Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2024

Thần học thiêng liêng (tiếp theo)

 


Tiến Trình Ðức Lý

Nên thánh và đức hạnh, đó là chính con người tôi nên thánh và sống đức hạnh. Tôi chỉ nên thánh và sống đức hạnh bằng hành vi và khuynh hướng của mình. Nói đến hành vi, phải nói đến ý thức và quyết định. Còn khuynh hướng đây là tập quán tốt hay đức tính chúng làm nên căn bản đức lý của con người tôi.

Quả thật, một hành vi thực sự nhân linh luôn diễn ra với ý thức đầy đủ về lý do, sự việc, với quyết định dứt khoát trên căn bản của ý thức ấy. Do đó, quyết định biệt định hành vi thành tốt hay xấu, tốt ít hay tốt nhiều. Và qua hành vi, nó biệt định con người, biến tôi thành xứng hay bất xứng đáng bởi việc làm của tôi, do đó cũng vạch trên căn cước vĩnh cửu của tôi một dấu ấn nào đó.

Quyết định không thể y hệt nhau từ hành vi trước đến hành vi sau, và dấu vết để lại trên nhân cách cũng nông sâu khác nhau theo thời gian. Bởi lý do còn tác động của kinh nghiệm và tập quán, Kinh nghiệm giúp ta tập dượt, để bề rộng và bề dầy các hoàn cảnh khiến cho hành vi ngày thêm tinh tế, dẻo dai. Còn tập quán lại gia tăng độ nghiêng khuynh hướng và độ vững của nền, khiến quyết định thêm trơn, lanh, dễ, mạnh, chắc. Lý do là vì các khuynh hướng đối nghịch suy yếu dần và các chỗ gồ ghề tâm lý được mài trơn, khiến bộ máy làm việc tốt hẳn sau giai đoạn chạy rà (rodage).

Thế nhưng ngược lại, nếu do quen (việc) mà không phải chống chọi hay cố gắng gian khổ nữa, thì ý thức có kém đi, quyết định có mờ nhạt, do đó hành vi bớt nhân linh hay không?

Ðể trả lời câu hỏi, trước hết nên phân biệt ở hành động cái xác của nó là then máy tâm - sinh lý, và cái hồn là ý hướng, động cơ, tâm tình. Khi hành động nghiêng về xác, thì cái "quen" có giảm đi ý thức và quyết định thật. Còn khi nó mạnh về hồn, thì tập quán thành đức tính chỉ nói lên độ trơn nhạy của tinh thần và độ thuần hóa của "xác thịt" nó không còn là sức trì, mà đã thành lực đẩy cho tinh thần bay dễ hơn, khiến hành động như lướt êm trên đệm từ, không một rung chuyển của va chạm, nên cũng không còn cảm nhận của vượt cản, thế thôi. Mà như thế là hoàn thiện, chứ đâu phải khuyết điểm. Tự nguyện không còn nghịch với tự nhiên, vì tự nguyện đã nên tự phát (spontaniété) rồi. Tự phát chính là chỗ hoàn tất của đạo đức vậy (Xem thêm A. Louf, Std, tr.54).

Tự phát dù đã đạt, vẫn còn tiến không ngưng. Nó tiến về cả độ bén nhạy, trơn lanh, cả về nội lực và bề sâu nữa. Và như thế, có sự vượt trội của tiến bộ (proficiens) đối với khởi đầu, dù ngay lúc khởi đầu, anh đã có một tình yêu bốc lửa, một quyết định như búa giáng trên đe. Có điều sức mạnh của khởi đầu sẽ thành một trớn tốt, để do gia tốc mà tiến độ ngày càng lớn thêm. Vâng, sức mạnh khởi phát tác động vào bước tiến dài lâu, nhưng cơn sóng bề mặt mà chị thấy thường khác với dòng chảy bề sâu mà chị không thấy. Thế mà chính độ sâu bản thân (profondeur personnelle) mới là quan trọng (Xem thêm K. Rahner, Eléments de théologie spirituele, tr. 27-31). Ðộ sâu bản thân này vừa làm thành độ sâu đức lý, vừa quyết định phần lớn độ sâu của quyết định trong hành động của anh.

Ðó mới chỉ là đạo đức thủ đắc (vertu acquise), tự phát thủ đắc, độ sâu thủ đắc. Dù trơn lanh, bén nhạy và sâu xa tới đâu, hành vi trong đạo đức thủ đắc vẫn còn nhiều nông cạn, và tự phát của nó không thể là hoàn toàn. Bởi lẽ các đức thiên phú, con đẻ của ân sủng, từ bề sâu vô thức chưa bắt tay chặt chẽ được với sinh hoạt đạo đức mặt ngoài. Thần khí rồi phải vào cuộc trực tiếp, với những thử thách "đêm tối", sẽ triệt hạ mọi rào cản và nối mạch giữa trong với ngoài, giữa siêu nhiên với tự nhiên. Hậu quả là một cuộc sống hoàn toàn mới, với một thánh thiện hoàn toàn khác. Ðạo đức đã thành thiên phú cả ở bề mặt của hành động chúng ta. Hay nói cho đúng hơn, đạo đức thiên phú từ sâu thẳm vô thức đã tràn tới bề mặt ý thức và hoạt động ở đó. Giống như bước chuyển từ chiêm tự mình sang chiêm do Chúa (tức thiên phú) vậy. Theo tôi nghĩ, việc chuyển biến ấy thường diễn ra cùng lúc trên hai địa hạt chiêm hành. Vì sự sống thiêng liêng là một mà. Là một bằng cả hai mặt ấy, khiến cho khi Thánh Thần vào cuộc trực tiếp, thì Ngài vừa khiến tôi sáng lên bên trong, vừa dìu tôi đi trong hành động.

Hội nhất trong đức Ái

Sự hoàn thiện cũng là sự hoàn tất nhân cách đức lý con người, dù trên bình diện thiêng liêng cũng thế. Nghĩa là tôi không thánh với từng mảnh đức tính rời rạc, nhưng với những khuynh hướng tốt đã thành cơ cấu với nhau để làm nên chỉ Một con người đức lý thôi. Sự hội nhất đức lý ấy là do Nhân trên bình diện tự nhiên, còn trên bình diện siêu nhiên thì do Ái (Xem lại chương 6).

Bước tiến thiêng liêng quả là hướng về sự hội nhất trong đức Ái. Càng đào tới bề sâu tôi, đức Ái càng dung hợp các đức. Bước đầu của nó là xoi thủng lớp vỏ để làm hiện rõ vết nhơ do nết xấu và tội. Ðức Ái sẽ thúc tôi ăn năn và hoán cải, đồng thời sắp đặt nội tâm và cuộc sống cho ngăn nắp. Yoan Thánh giá ví đức Ái với mặt trời chiếu qua cửa kính (Leo núi Các men, q.2, ch.4). Ánh sáng đức Ái vừa giúp nhìn ra vết bẩn trên kính, vừa tẩy rửa để lọt qua kính vô phòng, khiến tôi thấy rõ nội tâm, khiến kết hợp được trong đó những sức lực và khuynh hướng để tạo nên một nhân cách vững vàng.

Sự hội nhất cứ thế tiến mãi vào chiều sâu, về phía những gì nền tảng nhất. Mỗi tầng khi được quét dọn và sắp đặt rồi, lại giúp ánh sáng xuyên vô tầng trong để đức Ái tiếp tục công việc. Tới một độ sâu nào đó, nó sẽ chạm phải những sức cản lớn nhất: về đức lý, đó là cái Tôi và tầng ngầm của tự ái; về tâm lý, đó là phản xạ chống đỡ tự nhiên của trí năng và cảm năng vốn chưa quen với môi trường phi trọng lực, với những làn sóng siêu ngắn của Thánh Thần. Sức cản còn có thể là những trói buộc vô thức có tính tâm bệnh, khiến tôi khó chấp nhận cho mình (assumer) một số hoàn cảnh (situations) hay biến cố (événements). Với những trở ngại trước, thì đêm tối Chúa gửi sẽ san bằng dần. Còn với trở ngại tâm bệnh, thường phải nhờ đến phòng mạch phân tâm. Theo một số chuyên gia tu đức học, thì những khoảng tối tâm lý này, khi chưa tước đoạt hết tự do, sẽ không ngăn trở việc lướt sóng nên thánh, dù con tàu có thể chấn động do va chạm mạnh. Theo tôi nghĩ, và nhiều thần học gia hôm nay cũng vậy, thì tuy với ơn Chúa, tôi vẫn có thể vượt qua, nhờ đó thánh siêu nhiều mặt, nhưng sự hội nhất không thể toàn vẹn, cũng như thương tích không sao tránh khỏi.

* * *

Chẳng những hội nhất các đức là do đức Ái, mà các hành vi đức Ái cũng cần được hội nhất bằng một thái độ căn bản (attitude de fond).

Khi còn nông trong đức Ái, với cầu nguyện tôi nhiều ý nhiều lời, cũng như đếm số lần đi lễ, lần hạt, hành hương. Riêng hành động thì vẫn tản mát với những việc mục vụ này, việc xã hội kia. Kịp khi đức Ái do lâu ngày tập mà thành thái độ căn bản, tôi chỉ còn thiết tha với một mình Chúa dù trong công việc hay trong suy chiêm, đồng thời nhìn thấy Chúa nơi tất cả những người mà tôi đang phục vụ. Ðây là lúc mà đức Ái không những hội nhất bản thân tôi, mà còn mở tôi sang thế giới, để sự hội nhất thành hội nhất Thiên-Thế-Ngã. Lúc cầu nguyện, tôi không chỉ nhìn Chúa, mà còn với Chúa nhìn sang hoàn vũ: "quan thế âm", để đức Ái được suy chiêm nung nấu cũng thúc tôi tạm rời suy chiêm lên đường phục vụ. Rời suy chiêm, nhưng tôi đâu có từ giã Chúa, khi mà tôi vào cuộc là để yêu Chúa hơn, để với Chúa truân chuyên đường trường cứu độ. Ban đầu, tôi còn phải từng lúc ngưng tay để hâm nóng tình yêu. Ban đầu, tôi còn vất vả tay chống tay chèo để khỏi sa lầy trong công việc bằng cách luôn nhớ lại mục tiêu Vì Chúa. Nhưng rồi sau những đêm tối thanh tẩy, tôi chỉ còn biết sống cho Chúa dù trong hành hay chiêm, vì không còn khoảng cách giữa hai bên nữa.

Sự hội nhất không những diễn ra giữa hành và chiêm, mà còn diễn ra giữa hai mặt yêu Chúa và yêu người. Ban đầu, người ta tưởng như yêu Chúa trong nguyện cầu và yêu người trong phục vụ. Nhưng sao lại không thể yêu Chúa trong phục vụ khi mà vì Chúa tôi đang phục vụ anh em nhỉ? Và sao lại không thể yêu anh em khi nguyện cầu nếu trong nguyện cầu tôi đang hướng về họ trong Chúa? Chính vì yêu người đã thành một với yêu Chúa, mà thánh Yoan có thể quả quyết: "Kẻ không yêu (anh chị em) thì không biết (hiểu) Chúa" (1Yo. 4. 8), và: "Nói mình yêu Chúa mà ghét anh chị em là nói ngoa" (1Yo. 4. 20).

* * *

(Còn tiếp)
- Trích từ tác phẩm "Thần Học Thiêng Liêng" của Lm. Hoành Sơn - Hoàng Sỹ Quý, SJ.


Thứ Hai, 23 tháng 9, 2024

Thần học thiêng liêng (tiếp theo)

 


Bước tiến song song chiêm hành

Con người là toàn bộ tâm thân, và cuộc sống đầy đủ của nó là toàn diện Tri-Tâm-Hành. Tình cảm tự nó thúc hành động. Cảm muốn mà không động chân tay thì xem như không thật mấy. Trái lại, nếu múa máy chân tay mà không nghĩ, không cảm, thì có hơn gì robot đâu.

Sống cho đúng người, thì phải có đức, có suy, có tình. Ba yếu tố ấy làm nên cái hồn của cuộc sống, còn hành động là xác thân. Yêu ư? Anh không thể yêu mà không cảm nhận mình yêu, cùng với sướng khổ đi kèm, cùng với cử chỉ để bộc lộ. Rồi còn chiều chuộng và săn sóc, còn hy sinh để cứu vớt hay tạo hạnh phúc cho người. Càng hành động như thế, ta càng cảm thấy yêu thêm, và tình yêu sâu vững hẳn. Nghĩa là tri, hành, cảm dắt díu nhau trong cuộc sống, với mỗi lúc một trong ba yếu tố hiện nổi.

Sống đạo cũng là sống, nên tiến trình nên thánh cũng diễn ra với sự kết hợp của tri, cảm, hành. Ðể hễ một bên tiến, thường cũng kéo theo hai yếu tố kia. Vì thế, hễ yêu Chúa sâu xa, tôi thường cảm nhận rõ sự có mặt với tôi của Chúa. Và hễ yêu đến thế, không thể tôi không làm một cái gì để biểu lộ tình yêu. Như hy sinh, như hiến thân đi mở Nước Chúa chả hạn. Ðấy là kinh nghiệm, dù của những thánh đan tu như Tiên sa Avila, như Tiên sa hài nhi Yêsu, như Marie de l'Incarnation... Theo Tiên sa Avila, khi đạt tới sự hiệp nhất trong huyền thức, tự nhiên ta sẽ hết vấn vương với sự đời và mong mỏi làm gì đó cho hạnh phúc thật của anh em (Xx. Tự truyện, ch. 16-17; Lâu đài nội tâm, cung phòng V, ch.2...). Như thế, tri nghiệm vừa sánh đôi với đạo đức, vừa gia tăng tình yêu và thúc đẩy hành động. Ngược lại, thứ hành động có hồn là tri, cảm ấy cũng đưa tình yêu đạt tới tầng nền và chiều sâu, nhờ đó làm nó lớn lên và vững chắc. Ðể rồi kẻ chỉ tìm Chúa trong hết thảy những gian khổ của mình, sẽ cảm nhận Chúa có mặt chẳng những trong nỗi vất vả ấy, mà cả khi ngưng việc làm đã trở về với cầu nguyện. Cứ thế, tri, cảm, hành tiến thoái có nhau, dù chiêm nhân bay cao hơn về tri nghiệm (gnôsis), và hành nhân táo bạo hơn trong việc mở Nước Cha và đi sâu hơn trong "đức tin tác động bằng đức Ái".

* * *

Huyền thức, do cảm nhận về một hiện diện thân yêu, trong khi thổi hồng ngọn lửa Ái, cũng luyện trong và đánh bóng tấm gương soi nội tâm, khiến lộ ra bề sâu của đại trí (sagesse), độ sắc sảo của khôn ngoan (prudence), sự bén nhạy của phân định (discernement). Nhờ đại trí, tôi không chỉ nhìn ra sự thật, mà còn ngỡ ngàng trước chiều cao của Thiên Chúa, bề dầy của thiên ân, bề sâu của mầu nhiệm, từ đó sinh ra một hoan lạc không gì diễn tả nổi, và bật lên những chúc tụng say sưa, có khi trong tiếng u-ơ của ơn dị ngữ (don de langues). Còn với sự khôn ngoan nói trên, tôi không chỉ tìm ra lối đi và cách ứng phó linh hoạt cho từng hoàn cảnh, mà cùng lúc còn cảm thấy trong công việc sự ấm áp của bàn tay Chúa "tay trong tay" đang dẫn dắt tôi đi.

Thật ra, huyền nghiệm không phải là thánh thiện, nhưng nó thường đi đôi với thánh thiện và là kết quả của sự trao đổi giữa Thần khí viết hoa của Chúa với thần khí con đẻ của Ngài nơi tôi. Sự chạm nhau giữa hai thần khí làm bật sáng ngọn đèn thiêng liêng của tâm (noũs), khiến tôi nhìn ra cả tôi lẫn Chúa cùng với tình thân và ý định của Chúa về tôi. Chẳng những cảm nhận Chúa trong tôi và tôi trong Chúa, mà nhờ tia sáng bật lên nối liền hai cực, tôi còn nhìn ra dưới bóng êm ái Chúa cả loài người và thế giới nữa. Vâng, nhờ ánh sáng này, đâu đâu tôi cũng thấy Chúa, khiến "sống với tôi là Ðức Kytô" vậy. Một khi đã thấy Chúa trong hết thảy và hết thảy trong Chúa như thế, thì cầu nguyện chẳng còn phân ly với hành động nữa. Hành và nghiệm tri đã cùng bước với nhau, tay trong tay một cách rất mật thiết, và đây là trường hợp cung phòng bảy trong Lâu đài nội tâm của Tiên sa Avila. Cung phòng bảy là chỗ gặp (ở vô cực) của hai đường thẳng song hành, và người ta có thể đạt tới cao điểm ấy dù bằng con đường hành động, dù bằng con đường tri nghiệm.

Từ lập công đến vô công
Từ tự mình đến Do chúa

Sự tăng dần ánh sáng trong tôi phải làm sáng dần sự thật về cả Thiên Chúa lẫn con người tôi. Thiên Chúa không còn là phản ảnh của những khát vọng thầm kín nơi tôi. Và con người tôi cũng không còn là cái mà tôi tưởng về mình. Tất cả được phơi bày dần, ngày trần trụi thêm. Và sự thật về tôi luôn tiến cùng chiều với sự thật về Chúa. Ðó là con người tôi đứng trước Chúa, được soi rọi bởi ánh sáng Chúa. Mà đứng trước Thiên Chúa với chiều cao đáng sợ của Ngài, tôi chỉ còn có cách bé hẳn đi, có cách chui xuống đất thôi. Vì mọi vết nhơ dù nhỏ nhất cũng hiện nổi với sự xấu, hèn của chúng. Trần truồng và yếu kém quá, tôi khám phá mình cần Chúa và chỉ có cách trông chờ hết ở Ngài. Lại cũng chỉ khi xuống tới cái gốc hư vô của mình, tôi mới nhìn ra chiều cao và vẻ đáng yêu của Chúa, nhờ đó đi vào sự thân mật của Chúa (Xem thêm Fr. Roustang, Std, tr.185tt). Cũng như khi nhìn rõ chiều cao của Ngài và đi vào sự thân mật ấy, tôi mới thấy mình bé bỏng và muốn ở lại trong sự bé bỏng ấy, nghĩa là khiêm nhu.

Thật ra, lúc tôi bắt đầu nhìn ra đúng Chúa, thì tôi cũng lóa mắt chẳng thấy gì nữa. Và đây là đêm tối nó thanh luyện thủy tinh thể, lấy đi từ "cái dằm" đến "cái xà", cả đức lý lẫn tâm lý, để đủ trong và đủ độ thiêng liêng rồi, mắt tôi có thể tiếp nhận thứ ánh sáng mới, khác lạ hoàn toàn. Khi còn trong bóng đêm, tôi sẽ thấy mình khô lắm đấy, nhưng lại khổ không gì diễn tả nổi. Nỗi khổ vì khô ấy tố giác một sức căng: tôi bắt đầu mong muốn Chúa, nhưng sự căng muốn ấy không do tôi mà do Chúa, nên lúc đầu tôi không cảm nhận được. Ðêm đã hết lúc mà mắt đã quen, và tôi hiểu ra rằng thánh thiện là do Chúa, chứ sự đóng góp của tôi chẳng đáng gì. Lúc thực sự coi tôi chẳng đáng gì, thường tôi cũng không mấy quan tâm đến sự toàn thiện của tôi nữa, mà chỉ khát khao vinh quang cho Chúa thôi.

Quả thật, khi mới bước vào đường nên thánh, tôi nghĩ đến nên thánh hơn là nghĩ đến Chúa. Và tôi tưởng như thánh thiện là do mình dù miệng luôn nói: "Tất cả là ân sủng", "Tôi là đầy tớ vô ích", v.v... Tuy nói ra như thế, nhưng đây mới chỉ là những ý tưởng trừu tượng, điều mà tôi cố tin, thế thôi. Chỉ sau nhiều thử thách do Chúa trực tiếp bằng những đêm tối, tôi mới khám phá ra cái mà tôi biết rất khác với cái là sự thật, và sự cảm nhận của tôi phân biệt với sự có mặt của Chúa. Do đó, việc thấy mình lung lay trong đức tin có thể đi đôi với niềm tin vẫn vững; việc thấy mình khô khan có thể đi đôi với an định ở bề sâu.

Vào thời mà tôi nghĩ rằng tất cả tùy thuộc mình, tôi cũng tưởng nên thánh là lập công, là đạt nhiều thành tích, là thủ đắc hết đức này đến đức kia, là sở hữu sự thánh thiện. Thật ra, ý nghĩ này rất cần để thúc tôi cố gắng, vì nếu phó thác bị hiểu sai đi khi tôi chưa chuẩn bị đủ và Thánh Thần chưa trực tiếp vào cuộc, thì tôi sẽ thiếu nghị lực và quyết tâm lúc mà tôi chưa có khả năng dung hòa giữa một bên là tự tin và bên kia là tin Chúa trong quá trình nên thánh. Nhưng rồi tới lúc tôi phải chuyển dần từ ỷ vào sức mình sang nương vào sức Chúa. Ðể cuối cùng, khi đạt tới ý thức "Vô kỷ, vô công, vô danh", thì tôi đã tiến một bước rất dài trên đường toàn thiện. Ðây cũng là lúc tôi tới ngưỡng cửa của đạo đức thiên phú, mà chìa khóa nằm trong tay Thần khí hoàn toàn.

(Còn tiếp)
- Trích từ tác phẩm "Thần Học Thiêng Liêng" của Lm. Hoành Sơn - Hoàng Sỹ Quý, SJ.


Thứ Bảy, 21 tháng 9, 2024

Thần học thiêng liêng (tiếp theo)

 

Một vài nhận xét

Rảo qua một lượt những học thuyết trên, chúng ta nhận ra ai nấy đều tin vào một tiến trình nên thánh. Nghĩa là chỉ có thể nên thánh dần dần, từng bước một. Và như thế, xem ra có thể phác họa những bước tiến đó.

Bước tiến dễ được đồng hóa với bậc thang tri nghiệm, nghĩa là huyền thức càng sâu, thì thánh thiện càng cao. Và như thế, có gì giống quan điểm của Ấn giáo, Phật giáo. Với Ấn giáo, Phật giáo, giải thoát là ở một huyền thức, Samâdhi. Chính Samâdhi cũng tiến từng nấc một.

Nếu toàn thiện là một với tri nghiệm ở đỉnh chót, thì hẳn chỉ kẻ chiêm chuyên nghiệp mới có khả năng nên thánh, ít là nên thánh cao. Và như thế, các sứ giả Tin mừng, dù vì Chúa mà gian khổ đến đâu, thậm chí liều thân nữa, sao có được may mắn đó? Thật "vô lý chi thậm"!

Sau này, thần học có quan tâm đến đạo đức thật, chứ không tri nghiệm suông. Có điều huyền thức vẫn được đề cao, và đạo đức được thang bậc hóa theo lý, chứ chưa được trình bày theo chuyển biến tâm lý thật sự.

Một khi sau này hai lược đồ Tam đạo (Thanh-Minh-Hiệp) và Tam bộ (Khởi-Tiến-Thành) song hành với nhau trong suy tư, người ta cũng đặt cận kề cả nghiệm tri lẫn đức hạnh. Có điều như trong Tiên sa Avila và Yoan Thánh giá, nghiệm tri vẫn ở vị thế số một, nếu không nói là độc tôn, trong khi đạo đức chỉ được trình bày trong liên đới với nó thôi.

Về đạo đức, người ta vẫn nhấn vào đức Ái như Phaolô. Nếu đức Ái là quan trọng nhất, thì nên thánh phải là vì Chúa hơn là vì chính sự lành thánh của mình. Theo kinh nghiệm, cả thánh thiện bản thân và vinh quang của Chúa luôn đi đôi với nhau trong tâm ý. Thế nhưng ở giai đoạn đầu, người ta khát khao nên thánh nhiều hơn, trong khi ở giai đoạn cuối, người ta lại tìm Chúa, chứ nên thánh không còn là bận tâm chính nữa.

Nếu bước tiến là từ nên thánh đến tìm Chúa, thì bước tiến ấy cũng là từ đạo đức đắc thủ (vertu acquise) sang đạo đức thiên phú (vertu infuse). Nghĩa là hồi đầu, người ta tưởng như nên thánh là nhờ cố gắng và trong khả năng của mình. Nhưng khi vào sâu rồi, người ta mới cảm nhận sự bất lực để chỉ trông vào Chúa thôi. Cũng hồi đầu, người ta mỏi tay kín nước giếng để tưới tẩm vườn cây thánh thiện, để cuối cùng, khu vườn ấy được tưới quá tốt chỉ bằng những cơn mưa (Tiên Sa Avila dùng hình ảnh Tưới để phân biệt bốn cấp suy chiêm, Xx. Tự Truyện, ch.11).

Ðắc thủ và thiên phú khác nhau bằng khoảng cách quá lớn, khoảng cách giữa Người làm và Trời làm. Tu đức xưa nói đến Ðắc thủ và Thiên phú trong chiêm niệm. Thiết tưởng nên nối dài hai chuyên tính sang cả hành động nữa, để cuộc sống thành một dưới hai mặt chiêm và hành. Nghĩa là có toàn thiện thủ đắc và toàn thiện thiên phú nó phải thiện toàn hơn hẳn. Và sự toàn thiện hai cấp hay hai loại ấy diễn ra dưới hai mặt chiêm và hành, với sự nghiêng về hành cho tông đồ, nghiêng về chiêm trong đan tu.

Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này ở chương 30.

Riêng về ý thức, dù trong đời sống hành hay chiêm, bước tiến hẳn là từ nên thánh làm giàu sang nên thánh làm nghèo. Bắt đầu, người ta lo ương trồng các đức và thu nhập ân sủng. Nhưng rồi người ta sẽ hiểu ra: vấn đề chính là Vét rỗng, sao không còn tưởng mình Có gì, Là gì nữa, mà CHẲNG ÐÁNG GÌ trước Chúa. Chỉ khi tôi bé lại tới số KHÔNG ấy, Thần khí hết vướng vít mới có thể vào cuộc toàn phần, hầu biến tôi thành kiệt tác phẩm.

Nói cho đúng ra, lúc khởi đầu, không nên đi ngay vào con đường tin tưởng đến Buông mặc (abandon), vì nếu bị hiểu sai, phó thác sẽ thành ỷ lại, khiến ta không cố công nên thánh, cố rèn nhân cách, cố luyện sự tự chủ và đạo đức bản thân (vertu personnelle). Chờ khi cố gắng đã quen, các đức đã có gì vưng vững, ta sẽ bớt dần phần mình để tăng dần phần Chúa. Ðây là ý thức về sự bất lực và thiếu thốn để dễ buông mình trong tay Chúa. Có thế, Chúa mới hành động nổi. Chứ cứ ỷ vào mình, tôi sẽ kiêu ngạo lên, và cái Tôi quá lớn làm nghẽn lối của Chúa.

Cũng nên nhớ, trong tiến trình nên thánh, quan trọng nhất là cái trớn đầu. Trớn yếu là của kẻ chỉ muốn bớt tội và tránh địa ngục, khiến không thể tiến xa. Riêng kẻ, do sự thôi thúc của ân sủng, muốn làm thánh và hiến thân hoàn toàn cho Chúa, chính kẻ ấy mới trên đà nên thánh thật sự, và lược đồ dù Ba đường hay Ba bước cũng chỉ áp dụng được cho họ mà thôi. Vâng, miễn là quyết định ban đầu ấy nghiêm túc và do thúc đẩy của Thần khí, miễn là họ kiên trì, đi đúng lối và đủ thời gian, thì thế nào rồi họ cũng qua minh đạo vào hiệp đạo.

Sau đây, chúng ta sẽ lần lượt bàn giải và bàn giải mạch lạc về tiến trình nên thánh ở những mặt khác nhau của nó. Thế nào cũng phải chia tiến trình ấy thành những giai đoạn, nhưng nên hiểu rằng sự phân chia ấy chỉ mang tính chỉ dẫn (indicatif) thôi. Vì thật ra, những gì nói đến trong mỗi giai đoạn cũng gặp phần nào trong các giai đoạn kia nữa. Như thanh luyện chẳng hạn. Thêm vào đấy, sự "đốt giai đoạn" có thể xảy ra: Một kẻ đang sống buông thả có thể bỗng nhiên được mang tới cao đỉnh của chiêm, nhờ đó biến đổi hẳn, như Tiên sa Avila cho biết...

(Còn tiếp)
- Trích từ tác phẩm "Thần Học Thiêng Liêng" của Lm. Hoành Sơn - Hoàng Sỹ Quý, SJ.

Thứ Tư, 18 tháng 9, 2024

Thần học thiêng liêng (tiếp theo)



BƯỚC TIẾN THIÊNG LIÊNG
VÀ NHỮNG GIAI ÐOẠN

Linh Mục Hoành Sơn, SJ, Việt Nam

Prepared for internet by Vietnamese Missionaries in Taiwan

Ðâu là hướng đi và những bước tiến

Siêu nhiên là chính tự nhiên được biến cải vượt mình, nên đời sống siêu nhiên cũng dịch biến như đời sống tự nhiên. Ðã nói đến dịch biến, thì phải có tiến có thoái, có cao có hạ. Mà tiến thoái và cao hạ, thì phải có tiêu chuẩn để đánh giá, đỉnh cao để hướng về. Mà hễ tiến tới và đo lường được, thì cũng có thể chia tiến trình thành những giai đoạn khác nhau. Vì những giai đoạn ấy được sắp xếp trước sau so với điểm khởi và đích tới, nên chúng cũng làm nên những thang bậc mà đỉnh cao là toàn thiện.

Vậy xét theo lý, thì phải có bước tiến khi đã xác định xong hướng tiến. Xác định được hướng tiến và bước tiến sẽ biết lúc này ta đang ở đâu, còn bao xa để tới đích, rồi liệu cách đi thêm nữa.

Con người sinh ra trong bùn nhơ tội lỗi (Tv. 50.7), nên cái mà nó khao khát là sự trắng trong. Có lẽ vì thế nên ước mong thầm kín đã ngầm được gửi gấm ở nguyên tiêu Ðại mẫu đồng trinh, rồi từ đó ở lòng tôn sùng đức Maria vô nhiễm thai và trọn đời tinh tấn.

Nếu Kytô-giáo hôm nay nhấn vào đồng trinh và vô nhiễm, thì Phật giáo lại đề cao Vô dục (a-kâma). Ðối với sự trắng trong, nếu đồng trinh là biểu hiện thể lý và vô nhiễm nói lên thực trạng bây giờ, thì vô dục lại nhấn vào khả năng miễn nhiễm của lòng ta.

Thật ra, sự vô dục hay siêu thoát cũng được đề cao trong đời tu Kytô-giáo dưới những cái tên như Bất thụ cảm (a-patheia), từ bỏ (renoncement, abnégation), không vấn vương (détachement). Và nếu Phật giáo cho rằng chân lý sẵn đây rồi, chỉ cần gạt bỏ tham si, là thấy ngay, tức giác ngộ, thì Kytô-giáo cũng coi thánh thiện đã có mầm nơi ân sủng, khiến chỉ cần lấy đi những cản trở, thì Thần khí vào cuộc sẽ hoàn thành tác phẩm ngay. Như thế, phải chăng nên thánh cốt ở Dọn sạch và Vét rỗng?

Vả nữa, Chúa đến là để diệt tội và diệt cái chết thiêng liêng vốn là hậu quả của nó, nên xem ra được giải thoát khỏi tội, thành vô nhiễm hay miễn nhiễm đối với tội là điều Chúa nhắm cho ta khi giáng trần và chịu chết.

Có điều hình như Vô nhiễm và Vô dục chỉ là điều kiện hay hậu quả của một ân huệ tích cực hơn. Vì không những chết, Chúa còn phục sinh trong một sự sống khác hẳn. Và theo thánh Phaolô, nếu Chúa không sống lại, thì tin cũng thành vô ích (1Cor. 15.17). Do đó, việc tái sinh trong nước và Thần khí mới là đích thật của cái chết cứu chuộc.

* * *

Một quan điểm khác về thánh thiện, nó thường ngự trị trong đầu của khá nhiều tín hữu đạo đức: Nên thánh là lập công, là tích góp công đức (mérites) (Công Giáo Việt xưa dịch Mérites là Công nghiệp).

Vì công đức, người ta đọc hết tràng hạt này đến tràng hạt kia. Vì công đức và ơn toàn xá, người ta viếng đi viếng lại nhà thờ, mỗi lần đọc sáu kinh Lạy Cha, Kính mừng, Sáng danh. Vì công đức, người ta năng đi lễ, chịu lễ, cúng tiền vào nhà thờ... Một thánh thiện số lượng, và nên thánh bằng tính cộng, tính nhân! Y như các Phật tử luôn miệng "A di đà...", cúng dường chư tăng, công đức xây bảo tháp...! Với Phật giáo, thứ đạo tích góp ấy là của tục gia thôi, chứ kẻ xuất gia thì không màng tới bao giờ.

Tu sỹ Kytô-giáo, ngoài việc đếm kinh và đếm việc lành ra, còn cố sống đạo hạnh nữa. Nhưng dường như đức hạnh cũng được xem như thành quả của việc tích góp các việc thiện và thiêng liêng. Thật ra, không thiếu kẻ cho rằng: Thánh là do ân sủng. Có điều chính ân sủng cũng được coi là sở hữu, với số lượng ít hay nhiều, do đó được tích góp, bằng những lần chịu lễ, viếng Thánh Thể chẳng hạn.

Nói cho đúng, ân sủng là vô thường, lại thiêng liêng nữa, nên không do tích lũy mà thành, không do công tôi mà có được đâu. Ân sủng hoàn toàn do sự quảng đại của Chúa. Ân sủng lại là chính Chúa đang yêu tôi, là chính tôi được cải hóa bởi tình yêu này. Nên vấn đề không còn là số lượng và sở hữu nữa. Vâng, thánh là con người tôi nó thánh. Thánh thiện là giá trị (valeur): giá trị thiêng liêng của một con người. Là "giá trị", nên đây là vấn đề phẩm cách (dignité), không do tích góp mà nên. Của một con người, nên đây là vấn đề hiện hữu, chứ không phải sở hữu. (Coi thêm K. Rahner, Eléments de théologie spirituelle, tr.10).

Do đó, thánh thiện không nằm ở chỗ tôi thấy mình giàu lên, dù giàu bằng của cải thiêng liêng, bằng đức tính, bằng ân sủng (ở chỗ được coi như sở hữu). Mà ở chỗ tôi thấy mình thật nghèo, chẳng có gì hết. Ðây là "Hư kỳ tâm", "Thanh bần trong tâm hồn", mà trên nền tảng (rỗng) ấy xây dựng lâu đài Chúa và kho tàng không mối mọt của ta.

* * *

Nhà tu xưa quen đặt thánh thiện ở huyền nghiệm. Cũng như Samâdhi và Giác ngộ trong Phật giáo ấy mà. Thật ra, ngay Phaolô cũng đề cao con đường tri thức khi nói đến sự lớn lên trong Chúa nhờ gia tăng trong hiểu đạo (Eph. 4.15; Col. 1,10; 2Cor. 10.15). Và Phêrô cũng chung một quan điểm (1Ph. 2.2; 2Ph. 3.18). Xem như đỉnh cao của hiểu đạo đã thành một với đích cuối của phát triển: đạt tầm vóc đức Kytô ở độ sung mãn của Ngài.

- "... làm sao để cuối cùng rồi tất cả cũng đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự hiểu biết Con Thiên Chúa, đạt tới tình trạng hoàn thiện, tới tầm vóc đức Kytô trong sự sung mãn của Ngài" (Eph. 4. 13).

Như thế, phải chăng sự hiểu Chúa làm nên thánh thiện? Hay sự hiểu biết ấy chỉ tiến cùng chiều với thánh thiện thôi, như điều kiện hay biểu hiện tất yếu của nó?

Thế nhưng về thánh thiện, Phaolô cũng nói nhiều đến sống tốt, đến việc nên giống Chúa và thành một với Ngài. Phải chăng mức thánh ấy tùy vào độ đồng hóa kia?

Thêm vào đấy, để nên một với Chúa và cùng "giống" với Ngài, Chúa lại đưa ra một điều kiện, xướng lên một nguyên tắc:

- Mẹ Ta và anh chị em Ta, đó là kẻ thi hành ý Cha Ta!

Ðấy là Thuận Thiên. Không phải Thuận Thiên để nên giống Chúa, vì Thuận Thiên  giống Chúa, là cùng dòng giống với Ngài. Thước đo không còn là Biết nữa, mà là cách sống, cách hành động: Thi hành ý Cha! Vậy nên thánh thuộc phạm vi đời sống, và thánh là chính con người thánh, đã thành "con người thiêng liêng", tức theo dạng Thần khí (1Cor. 2,13-3.1; Gal. 6.1). Con người dạng Thần khí là kẻ sống theo sự hướng dẫn của Thần khí, được đặt hoàn toàn dưới tác động của Ngài, do đó nhu thuận tối đa, nghĩa là Thuận Thiên hết mức, nhờ đó thành bà con với đức Kytô. (Xem thêm Fr. Roustang, Une initiation à la vie spirituelle, tr. 181-182).

Vậy trong ý nghĩ thầm kín của Phaolô, thánh thiện bao trùm toàn cuộc sống, từ tri đến hành, chứ không phải của tri suông, dù do ảnh hưởng giáo dục, ông hay nhấn vào tri thức. Nhưng thử hỏi quan trọng nhất là yếu tố nào đây: tri thức hay hành động, hoặc chính con người chúng ta? Và đâu là vị thế của mỗi yếu tố trong tương quan với nhau?

Trước khi đưa ra một giải đáp, chúng ta hãy tìm xem trong truyền thống, cộng đồng Dân Chúa đã nghĩ thế nào.

Truyền thống với tiến trình nên thánh

Dù đặt đức Ái lên chỗ tối cao, dù nói nhiều đến sự sống mới, xem ra Phaolô vẫn mải mê với tri nghiệm (sofia, gnôsis). Chắc vì ông là tử đệ Platon, cũng như mọi trí thức như ông thời ấy, dù trong Do thái-giáo hay Kytô-giáo cũng vậy. Ngoài Platon-thuyết, sau này còn ảnh hưởng Manès-thuyết nữa. Dù chống lại nghiệm tri chủ nghĩa (gnosticisme), các giáo phụ vẫn chia sẻ với họ cùng một khuynh hướng: hướng trí thức, và một số quan điểm. Cũng do đó, mà ngay khi bắt đầu phác họa lý thuyết về tiến trình nên thánh, họ đã đặt nghiệm tri làm đích tới và đỉnh cao.

Với Clément thành phố Alexandria, kẻ nghiệm tri thấy điều huyền ẩn, vô sắc tướng. Nên để huyền tri, phải khử bỏ ngôn từ. Cố nhiên là phải luyện đức nữa. Thế nhưng đức hạnh thuộc "con đường hành động" (voie des oeuvres), mà con đường này chỉ là cửa dẫn vào "con đường nghiệm tri" (voie de la gnose) thôi. "Con đường nghiệm tri" rồi sẽ được gọi là "đời sống chiêm" (vie contemplative), để chỉ kẻ chiêm hay nghiệm tri mới là kẻ toàn thiện (perfectus), vượt trên hẳn kẻ tin vốn là kẻ chưa thấy. Thật ra, kẻ nghiệm tri cũng là và luôn là kẻ đức hạnh nữa, vì đức hạnh là hậu quả và giãi sáng của nghiệm tri.

Rõ ràng hơn, Origène và Evagre miền Pont chia đời sống thiêng liêng thành hai giai đoạn, với giai đoạn trước là hành (pratique), giai đoạn sau là tri (gnose). Hành là đời sống đức hạnh nó dọn đường cho huyền tri như đích điểm. Sự dọn đường ấy được coi như một tu tập tâm lý nó đặt nền trên một lý thuyết vừa thần học vừa siêu hình học. Ðây là trường học Apatheia, Bất thụ cảm, mà mục tiêu là biến tâm hồn thành trơ như đá trước những tác động từ ngoài. Có lẽ đây cùng loại với cái mà Phật, Ấn giáo gọi là Bình, chẳng còn phân biệt thân sơ, ưa ghét gì nữa. Có thế mới tập trung được sức mạnh cho chiêm ngưỡng, cho huyền tri Thiên Chúa, nhất là ở gốc nguyên thủy của Ngài: Một thể vô thanh vô danh.

Hành, hay Thực hành (pratique) cũng được chia thành nhiều giai đoạn, nhưng đây là một phân chia theo lý, theo thang cấp các đức tính, mà đỉnh là đức Ái, cố nhiên. Vâng, một phân chia theo lý, tức hình thức thôi, không đếm xỉa đến chuyển biến tâm lý tự nhiên, dù là của con người thiêng liêng nơi chúng ta. Lại dù đức Ái cũng chỉ thuộc Thực hành, nên ở ngưỡng cửa dẫn vào huyền thức. Chỉ huyền thức mới kết hiệp ta với Lời, nhờ đó cho ta dự vào tri thức ẩn tàng trong Ðại trí đấng Tối cao.

Với Grégoire thành phố Nysse, ta có một học thuyết về thang bậc đời sống thiêng liêng. Có điều đây cũng chỉ là thang bậc huyền tri, mà huyền tri là thấy Chúa trực tiếp nơi tấm gương đã thành trong sáng của linh hồn. Kế đó, Giả- Denys thuộc Aéropage phát minh lý thuyết nổi tiếng sau này về Tam đạo (nói về ba giai đoạn và ba cấp): thanh đạo (katharsis), minh đạo (fotismos), toàn hiệp đạo (teleiôsis-henôsis), với cùng một hướng đi và đích nhắm là nghiệm tri.

Với Augustin, đệ tử Tân Phaton-phái của trời Tây, thì bước tiến về toàn thiện cũng là bước lên trong tri nghiệm, từ cái đa dạng hình của thế giới đến sự trong suốt vô sắc thanh của Siêu việt thể. Cũng có lúc Augustin phác họa một thang cấp khác, với thước đo là Tình yêu. Và đây là tình yêu khởi sự (incipiens), tình yêu đang tiến (proficiens), tình yêu lớn, tình yêu hoàn thành (perfectus). Hay dưới những danh hiệu khác: tình yêu thoát thai, tình yêu được nuôi dưỡng, tình yêu tăng cường, tình yêu hoàn thành (accompli) (Về học thuyết các giáo phụ trên đây, chúng tôi nói theo Viller- Rahner: Ascese und Mystik in der Vãterzeit - Khổ hạnh và huyền nhiệm thời giáo phụ - được tóm tắt trong K. Rahner, élements de théologie spirituelle, tr.13tt.). Lược đồ này rồi sẽ được khai thác vào thời trung cổ, cùng với lược đồ của Giả-Denys Aéropage.

Ðúng là vào thời trung cổ, đã tái xuất giang hồ cả hai lược đồ của Giả-Denys và của Augustin, với ít nhiều đổi thay về từ ngữ, khá nhiều đổi thay về nội dung. Cái thang bốn cấp nay rút lại còn ba: Incipiens, Proficiens, Perfectus (Xx. Tôma, S. Th. IIa IIae, q. 24, a.9; q. 183, a.4). Hai lược đồ dắt nhau mà đi, cùng với ba bước cả. Lắm khi nội dung còn thấm sang nhau, để cùng biến đổi với nhau, đến nỗi Perfectus thành kẻ huyền tri, và Hiệp đạo thành đỉnh cao đức Ái.

Thật ra, ba bước Khởi-Tiến-Thành hồi trước mới chỉ là những cái vỏ hình thức không nội dung. Nội dung được mang vào, nhất là từ thế kỷ XIII, thời cực thịnh của kinh viện, tức tư tưởng "nhà trường" (Schola - école - là trường học. Nên Théologie scholastique đáng lẽ phải dịch là Thần học học viện. Mà thật ra, nó có môi trường hoạt động là các đại học). Theo Bonaventura, thì ở bước Khởi, người ta mới chỉ biết Chúa qua môi giới sự vật hữu hình vốn là hình ảnh Chúa. Ở bước Tiến, người ta thấy Chúa trong linh hồn nó là hình ảnh thiêng liêng và hằng cửu của Ngài. Còn ở bước Thành, Thiên Chúa được gặp trong huyền tri, ở đó con người được biến cải trong đấng đáng kính yêu. Ðây là giai đoạn được Bonaventura gọi là "phút giây huyền nhiệm... thật bí ẩn", đỉnh cao nhất của tiến trình thiêng liêng, đỉnh cao được Yoan Thánh giá gọi bằng cái tên "Hôn phối thiêng liêng", mà đường tới là Vét rỗng, Bóc trần qua những đêm tối thử thách: đêm tối giác cảm nó lấy đi chỗ dựa cảm tính, đêm tối tinh thần nó bắt ta phải nhắm mắt đưa chân bằng một đức tin trần trụi.

Cả Yoan Thánh giá lẫn Tiên sa Avila đều là bậc thầy về chiêm niệm trong đời sống đan tu. Họ nói bằng kinh nghiệm nhưng trong đường hướng cũ. Cái mà họ quan tâm nhất vẫn là suy chiêm và huyền nghiệm. Họ cũng nói đến tu thân bằng từ bỏ và luyện đức, nhưng họ chỉ đề cập đến đạo đức trong liên đới với nghiệm tri.

Yoan Thánh giá nói theo lược đồ Khởi-Tiến-Thành, mà đỉnh cao là sự hiệp nhất với Chúa trong huyền nghiệm. Ðể tiến cao trong huyền nghiệm, cũng là trong hiệp nhất, cần phải được thanh luyện hoài hoài bằng từ bỏ và đêm tối.

Tiên sa Avila chia tiến trình nên thánh thành bảy cung phòng (từ ngoài vào trong) hay Bốn cấp tưới nước (xét theo sự dễ dàng và công hiệu). Sự hiệp nhất với Chúa đi cùng chiều với các cấp huyền tri. Thật ra, chiêm cũng cần đến hành (như hãm mình) để hỗ trợ. Hành (hay thực hành) có thể làm tiến cao kha khá (vâng, kha khá thôi) dù không có chiêm, nhưng không thể chiêm mà không thực hành (Con đường toàn thiện, ch. 4). Thật ra, hễ có chiêm, người ta cũng có đức như hiệu quả của chiêm (ch. 17).

(Còn tiếp)
- Trích từ tác phẩm "Thần Học Thiêng Liêng" của Lm. Hoành Sơn - Hoàng Sỹ Quý, SJ.

Thứ Ba, 17 tháng 9, 2024

Việc phải làm

 


"Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm..."
Kinh Sáng Soi

Việc nào là việc phải làm?
Cuộc đời lắm thứ: ngổn ngang, bộn bề.
Mãi hoài, rồi lạc ngõ mê!

Thứ Hai, 16 tháng 9, 2024

Thần học thiêng liêng (tiếp theo)

 

Ý nghĩa sống đạo III: hiến dâng quảng đại

Dù sao thì sự chính trực cũng chỉ giúp đi trong giới hạn của những khuôn khổ, nên chưa cho phép bốc cao trong sự thong dong của Thần khí. Thái độ siêu thoát có đưa vào sự thong dong này, nhưng vì siêu thoát còn trong khuôn khổ, nên thong dong cũng giới hạn luôn. Siêu thoát là nghèo trong tinh thần: khiêm nhường bậc hai theo cách đánh giá của Thần thao I-nhã. Khiêm nhường cấp ba, vừa có thái độ siêu thoát của bậc trước, vừa có tình yêu nó thúc ta nên giống Chúa để chọn sống nghèo hơn là giàu, chọn sỉ nhục hơn là danh giá, "được coi là dại, là điên vì Chúa Kytô, đấng cũng chịu rẻ khinh như thế". Thật ra, chỉ trong tình yêu, ta mới thấy mình như bay bổng, thoát mọi thứ ràng buộc và giới hạn. Nghĩa là chỉ trong tình yêu ta mới hoàn toàn tự do, khi mà siêu thoát thành mở ra, mở hết, chứ không còn giới hạn, dù là giới hạn của khuôn khổ, của mức độ. Maria đã dốc sạch bình thuốc thơm mười tháng lương công nhân, nên đúng là quá mức đối với ranh giới đạo đức, quá mức theo cái lý và sự tính toán của các tông đồ. Có điều đã là tình yêu, thì nó không thể tính toán, không có mức độ, ngoài mọi khuôn khổ. Thế mà chỉ bằng sức phóng vô biên của tình yêu, ta mới đạt tới bản thân Chúa Yêsu, để nơi Ngài ta cũng đạt tới bản thân Cha:

"Kẻ không yêu thì không hiểu được Thiên Chúa, bởi Ngài là Tình Yêu" (1Yo.4.8).
"Thiên Chúa thì chẳng ai thấy Ngài đâu. Có điều hễ ta yêu thương nhau, thì Ngài ở nơi ta" (1Yo.4.12).
"Và đây dấu hiệu rằng ta ở trong Thiên Chúa, và Ngài trong ta: đó là Ngài đã ban cho ta Thần khí Ngài" (1Yo.4.13).

Vâng, hễ ở trong tình yêu, thì sống bằng Thần khí Chúa. Hễ vô quỹ đạo Thần khí, sẽ được bốc lên với tốc độ ánh sáng của Ngài. Và có thế mới đạt tới bản thân (bản vị) Thiên Chúa để hiểu Ngài, hiểu rằng Ngài là Yêu từ trong bản chất.

Quả thật, vì bản chất là Yêu, nên Chúa mới đánh giá đúng bình thuốc thơm của Maria. Bình thuốc ấy, giá trị nó không thể đo bằng 300 đồng tiền, mà bằng sự vô giá của ái tình. Tinh thần ngay chính, trọng nghĩa vụ, vẫn còn trong khuôn khổ của cân đo, vay trả. Nghĩa là nợ (nghĩa vụ) bao nhiêu, thì trả (thi hành nghĩa vụ) hết bấy nhiêu. Nên chỉ với tinh thần ngay chính thôi, ta sẽ không hiểu nổi vì sao Thiên Chúa cứu ta khi mà, đã mang ơn, ta còn phản bội. Ta càng không hiểu nổi khi mà, để cứu ta, Chúa đã vượt mức cần khi giáng trần và chịu chết.

Chính hành động phi tính toán, ngoài cân đo của Chúa đã sinh phản ứng dây chuyền cho cả chuỗi những hành vi quảng đại giống thế của biết bao đệ tử, những kẻ muốn lấy tình mà đền đáp ân tình. Và đây là những đệ tử chính tông, những thánh "đặc sản" Kytô-giáo!

* * *

Thật ra, chẳng ai đứng vững ở con đường nghĩa vụ (thái độ hai) mà lại không yêu Chúa và quảng đại một phần. Và dù có sống tình yêu (thái độ ba), do giới hạn của cảm tính, đêm tối của đức tin và cạm bẫy của thần tà, ai mà chẳng phải ức chế giác quan (trạng thái một), chu toàn nhiều nghĩa vụ (thái độ hai). Nên trong đời sống cụ thể, ba thái độ thường xen kẽ nhau, dung hòa với nhau, với một trong ba là chủ yếu, cùng với chiến thuật riêng của nó. Vả nữa, tình yêu vốn nhu nên dễ nhược, do đó cần đến một số kỷ cương để bảo vệ cũng như tăng độ chắc bền.

Nếu người thuộc thái độ hai đắn đo hơn, thì kẻ thuộc thái độ ba lại phiêu lưu hơn, muốn bỏ hết và cho hết, dù với những khuyết điểm lúc thi hành. Nếu thái độ hai đôi lúc phải cố vượt trên cân đo, thì thái độ ba khi vào việc cũng phải được lý trí soi sáng phần nào. Dù do khôn ngoan mà phải đôi phần thận trọng, kẻ sống cho tình yêu chỉ muốn làm theo Thần khí. Khi đã biết đúng đây là tiếng Thần khí rồi, họ sẽ không đắn đo nữa, mà vọt ngay theo tiếng gọi. Vâng, họ không lấy lý trí mình thay ánh sáng Chúa, mà chỉ dùng lý trí lúc cần để rà biết ý Chúa lắm khi khuất ẩn. Thái độ siêu thoát và trạng thái lắng nghe khiến cái tâm trở nên bén nhạy với tín hiệu từ Trời và mềm mại dưới ngón tay Thần khí. Thần khí không còn bị cản do ý muốn và trở ngại do phản xạ bản năng, sẽ dễ biến họ thành tác phẩm vừa ý mình, một kiệt tác.

Thế nhưng đã không có nhiều siêu phẩm như thế dù rất nhiều hiến dâng. Số là trong khi sốt sắng, người ta muốn từ bỏ hết và dâng hiến hết, nhưng mầm hiến dâng không khỏe và cây hiến dâng không có rễ sâu. Bởi thế, khi ngọn sóng cảm tính đi qua, người ta trở lại với những cân nhắc tầm thường khi hành động. Kẻ tận hiến thật thì tìm ý Chúa để dâng hiến, tựa vào sức Chúa để bước đi và kiên trung, chứ không ỷ sức mình. Một khi đã hiến thân nghiêm túc theo ý Chúa rồi, họ không nghe cám dỗ để đặt lại vấn đề bao giờ nữa, mà chỉ nhắm mắt thi hành thôi, dù có hứng hay không cũng mặc, dù thấy toàn bóng tối vẫn tin tưởng cất bước. Họ tự nguyện thật và kiên vững thật trong quyết định, chứ không làm cánh bèo nổi trôi theo thủy triều cảm tính.

Kẻ tận hiến thành thực và đạt thái độ ba (tuy còn ấu trĩ và chưa vững lắm) vẫn có thể là kẻ vừa rời bỏ đường tà. Xác thịt tuy còn nặng nề, nhưng hướng nhắm đã cao khi mà đức Ái Chúa Kytô tác động mạnh, khiến họ có thể quên mình vì Chúa và nói như Phaolô:

"Tôi tin chắc rằng: dù sự sống hay sự chết, dù hiện tại hay tương lai, dù thiên thần hay ác quỷ và các sức mạnh địa ngục, trên trời, vâng, dù bất cứ thụ tạo nào cũng không phân lìa nổi ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện nơi Yêsu Kytô Chúa chúng ta" (Rom. 8.38-39).


TÓM LẠI


Tâm lý khác nhau giữa trẻ với già, lớn với bé, do đó cách sống đạo cũng không thể hoàn toàn như nhau.

Trẻ thơ chịu tác động mạnh bởi gương xấu hay gương tốt, nhất là từ ba má, cô thầy. Nên bổn phận những vị này là phải sống gương mẫu, cũng như học phương pháp dậy trò, dậy con.

Từ lúc lên mười, trẻ bắt đầu muốn tự lập và chúng đủ khả năng nên thánh. Ðây là lúc giáo dục cần phải thận trọng, nhưng tế nhị hơn. Ðến tuổi thiếu, thanh, người trẻ vừa hướng động, vừa dễ yêu lý tưởng và có gan phiêu lưu. Họ phải nuôi ý nguyện nên thánh ngay từ lúc này, cũng như nuôi chí đấu tranh vì tương lai thế giới. Còn khi xế chiều rồi, ai nấy hướng nội dễ, nhưng phải cố gắng lắm mới còn chí phấn đấu và sự lạc quan.

* * *

Ðời người luôn cận kề với tai ương, lão bệnh, khổ đau và cái chết. Vậy hãy biết dọn mình bằng ý thức và đón trước đi. Ý thức nhờ kinh nghiệm và suy tư. Ðón trước bằng quyết nhận trong tin tưởng. Giả như nỗi đau, lo vẫn lớn hơn niềm tin còn yếu ớt, thì hãy tránh stress bằng những giải trí lành mạnh trước khi trở lại với suy tư và nguyện cầu.

Mức thánh thiện luôn tùy vào ơn Chúa cùng với sự hợp tác của tôi, trong đó quan yếu là thái độ vào đạo. Người ta không thể tiến xa nếu chỉ muốn tránh phạt hay lập công. Và sẽ khá hơn nếu sống vì nghĩa vụ. Kẻ thật sự bay bổng là kẻ có tâm hồn quảng đại, muốn hiến thân cho tình yêu.

Với kẻ vừa ngoi lên từ vũng bùn, vì xác thịt còn mạnh, việc tránh dịp tội và chế ngự nết hư là vô cùng cần thiết. Với kẻ yêu nhiệm vụ do tính tình ngay thẳng, họ hãy tập thêm siêu thoát và cố gắng khiêm nhu. Còn kẻ bơi trên sóng tình cũng cần chú tâm phần nào đến kỷ luật, nhờ đó vững đường tiến.

Tuy nói là ba thái độ đấy, nhưng chúng luôn xen kẽ trong cuộc sống, với một trong ba nổi bật tùy lúc, tùy người.

(Còn tiếp)
- Trích từ tác phẩm "Thần Học Thiêng Liêng" của Lm. Hoành Sơn - Hoàng Sỹ Quý, SJ.


Thứ Bảy, 14 tháng 9, 2024

Thần học thiêng liêng (tiếp theo)



Ý nghĩa sống đạo I: tránh tai họa, lập công quả

Trong Yếu chú (annotations, lời dặn) đầu sách Thần thao, thánh I-nhã dạy ta tùy cơm gắp mắm, cứ theo tâm trạng, khả năng và chí hướng của thụ thao mà biến chế thần thao cho họ. Riêng với kẻ thô lậu và văn hóa thấp, chỉ nên giúp họ suy về hình phạt, luật Chúa cùng với việc lành, việc giữ ngũ quan là đủ. Giảng cao hơn, chắc họ không lĩnh hội được đâu.

Người đến tĩnh tâm hay dự tuần đại phúc hẳn không thuộc phường cùng hung cực ác; và giả như trước đây là thế, thì nay cũng nghĩ lại rồi. Thật thì kẻ tinh tế, có căn cơ thiêng liêng, với ơn Chúa thúc có thể xoay 180 độ. Như trường hợp Augustin bỏ tối ra sáng, hay trường hợp Phaolô, đang là kẻ bắt Chúa bỗng nên sứ đồ của Ngài. Nhưng với phần đông người đời, tội thì không gớm lắm mà thánh cũng thấy xa vời trên mây. Họ chỉ muốn tránh khổ hình hỏa ngục, thế thôi.

Sùng đạo hơn, một số kẻ muốn bớt tội và lập công quả. Lập công quả, theo Phật giáo, mới chỉ là đường của cư sỹ, còn trong tham si, nghiệp quả, luân hồi. Thứ đạo "lập công" (mérites) này không bị Kytô-giáo coi khinh, nhưng nó khiếm khuyết từ căn bản. Khiếm khuyết do đích nhắm là thứ thiên đường đặt bên cạnh Thiên Chúa. Khiếm khuyết do lòng tham: tham hay ham thứ hạnh phúc ấy, chứ chưa có tình yêu vị tha đối với đấng Chí tôn. Vâng, thiên đường đúng Kytô-giáo là bản thân Thiên Chúa, mà Thiên Chúa thì không phải đối tượng ham muốn, mà đối tượng để yêu thương.

Có điều thứ đạo của tham si kia thường vẫn ngỏ cửa về một đạo cao hơn do hướng nhắm của ân sủng khi mà tín đồ không có ý khép lại ở một thứ thiên đường thấp kém như vậy. Dù sao, những tham si còn sót phải được thanh lọc ở thế giới bên kia. Vâng, Nước Chúa là khác hẳn, nên với những ước mơ chưa thoát khỏi hương vị trần, thì tôi chưa thể thuộc trọn về Nước Chúa:

- Nước Ta không thuộc trần gian!
- Hãy để người chết chôn kẻ chết!

Vậy, bằng chánh kiến và đón trước, hãy cố siêu thoát và vươn cao hơn một thứ thiên đường nó là bản sao của thiên đường tại thế. Nghĩa là hiểu đúng ý nghĩa cuộc sống: tất cả vì Thiên Chúa và sự cứu độ trong Chúa, nhờ đức Kytô. Rồi hiểu đúng vai trò "phương thế" của những gì còn lại: cái giúp đi vào hướng ấy thì dùng, còn cái cản ngăn thì từ bỏ. Ngoài ra, phải nhớ kỹ: thân xác không phải là tất cả con người, và sự cứu vãn cho con người nằm ở tinh thần cơ.

Ðể giảm sức trì kéo của xác, ta có thể tạm dùng kỹ thuật của Phật gia: điều hòa hơi thở, rồi nghĩ xem thân xác này gồm những gì. Ắt là nó gồm phèo phổi với tim gan, đầu mình với đít bụng, có chỗ còn khai thối nữa; mà chết rồi, thì trông gớm biết bao. Cũng phân tích xem cuối cùng thì xác thịt là gì. Là một số chất căn bản như C, H, O, N, chúng qua lại không ngơi giữa hai môi trường Trong tôi và Ngoài tôi, chứ chẳng có gì của riêng tôi, chẳng có gì đáng giá lắm. Thế rồi tôi có thể lờ đi từng phần và tất cả, để ham hố không còn chỗ bám, tự nó sẽ tan đi. Tôi cũng làm thế với ngoại vật, với hết thảy những gì tôi quyến luyến, sao để chúng hễ xuất hiện là trôi qua, chẳng có gì cần, có gì quan trọng cả. Theo nhà Phật, chỉ khi giác quan (lục căn) bắt gặp đối tượng (lục trần), thì luồng điện (kích thích) mới phát. Ðây là lúc con mắt thịt chạm thân hình người khác phái, cái mũi thịt chạm mùi thức ăn ngon, cái tai tục tiếp thu tín hiệu của hư danh và thế lực. Bởi vậy, phải ly cách giác quan với đối tượng khi cái tâm chưa vững đủ, đồng thời luyện sao cho cái tâm ấy thành miễn nhiễm đối với những kích thích kia.

Với cùng một mục đích ấy, tu đức học Kytô-giáo khuyên ta niệm về sự chết, thẩm xét, địa ngục, thiên đường. Theo ý tôi, nếu niệm về sự thoảng qua của cuộc đời, ta sẽ thấy dễ và có hiệu quả hơn. Cứ hình dung cảnh xưa xe ngựa, gác tía lầu son, mà nay đó đây chỉ còn cỏ hoang, phế tích, và ta sẽ cảm khái ngâm câu: "Nền cũ lâu đài, bóng tịch dương". Ðây cũng là cảnh hoa phù dung sớm nay còn khoe sắc, chiều về phai nhạt rồi.

Cứ thế mà niệm, và rồi ta sẽ thấy lòng tham dịu, dứt. Mà dứt tham, thì duyên đâu còn để nối lục trần với lục căn, để sinh giận, tiếc và bất an khi những chướng ngại cản đường? Lòng tham trụ ở ba điểm gốc: sở hữu, nhục dục, ý riêng. Vậy để diệt tham, phải chặt cho kỳ được ba gốc ấy. Chặt gốc sở hữu bằng nghèo, ít là trong tinh thần. Chặt gốc nhục dục bằng hãm mình, tiết chế. Và chặt gốc ý riêng bằng "làm ngược" (agere contra). Ðể chánh kiến (thấy rõ sự thực), chúng ta đi vào chánh niệm. Chánh niệm giúp khởi động những tâm tình tốt để chuyển sang việc làm, hầu củng cố những tâm tình nói trên.

Ði đôi với chánh kiến, chánh niệm, chúng ta có thể tiến vào kỵ giới như Phật tử. Phật tử giới bỏ ba tội phạm bằng thân: giới sát, giới đạo (trộm cướp), giới dâm. Lại giới bỏ bốn tội phạm bằng miệng: vọng ngôn (nói láo), ác khẩu, lưỡng thiệt (ăn nói lật lọng), ỷ ngữ (nói hoa mỹ bên ngoài thôi). Sau cùng, giới bỏ ba điều phạm bằng ý: tham, sân, si. Công giáo chẳng thường nói đến những tội "lòng lo, miệng nói, mình làm" đó sao?

Chẳng những giới thập ác, Phật tử còn phải làm ngược lại bằng thập thiện nữa. Thiết nghĩ, thay vì mắc kẹt ở thập ác, chúng ta hãy dồn sức cho thập thiện vì chúng tích cực nên sinh hứng khởi. Vả lại, khi yêu điều lành rồi, thì đâu có ham điều ác đối nghịch nữa.

Vậy hãy tập đánh giá mỗi cái theo đúng giá trị của nó trong tương quan với cứu cánh. Cùng lúc, giữ sao cho tâm luôn ngay chính và siêu thoát, từ ái và trắng trong. Lại phải nói sao cho xứng đáng, hành cho lương thiện, sống cho hợp đạo làm người.

Ý nghĩa sống đạo II:
tinh thần nhiệm vụ, thái độ không vấn vương

Tránh phạt và lập công chưa hẳn là thái độ luân lý đúng nghĩa. Giả như không có thiên đường và hỏa ngục mà vẫn lánh ác làm lành, thì mới là đạo đức chính hiệu. Sống tốt chỉ vì đây là điều tốt, đó là con người chính trực, biết bổn phận làm người.

Ðể chu toàn bổn phận này, phải có giới, có quy. Giới truyền bỏ điều không xứng, quy dạy làm cái đáng làm. Giới dành trước tiên cho kẻ muốn lánh tội, quy dành cho ai muốn vô nẻo ngay hoặc đang tiến đức.

Về tiến đức, thực ra cũng có ba bảy đường tùy thứ động cơ thúc đẩy. Người chỉ muốn làm đủ bổn phận, kẻ khác quảng đại hơn, dám bỏ những gì có quyền giữ, dám làm những cái không buộc làm. Lý do là họ nuôi lý tưởng nên thánh. Nhất là khi hơn thế, họ bị cuốn hút bởi tình yêu.

Trong tiểu đề này, ta đề cập đến hạng người trên, những kẻ sống đạo vì tinh thần nghĩa vụ. Họ là những tâm hồn chính đại quang minh, có sao nghĩ thế, thấy sao nói vậy, đáng sao quyết thi hành đúng, đủ mới thôi. Thường họ rất trung tín với lễ, với luật, và tinh thần trách nhiệm rất cao.

Ðể vững trên hướng thiện này, Phật giáo áp dụng Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh nghiệp.

Chánh nghiệp là hành động theo như đã xét suy, phân định bằng Chánh kiến. Còn Chánh tinh tấn thì đưa Chánh kiến vào đến tim gan, ra đến cuộc sống, tập mãi không thôi, luyện sao cho tâm nên thẳng ngay, trong trắng, và vui yên trong sự lương chính này. Muốn được như vậy, sách Phật dạy phải diệt phiền ưu. Ưu sầu thường tỏa bóng mây đen trên cuộc sống, khiến nhụt chí phấn đấu và phủ mờ tâm tư, khiến tâm không còn đủ trong cho ánh sáng phân định. Kytô-hữu thời đầu quả sống trong niềm an lạc và hứng khởi thiêng liêng (agalliasis, Tđcv. 2.46...), sự hưng phấn mà Phaolô luôn mong mỏi cho mọi tín đồ (Rom. 15.13). Vui vì Thầy đã phục sinh, vui vì tràn trề hy vọng; phấn khởi vì niềm vui và hy vọng ấy sinh ra nghị lực và sự táo bạo, vừa để đi làm chứng dù chết, vừa để leo dốc đạo dù vất vả, khó khăn.

Trong niềm hưng phấn này, hãy luôn nghĩ đến những gì cao quý, để hồn nhờ đó cũng cao đẹp, trắng trong thêm. Nên thánh là đường dốc thẳng ngược, nên không thể vững leo nếu thiếu niềm hứng khởi đó. Hoan lạc và hưng phấn, tôi có ý nói đến niềm hoan hứng sâu xa và thiêng liêng, chứ nếu đây là sự vui nhộn bề mặt thì chúng chỉ kéo ta ra ngoài về hướng những lạc thú; và nếu đây là an tĩnh thụ động khiến ngại đổi thay, thì thái độ cầu an ấy sẽ ngăn cản phiêu lưu bên trong, dấn thân bên ngoài. Một niềm an vui đúng nghĩa siêu nhiên bao giờ cũng thúc đẩy tiến bước, tiến vững, và nó tương tại được với sóng gió và khổ đau.

Ðể tinh tấn hóa cái tâm, thì suy niệm rất cần. Không chỉ niệm các đức, Kytô-hữu còn niệm gương những đức ấy. Và đây là Chúa Yêsu "khiêm và hiền từ trong lòng". Ðây là Ðức Mẹ thuận ý Trời trong tiếng "Xin vâng". Ðây là thánh Phaolô mà "sống là đức Kytô, đấng chết treo thập giá".

Niệm rồi, còn phải luyện nữa, Người ta có thể bắt chước các sa môn Ấn, Phật mà chịu đựng đói khát, dãi dầu nắng mưa, bớt những tiện nghi chúng tăng thịt giảm thần, chịu sỉ nhục để lòng thêm khiêm tốn, tập bỏ ý riêng để thoát khỏi cái Tôi.

Như trên đã nói, kẻ sống vì bổn phận thì bó mình trong những nguyên tắc và luật lệ. Ðúng là bổn phận khách quan luôn "thành thịt" ở luật lệ và nguyên tắc. Và kẻ sống trong khuôn khổ của luật lệ và nguyên tắc thì nói, làm đúng lễ, khuôn, với một thái độ thẳng ngay. Có điều, những quy định khách quan ấy thuộc phạm vi ý tưởng, mà ý tưởng thì chính xác và tổng quát, trong khi thực tại lại thiên hình vạn trạng, biến đổi không ngơi, ranh giới dễ lờ mờ. Vì thế, nếu phải trọng nguyên tắc, thì khi áp dụng vẫn cần uyển chuyển, sao cho thích ứng với những hoàn cảnh khác nhau.

Lại nên nhớ rằng: hình thức chỉ có giá nhờ nội dung, hành động chỉ có giá nhờ động cơ và ý hướng. Bởi thế, phải nhấn vào tinh thần, do đó vì tinh thần, đôi lúc phải để nguyên tắc sau lưng. Vâng, đã siêu thoát thì phải thoát hết, để chỉ một mình Thiên Chúa là cần, và là cần những gì không thể thiếu để giúp ta đạt tới Chúa.

Sống vì bổn phận đã là một sống đạo khá cao, lại vững nữa. Vì kẻ trung thành với bổn phận cũng là kẻ ngay thẳng và có tinh thần trách nhiệm, do đó dễ trưởng thành về mặt nhân bản và đạo đức, khiến cho bước tiến của họ tuy hơi chậm đấy, nhưng không bấp bênh. Họ chỉ cần thêm mấy đức nhu để cho tâm bớt khô, hành động bớt cứng. Và coi chừng cái kiêu dễ bám theo những đức chí cương như vậy.

(Còn tiếp)
- Trích từ tác phẩm "Thần Học Thiêng Liêng" của Lm. Hoành Sơn - Hoàng Sỹ Quý, SJ.

Thứ Năm, 12 tháng 9, 2024

Thần học thiêng liêng




PHẦN D: BƯỚC TIẾN VÀ THANG BẬC


THỜI TIẾT SỐNG ÐẠO
NHỮNG THÁI ÐỘ VÀO ÐẠO

Linh Mục Hoành Sơn, SJ, Việt Nam
Prepared for internet by Vietnamese Missionaries in Taiwan

Ðã là cây, thì không thể không mọc lên từ một mảnh đất và tăng trưởng nhờ chất đất ở đấy, dù đất có được bón tốt từ những gì lấy từ ngoài vào. Ðất nói đây là khí chất của anh, đi đôi với văn hóa, giáo dục và giới tính. Từ ngoài đến, ân sủng phải biến đổi tất cả từ gốc, nhưng ân sủng lại hành động với những cái đã sẵn có tự nhiên nơi anh. Bởi thế mới phải đặt ra ở phần A vấn đề này.

Có điều cái nền tảng là con người tự nhiên cũng chẳng bất biến đâu. Nó thay đổi với thời gian, bé trẻ khác, lớn già lại khác. Cho nên, cách sống đạo của trẻ thơ không thể y hệt với của ông (bà) lão.

Việc sống đạo lại dễ gặp khủng hoảng mạnh khi đụng đầu với tai ương cũng như lão-bệnh-tử. Ðứng trước những thử thách lớn, lắm khi bất ngờ ấy, làm sao đứng vững đây? Nhất là lợi dụng được? Chết cũng ở đó, mà tái sinh cũng nhờ đó luôn. Nên cần sức viện trợ mạnh từ Chúa và những chuẩn bị gấp từ bây giờ.

Dù trên thửa đất hay trong hoàn cảnh nào, thì phản ứng và hậu quả vẫn khác xa nhau từ người này sang kẻ nọ, do ân Chúa cố nhiên, mà cũng do mức độ quảng đại của ta nữa. Nghĩa là vừa có phần của đồng vốn ký thác, vừa có cách sinh lời từ đồng vốn này. Anh muốn đem chôn nén bạc hay dùng nó sinh lời đây? Anh buôn bán nhỏ thôi hay lao đầu vào công việc với tham vọng thật lớn? Thiên Chúa vốn rộng rãi sẽ chẳng chịu thua anh về sự hào phóng đâu.

Thời tiết do tuổi

Do thân xác mà con người thuộc thiên nhiên, nên đổi thay với thời tiết. Mùa xuân chả hạn là mùa dễ động xuân tình, khiến dù trẻ hay già, dù nữ hay nam, nếu muốn tự chủ và tiến đức, cần biết liệu gió giong buồm.

Mỗi cuộc đời thường cũng trải qua một vòng xuân hạ thu đông như thế. Trẻ thì lập xuân ở ấu thời và xuân phân ở tuổi cập kê. Lớn thì hạ chí lúc "tam thập như lập" và vào thu khi trán nhăn có vết. Ðây cũng là khi kinh nghiệm có dư, mà dũng khí không còn đủ cho những cuộc phiêu lưu mới. Vậy hãy lao vào các giấc mơ nên thánh khi chưa quá muộn. Dĩ nhiên, có những người trẻ lâu hơn tuổi, cũng như ơn Chúa có sức "cải lão hoàn đồng" thiêng liêng. Có điều đây là trường hợp khác thường, nghĩa là chẳng thường xảy ra. Bởi thế, vẫn cứ nên tùy tuổi mà đổi cách sống đạo.

Với trẻ thơ, thì mẫu mực của chúng là mẹ, rồi cha, rồi thầy cô. Nên bài giảng cho chúng chính là tấm gương sống động của những vị ấy. Tiên sa Lisieux học cầu nguyện bằng cách ngắm ông Martin cầu nguyện. Và cảm nghiệm được tình Cha Trời qua tình cha dưới thế, khiến chị phát khóc mỗi khi xướng "Lạy Cha...". Bởi thế, trách nhiệm của ba má là trách nhiệm cực lớn. Trách nhiệm làm gương tốt trước tiên, kế đó trách nhiệm chọn cô thầy, bạn chơi, nhà trường cho con cái. Chọn cả đồ chơi, sách đọc và phim coi nữa. Ðể dạy trẻ yêu Chúa, họ phải sốt sắng nguyện cầu. Ðể dạy trẻ đức thành, phải tránh điều dối trá. Ðể dạy trẻ trung tín, thì phải biết giữ lời. Ðể dạy trẻ lòng nhân, hãy thương xót kẻ khốn cùng và đối xử tốt với con mèo con chó.

Lúc trẻ tới tuổi ương ương, hãy bớt ra lệnh và tìm cách thuyết phục. Ðối với chúng, đây là lúc phải bắt đầu học giáo lý, đọc truyện thánh và gia nhập một đoàn thể. Khả năng hy sinh và hăng say nên thánh đã có ngay từ tuổi lên mười, như với cậu bé Saviô, cậu Stanislas Kotska. Ðến tuổi mười bốn, Stanislas đã vững một lối sống. Dù bị chế diễu và hành hạ, cậu quyết không đi vào con đường ăn chơi như chúng bạn và anh em. Hơn thế, cậu dám đổi áo quý tộc lấy áo nông phu khi trốn nhà ra đi tầm đạo, vừa ăn xin vừa cuốc bộ suốt 600 cây số đến Ðức, rồi 1200 cây số đến Rôma để vô Dòng Tên, bất chấp những đe dọa của gia đình. Cậu đã có gan phiêu lưu của một người trẻ, sự kiên trì và chín chắn của một người lớn, cũng như sự hướng nội của một người đứng tuổi.

Quả thật, cái thánh chẳng hề đợi tuổi, trừ tuổi thơ, có lẽ. Thanh thiếu niên dễ cầu bằng múa hát, vì họ còn hướng động. Nhưng nhiều bạn dù rất trẻ vẫn có thể nhập thiền hoặc chìm đắm trong suy chiêm, thậm chí đạt huyền nghiệm. Có điều đối với phần đông, họ nên khai thác điểm mạnh của họ là hoạt động, dấn thân. Họ có thể niệm suy và lấy làm mẫu sống một đức Yêsu nay đó mai đây vì hạnh phúc của loài người. Hoặc một Phan sinh Xavier chết gục trong chờ đợi trước cửa ngõ cánh đồng truyền giáo Trung quốc. Hoặc một cha Damien nên cùi với người cùi, một mẹ Tiên sa Calcutta dẫn đầu cả một đạo quân đông đảo của lòng nhân và vị tha.

Người trẻ đã năng động còn lạc quan nữa, nên sống với ngày mai hơn là với hiện tại. Vậy họ hãy phát triển đức Vọng và sống vì một lý tưởng. Họ có thể hướng về ngày mai của một thế giới tình thương để đấu tranh chống hận thù và kỳ thị như Gandhi và Martin Luther King. Họ có thể hướng về điểm cánh chung của sự hoàn thành Vương quốc Chúa khi xả thân loan Tin mừng.

Theo Guy Lescanne, thì người trẻ hôm nay không ưa thần tượng cho bằng những người mẫu (modèle), không thích làm bản sao cho ai khác, mà muốn có gì, thành gì riêng nữa. Nên hãy giúp họ noi gương thôi, chứ đừng rập khuôn. Giúp họ suy nghĩ để tự tìm ra con đường mình và tự rèn lấy một nhân cách. Vâng, muốn phiêu lưu vào con đường nên thánh, nhất là thánh dấn thân, thì phải bắt đầu ngay khi còn trẻ.

Quả thật, lúc đã về già, tuy tính trầm lại đấy, nhưng cái gan lại bé đi. Gặp nhiều thất bại rồi, người ta dễ sinh yếm thế. Và người ta nghĩ về quá khứ trong tiếc nuối, nghĩ về cái chết trong ưu phiền. Ðây là lúc nên suy về ý nghĩa cuộc đời và đắm chìm trong cầu nguyện. Ðể tin tưởng và lạc quan lên, hãy nghĩ nhiều đến hạnh phúc Thiên quốc và nhìn Thập giá dưới ánh sáng Phục sinh.

Tương lai của người già là ở đám trẻ con cháu họ. Với cháu con đông đúc và nên người, họ sẽ an tâm nhắm mắt, thấy rằng tuy chết, vẫn như sống tiếp phần nào. Nếu đan sỹ và tông đồ không có con theo xác thịt, họ vẫn có con theo Thần khí. Vâng, dù biết hay không, họ đã góp công khó nhọc sinh ra cho Chúa những người con. Mai ngày trên Thiên quốc, hai bên sẽ nhận ra nhau và mối tình sẽ đằm thắm. Vậy dù già hay gần chết, người ta luôn có một tương lai để hướng về, và đây là tương lai của dòng tộc thiêng liêng. Họ có thể quan tâm đến đám người mà trong đời họ từng đã giúp. Quan tâm cả đến những kẻ mà họ có thể sinh ra cho Chúa dù trong tình trạng khốn khổ hôm nay bằng nguyện cầu và hy sinh chấp nhận vòng xoay bệnh lão tử.

Những hoàn cảnh-giới hạn

Ðây là những hoàn cảnh cùng cực mà người người phải trải qua, như sự chết và những rủi ro, như sự cô đơn và tội lỗi theo danh sách của Karl Jaspers.

Chúng ta hãy nói đến lão-bệnh-tử và đau khổ. Những cú sốc mạnh nhất bắt gặp ở đó, những cú sốc dai dẳng chúng rình rập trên từng bước đi. Có thể nói, chúng là thành phần tất yếu và quan trọng của cuộc sống, do đó cũng là thành phần không bao giờ thiếu của sống đạo. Làm sao đây để bước đi vẫn bình ổn dù với những cơn đất động liên hồi, có khi tới bảy tám độ Richter? Làm sao đây để địa chấn càng khủng khiếp thì đức tin càng vững và sức sống dồi dào? Phục sinh chỉ hừng lên từ bóng mây thập giá nếu thập giá được chấp nhận và khéo lợi dụng.

Hãy bắt đầu với cái chết. Chết là điểm tới của bệnh, lão, trong khi khổ đau là cái chết của tâm hồn.

Theo Martin Heidegger, thì sống là Hiện hữu-vì-sự chết. Hiện hữu của ta chìm sâu giữa thời gian, nên sống là Có-đó (da-sein), tức bị ném giữa dòng đời trong cô đơn (déréliction), trong lo hoảng (angoisse). Sống là vươn tới, nên cũng là lo tới (souci). Có điều đây là vươn tới cái chết hay phủ định cái sống, phủ định hiện hữu.

Ðứng trước vực thẳm hư vô mà con người bước dần vào, thường khi vì sợ mà nó trốn lẩn giữa đám đông vô danh của Người ta (on), vừa cố quên cái chết, vừa cố trốn khỏi cái chính mình. Một hiện sinh không trung thành với ý nghĩa của nó: Ðể nên xứng đúng (authentique), nó cần đến ý thức và quyết định. Ý thức hay giác ngộ về ý nghĩa và hướng tới của cuộc sống; quyết định tự đón trước (anticiper) định mệnh nói trên. Và đây là vén màn che kín nó để trở về với chính mình.

Nếu Heidegger cho rằng hiện hữu vọt lên từ hư không, thì Phật giáo lại lấy hư không làm cốt lõi của hiện hữu. Tuy hư không là nội dung của cả không gian bên ngoài và không gian bên trong tôi, nhưng do tham si, tôi lại coi tất cả là có thật: có thật cái ngã nó đang ham muốn, có thật luôn những đối tượng mà nó mong chiếm đoạt. Do đó mà sinh khổ. Khổ vì sự hiện hữu của cái Tôi nó tham mà chưa được, nó sân khi mất đi. Khổ nữa vì cái ngã bị đồng hóa với xác, mà xác thì điêu đứng vì lão bệnh tử, điêu đứng ngay từ khi "đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra".

Theo "Phật gia Tây phương" Schopenhauer, thì chỉ có Ý muốn - sống mù quáng nó nằm chơ vơ đó, chứ kẻ (cá thể) muốn thì không. Do cái Ý muốn chẳng thuộc ai này mà nảy sinh Tình yêu, cái tình nó là mồi nhử cho người ta lao đầu vào việc bảo vệ giống nòi, như những chú thiêu thân dại dột vậy.

Cho nên, giải pháp Phật giáo là ra khỏi si mê bằng ý thức đúng, tức Chánh kiến. Nhà sư sẽ tự nhủ: Tôi đâu phải xác thân, nên chết đâu phải là tôi. Và ông sẽ nhìn thẳng vào khổ đau và cái chết bằng cặp mắt bàng quan, miễn nhiễm.

Ðâu là ý nghĩa đúng Kytô-giáo của sự sống và sự chết? Vâng, đâu mới là "chánh kiến" của chúng ta?

Kytô-giáo không nói: Tôi không phải xác thân. Nhưng Kytô-giáo có thể nói: Tôi không chỉ là xác thân, mà còn có gì cao hơn xác thân nhiều. Nhờ đó, cú sốc của sự chết đã bớt tầm khủng khiếp của nó.

Kytô-giáo cũng khuyên "đón trước" cái chết bằng chấp nhận và hiến dâng. Vả lại, Kytô-giáo không coi cái chết là tận kết, do đó ngõ cụt, nhưng là cửa mở vào phục sinh nhờ đòn bẩy Thánh giá Chúa. Dưới ánh sáng mầu nhiệm chữ Thập này, cái chết tuy còn là hoàn cảnh - giới hạn đấy, nhưng giới hạn ấy đã được gài mìn để nổ tung khi đức Kytô dùng cái chết để phủ định nó. Cái chết không là ngõ cụt nữa, mà đường đi; không còn sinh tuyệt vọng, mà hy vọng. Cái chết đã cùn đi phần nào sự sắc nhọn của nó. Tôi nói "phần nào" thôi, vì dẫu sao, chúng ta còn sống trong sự tranh tối tranh sáng của đức tin. Ngay đến Tiên sa Avila, dù đau đớn ghê gớm lúc cảm nhận ngày về (với Chúa) còn xa, thế mà đôi lúc vẫn phát run trước ý tưởng chết. Còn với Tiên sa Lisieux trước lúc chết, thì đây là "đêm tối hư vô", "hấp hối thuần túy", "không một dấu vết của an ủi".

Có điều nếu đức tin mạnh, thì sự chết cũng bớt phần ảm đạm. Do đó để chuẩn bị cho nó, ta phải nuôi dưỡng đức tin ngay từ bây giờ. Ðể củng cố đức tin, phải cầu ơn và niệm suy. Cũng cần nhìn thẳng vào cái chết để "đón trước" nó. Và đấy là đi vào "chánh kiến". Sự thực về cái chết đang đến khi được nhận ra sẽ cảnh tỉnh những ai còn nhiều ham hố và giúp họ tìm ra ý nghĩa Kytô-giáo của cả sự sống lẫn sự chết. Vâng, sống ở đời không phải là toàn sống. Và đường cứu độ phải đi qua thánh giá để tới phục sinh. Vâng, dù nghĩ đến sự chết và thập giá, một Kytô-hữu đúng danh phải liên hệ chúng với phục sinh và thăng vinh, nhờ đó sống và tăng trưởng trong đức Vọng.

Có điều đừng hình dung phục sinh như một trở về với cái xác dưới dạng hôm nay, và thăng vinh như một thiên đường kiểu tại thế, tức hạnh phúc bình thường không bóng mây đau khổ. Ðây là thứ cõi Tiên hay Thiên mà Phật giáo còn đặt trong vòng tham si và trong cõi luân hồi. Do thái giáo xưa cũng vọng tưởng một thiên đường tại thế, một Nước Chúa giữa trần gian như thế. Và như thế lắm Kytô-hữu hôm nay mơ tưởng một sống lại trong thân xác cũ, một bất tử theo nghĩa kéo dài, một thiên giới với đầy đủ tiện nghi. Họ chưa thật sự chết đi với thế gian này để xứng đáng với một sự sống khác hẳn, sự sống trong Ðấng là Khác viết hoa, Khác hoàn toàn. Một luyện ngục cần đến mai sau sẽ giải thoát họ khỏi bóng mây và vấn vương ấy.

Không ai chối rằng, vì đấng là Tinh thần đã nhập thể, nên mặt đất cũng thoảng mùi da thịt đấng Chí tôn. Có điều, để hoàn tất việc cứu thế, Ngài phải đi vào sự chết để mở đường cho ta bước sang một sự sống đổi khác. Vậy cứ yêu sự sống này, nhưng yêu tùy vào (en fonction de) một sự sống khác hẳn mai sau.

Chẳng những đón trước (anticiper) cái chết vì chết là đường đi, mà còn đón trước vì đây là biểu hiện tình yêu nữa. Vì yêu ta, Chúa đã chết để cứu ta. Ðến lượt ta vì yêu Chúa, sẵn sàng chết đi với Chúa, chết vì Chúa. Chẳng những chấp nhận chết, Marie de l'Incarnation còn sẵn lòng "sa hỏa ngục" để thượng tôn đức công minh của Thiên Chúa, khi mà hỏa ngục quả xứng với tội con người. Bắt chước nữ tu rất thánh ấy, ta cũng có thể chấp nhận cái chết với tất cả lo sợ và khốn khổ kèm theo như điều thích xứng với ta, mà chỉ xin giữ lại cho ta tình thân của đấng đã yêu ta đến cùng tận.

Nhờ thái độ Ðón trước này (đối với cái chết), từ thế thụ động ta đã chuyển sang chủ động. Ðây là Tri mệnh và Thuận thiên mệnh, là đi con đường Chúa Yêsu để thành bà con với Chúa (Mc.3.35) trong giây phút quyết định của cả cuộc đời. Vâng, đây là lúc hoàn thành mình, như Rahner nghĩ. Thành ác hay thiện vĩnh viễn là do chết dữ hay chết lành đấy. Ta càng vững đi hơn khi chính Chúa đã đi vào sự chết của ta, cùng với ta. Nếu khi ta khổ, có Chúa khổ với ta, thì khi chết cũng vậy nếu ta chấp nhận nó vì Ngài. Ðồng hành với ta trong sự chết, Chúa để lại dấu hiệu đồng hành ấy ở phép Xức dầu bệnh nhân và Thức ăn đường Thánh thể. Dìm mình vào cái chết của Chúa bằng ký hiệu huyền tích, ta dễ vượt qua triền gốc gập ghềnh của lão bệnh tử nhờ sự đồng hành của Chúa và sức mạnh vọt lên từ thập giá Chúa.

* * *

Nếu giờ chết là phút giây gấp gáp trong đó ít ai bình tĩnh nổi, khiến nhẫn chịu được đã là tốt rồi, thì trong lão bệnh và khổ đau, người ta thường không đến nỗi hụt hơi như thế. Vậy ở đây, con người dễ chủ động hơn và tác chiến có kế hoạch được. Cái đáng lẽ là địa ngục cho con người, hãy biến nó thành lò luyện cho Tín vọng ái. Bằng cách đón trước, tức sẵn sàng, thậm chí ước ao. Tùy thái độ thụ hay chủ động ấy, cũng như tùy mức tin yêu như động cơ, mà bộ mặt thiêng liêng biến đổi.

Ý thức và quyết đón trước những hoàn cảnh-giới hạn của cuộc đời, đó là thái độ đúng xứng và hiện sinh đúng phận. Nếu ý thức đủ sáng và đón trước đủ chân thành, thì không khỏi đụng bể đầu trước một cái chết như ngõ cụt phi lý theo cách nhìn của Heidegger. Vâng sự "lo đến" (souci) sẽ thành vô nghĩa, khi mà cái anh quan tâm chỉ là ngõ cụt.

Sự hanh thông mà hy vọng phục sinh tạo nên cũng không phải là lối thoát bằng ảo tưởng. Do cái chết của Thầy, những hoàn cảnh-giới hạn kia đã mở về Vô hạn rồi. Niềm đau vẫn còn đó, nhưng dưới bóng râm thập giá, nó đã dịu đi, khiến người ta có thể đạt được sự bình an của Chúa.

Nếu suy như thế và cầu nguyện rồi, mà nỗi đau vẫn mạnh hơn niềm tin, thì ta có thể đi vào một thư giãn tâm lý. Ta có thể để mặc "nước đổ lá khoai", mặc cho các ý nghĩ và tình cảm chúng đến rồi chúng đi, và lòng sẽ êm lại để đức tin hiện tỏ.

Ðứng trước lão bệnh, người ta cảm thấy bớt gay cấn hơn là đứng trước cái chết. Nhưng chết, người ta chỉ chết một lần thôi, chứ bệnh thì nối tiếp không ngơi, và lão triền miên không dứt. Bệnh hay lão đều khổ cả, và khi khổ dai dẳng, người ta khó bình tĩnh được.

Ngoài bệnh thân ra, còn có bệnh tâm. Tâm bệnh càng trị khó, và gây phiền cho xung quanh cũng nhiều. Bệnh còn hy vọng chữa khỏi, chứ tật thì bất trị, khiến nhân phẩm bị xung quanh hạ thấp và đương sự sống trong bóng tối dày đặc, không tương lai. Vâng, hãy hình dung một người cụt chân cụt tay hay mặt mày dị dạng, một người điếc, đui, câm hay ngây dại suốt đời...: Làm sao để họ tìm thấy chút sinh thú hầu sống nốt quãng "đời thừa" đây?

Ngoài tật bệnh ra, còn cả trăm thứ khổ khác, như đói nghèo, bị xa lánh, khinh khi, thành trẻ mồ côi hay bị người tình phụ rẫy. Rồi những tai ương bất thần ập đến, như đất động, núi lửa phun, như hỏa tai, bão lụt, đất truồi, như chạy giặc, trộm cướp, v.v... Biết bao cảnh tang tóc và chia ly diễn ra hằng ngày khắp nơi trên thế giới, khiến dù không trong cuộc cũng cảm thấy cuộc sống đáng buồn và quá bấp bênh. Làm sao đây để giữa mịt mờ, vẫn còn thấy đốm sao hy vọng? Làm sao đây để khi sóng gió vùi dập vẫn vững được mái chèo? Nhất là làm sao để biến những tai họa ấy thành cơ may nên thánh?

Lúc mà trong tôi còn nhiều ham hố, hãy lợi dụng những bi cảnh để giải bớt vấn vương. Bằng khi cay đắng đã tràn ly, thì nên nghĩ tới điều vui, kẻo căng quá nhỡ sinh "stress". Ðây không phải cái vui của dật lạc hay cái quên trong ly rượu, khói phù dung, mà sự an ủi của Ðấng đã tới chia sẻ với ta kiếp sống phù du này, kể luôn sự chết. Nếu như thế, mà vẫn không tan đám mây, thì hãy cầu cứu đến một hai giải trí lành mạnh. Ðây là vài bản nhạc êm vui, chứ không kích động, một phim truyện đầy tình người, chứ không đầy bạo lực, khiêu dâm. Tiếp đến là vào thiền để tâm an. Hay nguyện cầu để có thể khóc.

Sau khi căng thẳng giảm dưới mức báo động rồi, tôi bắt đầu lợi dụng thương đau để tiến. Bằng cách tuân ý Chúa, cố nhiên. Thêm một bước, bằng cách hiệp thông với Chúa trong mầu nhiệm Vườn dầu, trong hướng đi đồng cứu chuộc. Có Chúa bên tôi, tôi bớt sợ, bớt lo. Có Chúa với tôi, sẽ được nhiều an ủi. Có Chúa nơi tôi, sức chiến hẳn dồi dào.

(Còn tiếp)
- Trích từ tác phẩm "Thần Học Thiêng Liêng" của Lm. Hoành Sơn - Hoàng Sỹ Quý, SJ.

Thứ Ba, 10 tháng 9, 2024

Nghẹn ngào

 


- Tưởng nhớ các nạn nhân bão lụt miền Bắc.

Bởi chưng máu chảy ruột mềm,
Làm sao không xót, không phiền, không đau.
Bầu rơi, bí cũng nghẹn ngào!


Thứ Hai, 9 tháng 9, 2024

Hành Trình Tâm Linh - Tiếng gọi thứ nhì (tiếp theo)





19. Hai lời chứng

19.1. Lời chứng của Chloé

Trong khi học đại học tôi đã gặp một cộng đoàn tu trì và tôi đã dâng hiến đời mình trong cộng đoàn này hơn hai mươi năm rồi. Việc này phù hợp với một cuộc gặp gỡ mạnh mẽ với Chúa, Đấng đã dẫn dắt tôi đến việc trao trọn đời mình trong gia đình mới này.

Tôi đã tiến bộ từng chút một, qua đời sống huynh đệ là nguồn mạch chữa lành cho tôi: tôi đã cảm thấy mình được yêu thương trong chính hiện trạng của mình! Rất nhanh sau đó, tôi đã đạt được một sự quân bình nhất định về mặt nhân bản và tâm linh cho phép tôi tiến tới và bảo đảm một vài trách nhiệm trong hội dòng. Vài năm trước, tôi đạt tới một điểm mà tôi cảm thấy mình được thỏa nguyện, Chúa là tất cả đối với tôi.

Thế rồi cuộc gặp gỡ, cách đây năm năm, là cơ hội làm cho một khuyết điểm sâu xa trong cảm tính của tôi lộ ra. Tôi như bắt đầu chìm xuống vực thẳm, và tôi đã sống trong sự dằn vặt nội tâm đến độ tôi thường tự vấn về sức khỏe thâm thần của mình. Tất cả các phản ứng mà tôi từng nghĩ rằng mình đã làm chủ từ hai mươi năm nay giờ vùng dậy: ganh tị, kiêu căng, háo danh, đóng kịch để lôi kéo sự quan tâm của người khác, tính khí thất thường, hờn dỗi, đó là chưa nói đến những nghi ngờ trái với đức tin... Tất cả điều đó đã dẫn tôi tới cơn khủng hoảng thời niên thiếu mà tận thâm sâu tôi chưa hề trải qua.

May thay, lúc đó Chúa ban cho tôi ơn được những anh em chung quanh chấp nhận, nâng đỡ, trợ giúp. Tôi đã nhanh chóng đưa ra ánh sáng nguyên nhân sâu xa gây ra vết thương của tôi (liên quan đến mẹ tôi) và được hưởng phúc nhờ lời cầu nguyện chữa lành.

Ngay sau giai đoạn này, Chúa đã cho phép tôi thay đổi nơi ở và làm việc để tới một nơi mà Mẹ Maria luôn hiện diện. Ở đó tôi thấy Mẹ lưu tâm đến tôi một cách đặc biệt, và tôi chắc chắn rằng từ đó, chính Mẹ dạy dỗ và xây dựng lại nội tâm của tôi.

Bây giờ, nhìn vào bên ngoài có thể khiến người ta tưởng rằng tôi đang thoái bộ so với đời sống tâm linh của tôi trước kia (một thí dụ nhỏ: trước đó tôi chỉ đọc các sách thiêng liêng, còn hiện nay tôi lại ngấu nghiến... Agatha Christie!) Nhưng ánh sáng của Chúa soi cho thấy rằng giai đoạn đau khổ mà tôi trải qua đã mang lại hoa trái:

- một cái nhìn trong sự thật về bản thân tôi. Tôi nhận thấy rằng trước đây tôi đã có nhiều ảo tưởng về chính mình. Giờ đây, như Têrêsa, tôi không còn ngạc nhiên khi khám phá ra những yếu đuối mới nơi bản thân. Đồng thời, tôi chấp nhận hiện trạng của mình một cách dễ dàng hơn. Đối với tôi dường như đó là con đường khiêm nhường đích thực;

- một sự cởi mở hơn với tha nhân, liên kết với cái nhìn bình an hơn về chính mình, và dễ quên đi bản thân cũng như dễ trao tặng bản thân;

- một sự bao dung hơn với tha nhân, là những người mà tôi được mang đến để thực thi lòng thương xót như Ngài đã xót thương tôi;

- một đức tin (và một đức ái) được lột bỏ khỏi mọi cậy dựa cảm thấy được: quyết định để đi đến cùng điều mà tôi tuyên xưng, ngay cả khi điều đó xem ra điên rồ đối với tôi;

- một tinh thần thực tế hơn.

Tôi tin rằng tất cả việc đó đều từ sự dạy dỗ của Mẹ Maria mà đến.

Chắc hẳn là tôi vẫn rất cần một cuộc hoán cải mới nữa. Nhưng tôi tin rằng Chúa sẽ hoàn thành công việc mà Ngài đã khởi sự, bởi vì Ngài đã khiến tôi vượt qua một giai đoạn quyết định, cho dù tôi đã sống cộng đoàn hai mươi năm rồi. Chính Ngài sẽ làm mọi sự: “Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó” (1Tx 5,24).

19.2. Lời chứng của Stéphane

Tôi là một thành viên của Cộng đoàn Emmanuel từ mười bảy năm nay. Ở đó, tôi đã tập làm các trách vụ khác nhau và, nếu nhìn lại, tôi tin rằng tôi có thể nói rằng mình đã tìm được nơi chốn hạnh phúc của mình sau một thời gian dài tìm kiếm. Tôi đã luôn rất hạnh phúc ở đó, và hôm nay tôi vẫn đang rất hạnh phúc. Đó là gia đình của tôi, là người thân của tôi.

Nói như vậy có nghĩa là tôi không hẳn rơi vào loại “khủng hoảng” theo nghĩa khủng hoảng niềm tin trong cộng đoàn. Tuy nhiên, tôi tin đó là một “tiếng gọi thứ nhì” đối với tôi. Việc ấy đã xảy ra như thế nào?

Trong quá khứ, tôi đã nỗ lức rất nhiều để xây dựng bản thân, và đời sống cộng đoàn đã giúp tôi rất nhiều trong việc này. Đã có một thời kỳ mà tôi có cảm tưởng, với ơn Chúa, mình biết rõ và làm chủ bản thân, mình hoạt động thành công và được nhìn nhận, đặc biệt trong lãnh vực tôn giáo, tóm lại, đó là một thời kỳ trưởng thành. Tôi cảm thấy tốt đẹp từ mọi mặt.

Rồi sau đó tôi đã khám phá ra tính dễ bị tổn thương. Trước hết là tính dễ bị tổn thương của tôi, qua một loạt các biến cố và các khám phá về chính mình. Tôi đã được Chúa che chở rất nhiều, tôi đã không phạm những lỗi nghiêm trọng. Nhưng tôi cũng đã hiểu ra một cách sâu xa rằng tôi đã rất có thể phạm các lỗi ấy. Đó là một khám phá gây hoang mang và đầy ấn tượng đối với tôi. Có những lúc, tôi đã không còn biết rõ mình là ai nữa. Bấy giờ tôi khám phá ra rằng tôi đã không dùng sức riêng của tôi để tự cứu lấy mình, nhưng tôi đã thật sự cần được cứu. Và chỉ nhờ ân sủng mà tôi đã được cứu. Tôi đã từng luôn hiểu biết và ngay cả được giảng dạy về điều này, nhưng trải nghiệm nó nơi chính con người mình lại là một chuyện khác! Như Têrêsa nhỏ, tôi cũng ngồi vào bàn của những người tội lỗi, và tôi vẫn còn ngồi đó.

Một khám phá khác là tính dễ bị tổn thương của anh em tôi. Tôi đã hiểu rằng ngay cả những nhân vật cứng cáp và được xây dựng vững vàng đi chăng nữa thì họ vẫn có những điểm mong manh dễ vỡ kín đáo mà một ngày kia có thể vùng dậy hoạt động. Chẳng ai là sắt thép cả.

Từ các khám phá này, chắc chắn tôi rút ra được một lòng khiêm nhượng lớn lao hơn và một tinh thần thực tế hơn. Nhờ tình yêu thương tế nhị và sự tín nhiệm của các anh chị em trong cộng đoàn, tôi đã có thể tiến lên và hội nhập những điều đó. Và rồi Chúa đã yêu cầu tôi đi xa hơn, yêu cầu tôi thưa với Ngài rằng tôi đã sẵn sàng trao tặng đời tôi cho anh em của tôi, nếu Ngài đòi hỏi. Ngài đã yêu cầu tôi chấp nhận ít nhất là vác lấy một phần Thánh giá, vì tình yêu đối với Ngài và đối với anh em tôi. Tôi đã hiểu rõ hơn rằng mình có một phần trách nhiệm về sự thánh thiện của cộng đoàn. Tôi không thể lùi bước trước sự cam kết nội tâm bao hàm trong việc này. Điều đó đã tạo cho tôi một động lực lớn hơn rất nhiều để phục vụ, và một sự tín nhiệm lớn hơn rất nhiều vào công trình của Chúa Thánh Thần giữa lòng cộng đoàn.

Hiện thời, tôi cảm thấy mình được kêu gọi để dâng hiến hơn nữa những vất vả, những khổ đau và những hoan lạc của mình. Tôi bắt đầu hiểu một cách mãnh liệt hơn rằng việc làm quan trọng nhất của tôi chính là cầu nguyện. Tôi phát hiện ra thêm một lần nữa tầm quan trọng chính yếu của việc ca tụng và thờ lạy. Tôi hiểu rằng tất cả đều xuất phát từ đời sống nội tâm của mình, từ mối thâm tình với một vị Thiên Chúa đang vẫy gọi tôi: “Hãy đến bên cạnh Ta”. Tôi cũng nhận được mối tình thân mới với Mẹ Maria. Và rồi, trong khi tôi đã luôn yêu thương các anh chị em của mình, tôi cũng nhận được, theo tuổi tác, một sự trìu mến dịu dàng hơn, cởi mở hơn đối với họ. Vâng, đối với tôi chữ “nhân từ” dường như rất đúng để miêu tả điều mà Chúa yêu cầu tôi và ban cho tôi để sống.

Tôi hoàn toàn ngạc nhiên khi sống điều đó. Tôi vẫn luôn sợ rằng mình sẽ già cỗi đi với tuổi tác. Nhưng điều đang xảy ra lại hoàn toàn trái ngược. Cám ơn Chúa!

+++

Hiểu biết Chúa, chính là yêu mến Ngài và đến gần Ngài với trái tim, nhưng còn hơn thế nữa, là để cho Ngài đến gần mình. Ngài quả thật đang đến gần chúng ta. Chúng ta được cứu độ chỉ thuần nhờ ân sủng chứ không do công đức của chúng ta, ban đầu, đó là nguyên nhân. Giờ đây, nhân danh chính lòng thương xót của mình, Chúa muốn chúng ta tiến xa hơn và sâu hơn.

“Tiếng gọi thứ nhì”, đó là sự trao tặng bản thân một cách miễn phí, nhưng đó cũng là ý thức về lý do mà mình trao tặng, hay đúng hơn là ý thức mình trao tặng vì ai và cho ai: vì Chúa, vì Hội thánh.

“Tiếng gọi thứ nhì”, đó rốt cùng chính là chấp nhận trở nên trong suốt, chấp nhận phó mình cho tha nhân, chấp nhận chia sẻ một cách đơn sơ hơn những gì đang làm chúng ta sống, trong sự tự do lớn hơn cả bên trong và bên ngoài.

“Tiếng gọi thứ nhì” là tiếng gọi về một đức ái lớn lao hơn. Thế giới của chúng ta không còn nhận biết Đức Kitô nữa. Chúng ta được kêu gọi làm chứng cho Ngài bằng đức ái mà chúng ta đang sống. Chúng ta chỉ có thể nhận đức ái đó từ chính Chúa Giêsu mà thôi, bằng cách xây dựng đời mình nhiều hơn nữa trên nền móng là chính Ngài bằng việc thờ lạy và lắng nghe Lời Ngài.

Chúng ta cũng đừng dập tắt trong mình tiếng gọi mới này của Thần Khí, tiếng gọi này cũng quan trọng như tiếng gọi mà chúng ta đã nghe được khi lần đầu tiên trải qua kinh nghiệm về sự tuôn đổ Thần Khí. Chúa Giêsu phải càng lúc càng chiếm nhiều vị trí hơn trong chúng ta. Sao cho đời ta thật sự được tổ chức lại xoay quanh Ngài. Sao cho Ngài trở thành trung tâm của đời ta. Hãy chấp nhận rằng chính Chúa Thánh Thần đến sở hữu con tim chúng ta, loại bỏ khỏi nó tất cả những gì không thích hợp, lấy đi tất cả những gì chúng ta đang tìm cách giữ lại, đặt các tư tưởng và hành động của riêng Ngài vào trong con tim không còn gì là của nó nữa. Hãy chấp nhận để Ngài lột bỏ chúng ta, nhưng cũng hãy chấp nhận để Ngài đổ đầy chúng ta bằng một sự sống mới mà chúng ta chưa hề biết, và ở đó Thiên Chúa nắm quyền lãnh đạo nhiều hơn: “Hỡi anh em, anh em là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên” (1Cr 3, 9-17).

Để kết thúc, phải nhớ rằng với Đức Trinh Nữ Maria, mọi sự trở nên chắc chắn hơn và tiến nhanh hơn. Chúng ta hãy dâng hiến chính mình cho “Má trên Trời của chúng ta”. Hãy áp tim chúng ta vào Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ Maria. Đó chính là nơi chốn của chúng ta, và mọi sự sẽ đẹp đẽ hơn, dịu dàng hơn và mạnh mẽ hơn.

- Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, theo ý Chúa Cha và với quyền năng của Chúa Thánh Thần, Chúa đã ban sự sống cho thế gian qua cái chết của Chúa. Nguyện xin Mình và Máu Chúa giải thoát con khỏi tội lỗi và mọi sự dữ. Xin hãy giữ con trung thành với các lệnh Chúa truyền và giữ con đừng bao giờ lìa xa Chúa.

* Kinh nguyện của linh mục trong thánh lễ,
trước khi hiệp lễ.

. Kinh Việt - Trầm Tĩnh Nguyện lược dịch và đánh thêm số đề mục từ tác phẩm "L’itinéraire de la vie spirituelle" của Bernard Peyrous.
(Còn chương 9 & 10 chưa dịch)