một đạo cô đối đáp nhau về thực tại hiện sinh của Thúy Kiều.

Ni cô Giác Duyên hỏi đạo cô Tam Hợp :

"Người sao hiếu nghĩa đủ đường,

Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi ?"

                        (ĐTTT câu 2653-54)

Đạo Cô Tam Hợp trả lời :

"Sư rằng phúc họa đạo Trời,

Cõi nguồn cũng bởi lòng người mà ra.

Có Trời mà cũng tại ta".

                        (ĐTTT câu 2655-57)

Chính cõi Tâm là một nguyên tắc đem lại giá trị cho con người, tức giá trị nhân bản; nhưng cũng tại Tâm mà con người mang hết trách nhiệm về đời mình. Tất cả cuộc đời nổi trôi đầy đọa của Thúy Kiều, dưới mắt Nguyễn Du, thực rất đáng thương đáng ngại, nhưng tất cả đều do bàn tay nàng tự tác tạo nên. Nguyễn Du kết thúc tất cả câu truyện dài của ông bằng một lý thuyết về Tâm đạo :

”Đã mang lấy nghiệp vào thân,

Cũng đừng trách lẫn Trời gần Trời xa.

Thiện căn ở tại lòng ta,

Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài".

                        (ĐTTT câu 3249-52)

Một lần nữa, ta đủ minh xác rằng : Nhân đạo hay Tâm đạo mới là quan trọng, vì nó mở mối cho Thiên đạo và Địa đạo. Đây cũng là quan niệm nhân bản đầy vẻ cách mạng của Nguyễn Du. Giọng điệu cách mạng đó biểu lộ đầy đủ trong bài Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài.

Ông viết :

”Cõi tâm thâm hiểu là tự độ,

Linh sơn cũng chỉ tại lòng người.

Không có đài minh kính,

Không có cây bồ đề.

Kim cương đọc nghìn lượt,

Tối tăm vẫn tối tăm.

Khi tới phân kinh đài mới biết :

Kinh không lời mới thật là kinh".

(Nhân liễu thử tâm nhân tự độ,

Linh sơn chỉ tại nhữ tâm đầu.

Minh kính diệc phi đài,

Bồ đề bản vô thụ.

Ngã đọc Kim Cương thiên biến linh,

Kỳ trung áo chỉ đa bất minh.

Cập đáo phân kinh thạch đài hạ,

Tài tri vô tự thị chân kinh)[18].

Nói theo danh từ cách mạng, thì Nguyễn Du đã đạp đổ hết tất cả núi thiêng Phật đài, đã xoá bỏ cả cây lành và kinh điển. Như thế thì còn gì nữa ? - Thực ra không phải thế. Ông chỉ có ý bảo rằng : Linh sơn, Kính đài, Bồ Đề, Kim Cương chỉ là những hình thức và phương tiện bên ngoài, giúp ta giác ngộ. Có đầy đủ những thứ đó, mà không giác ngộ, nghĩa là không nhập tâm và phát tâm, thì cũng vô ích hoàn toàn. Điều quan trọng là giác ngộ tận bản tâm, tức là minh đức hay tri tâm quán tính. Một khi đã giác ngộ rồi, thì những hình thức và phương thế tu luyện kia cũng không còn cần thiết.

 

Câu sau cùng "Kinh không lời mới thật là kinh" nói lên tận nghĩa sự ngộ đạo tâm giác : Kinh không lời tức là kinh đã nhập tâm. Vì thế căn bản của Đạo chính là ngộ đạo giác tâm. Thiếu điều căn bản này tu hành cũng chỉ thành ma. Bởi vậy, cũng trong bài ấy, trong đoạn trên ông viết :

"Phật vốn là không, không nhờ vật,

Kinh vốn cũng không, không cần chia.

Văn thiêng không ở tại ngôn ngữ,

Kim cương là chi ? Pháp hoa là gì ?

Giữa giác ngộ đôi bờ không sắc,

U mê theo Phật, Phật thành ma".

(Phật bản thị không, bất trước vật,

Hà hữu hồ Kinh, an dụng phân.

Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa,

Thục vi Kim cương, vi Pháp hoa ?

Sắc không cảnh giới mang bất ngộ,

Si tâm quy Phật, Phật sinh ma.

Nhất môn phụ tử đa giao tế,

Nhất niệm chi trung, ma tự chí”[19].

Trong ý nghĩa đó, nếu bảo Nguyễn Du cách mạng, thì quả thực ông cách mạng hơn ai hết. Nhưng đây tôi cho rằng : Nguyễn Du chỉ làm công việc trả lại thực tại cho con người. Hay nói cho đúng, ông chỉ muốn tô điểm lại vai trò của con người trong trời đất : con người là động lực trong thế gian, con người cho thế gian một sức sống động, đúng với ý nghĩa "nhân giả thiên địa chi tâm dã". Và nhân tâm không còn trở thành vô vi bất động, mà lại giao thoa với vạn vật và trời đất, bởi vì trời đất phát sinh cũng ở đó, mà hành động cũng ở đó. Đây chính là điểm đặc sắc của Nguyễn Du. Ông đã trả lại cho nhân tâm chính thực tại linh động của nó. Như thế triết lý và con người cũng nhờ đó mà có căn bản vững chắc. Vậy nói ông cách mạng, thì đây chính là một cuộc cách mạng nhân bản vậy.


[1] Lục Tượng Sơn Toàn Tập, Lời Tựa Vương Dương Minh : 聖人之學心學也. 

[2] Mạnh tử : “Tận tâm thượng” : 仁義禮智根於心.

[3] Mạnh Tử : Như trên : 盡其心者知其性也.

[4] Nhị Trình di thư : Quyển 14, trg 2 : 聖人致公心盡天理萬物之理.

[5] Chu Tử : Ngữ loại, Quyển 5, trang 11 : 仁是性惻隱之心是情須從心上發出來心統性情者也.

[6] Chu Tử : Như trên .

[7] Lục Tượng Sơn Toàn tập, Quyển 12 : 心即理也.

[8] Vương Dương Minh Toàn tập, Quyển 2, trg 5 : 心之体性也性即理也.

[9] La Chỉnh Am Toàn tập, Quyển 2, trg 2 : 夫心者人之神明性者人之生兣理理之所在謂之心心之所有謂之性.

[10] Lục Tượng Sơn Toàn Tập, Quyển 2, trg 2 : 灵於萬物貴於萬物.

[11] Bắc Hành tạp lục : Bài 57 "Trường Sa giả Thái phó" : 天降奇才無用處.

[12] Thanh Hiên thi tập : bài 40 "Đạo ý” :

                       明月照古井

             井水無波濤

             不被人牽扯

             此心終不遙

             縱被人牽扯

             一遙還復止

             湛湛一片心

             明月古井水. 

[13] Thanh Hiên thi tập : Bài 50 "Tạp thi 2" :

                       葉落花開眼前事

             四時心鏡自如如.

[14] Thanh Hiên thi tập : Bài 5 "Tạp ngâm 2" :

                       幽居愁極忽知

        達人心境光如月.

[15] Thanh Hiên thi tập : Bài 60 "Lạp” :

                       吾亦樂吾麋轆群

             解釋閒情安在擭.

[16] Bắc hành tạp lục : Bài 123 “Đào hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích" :

                       千年滕蹟以人傳

             不在悠悠一潭水.

[17] Lễ Ký : "Lễ vận thiên” : 人者天地之心也.

[18] Bắc Hành tạp lục : Bài 126 "Lương Chiêu Minh Thái Tổ phân kinh thạch đài” :

                       人了此心人自渡

             灵山只在汝心頭

             明鏡亦非臺

             菩提本無樹

             我讀金剛千遍零

             其中奧旨多不明

             及到分經石台下

             纔知無字是真經.

[19] Cũng bài trên :

                       佛本是空不著物

             何有乎經安用分

             灵文不在言語科

             孰為金剛為法華

             色空境界茫不誤

             癡心歸佛佛生魔

             一門父子多膠蔽

             一念之中魔自至.

0 nhận xét: