Thứ Ba, 12 tháng 11, 2024

Đường Lên Núi Cát Minh - Quyển 1 - Chương 2: Thế nào là đêm




CHƯƠNG 2
THẾ NÀO LÀ ĐÊM*

Giải thích thế nào là đêm tối mà linh hồn phải trải qua để đạt tới sự nên một.

“Giữa một đêm dày”

1 - Có ba lý do khiến cái bước linh hồn vượt qua để nên một với Thiên Chúa được gọi là đêm. Lý do thứ nhất là do điểm xuất phát từ đó linh hồn đã lên đường. Nó phải ra đi mà không được mê thích bất cứ điều gì trong tất cả những cái nó có được ở trần gian này. Chối bỏ và thiếu hụt như vậy đúng là một thứ đêm đối với mọi giác quan của con người. Lý do thứ hai là do phương thế hay con đường linh hồn phải đi qua để đạt tới sự nên một ấy. Phương thế ấy là đức tin, đối với trí hiểu thì đức tin cũng tối như đêm vậy. Lý do thứ ba là do điểm đến được nhắm tới, tức là Thiên Chúa. Trong cõi sống này Thiên Chúa đối với linh hồn cũng là một đêm dày không hơn không kém. Cả ba đêm ấy phải đi qua linh hồn hay nói đúng hơn, linh hồn phải trải qua ba đêm ấy để đạt tới sự nên một với Thiên Chúa.

2 - Về ba loại đêm ấy, ta có được một hình ảnh sống động trong sách Tôbia, nơi ba đêm mà thiên thần truyền cho chàng trẻ tuổi Tôbia phải trải qua trước khi nên một với vợ chàng.

Trong đêm đầu, chàng phải đốt cháy tim con cá trên lửa, ám chỉ trái tim còn yêu thích và quyến luyến những sự thuộc về thế gian. Cũng thế, muốn bắt đầu tiến đến cùng Thiên Chúa, trái tim này phải đốt cháy và thanh tấy tất cả những gì là thụ tạo trong lửa của tình yêu Thiên Chúa. Có thanh tẩy như vậy mới xua trừ được ma quỷ, vì ma quỷ chỉ có quyền lực trên linh hồn nào quyến luyến những chuyện xác phàm mau qua.

3 - Trong đêm thứ hai, Thiên thần bảo rằng chàng sẽ được tiếp nhận và nhập đoàn các vị tổ phụ là bậc cha ông trong đức tin. Bởi vì một khi qua được đêm thứ nhất, tức là tự tước bỏ những gì mơn trớn giác quan, linh hồn liền vào ngay đêm thứ hai, tức là chỉ ở trong đức tin (đức tin không loại trừ đức ái nhưng chỉ loại trừ những tri thức khác của trí hiểu như chúng tôi sẽ nói sau), vì chỉ có đức tin mới không lệ thuộc giác quan.

4 - Trong đêm thứ ba, Thiên thần bảo rằng chàng sẽ nhận được sự chúc phúc, tức là chính Thiên Chúa, Đấng đã nhờ đêm thứ hai, là đức tin, mà tự thông ban mình cho linh hồn cách kín ẩn và mật thiết tới nỗi, đối với linh hồn, đó là một đêm khác nữa. Thật vậy, cuộc thông ban này diễn ra còn tăm tối hơn những cuộc thông ban khác, như chúng ta sẽ nói sau. Sau khi trải qua đêm thứ ba này, tức là sau khi đã hoàn tất việc Thiên Chúa thông ban trong tâm linh (điều này thường diễn ra khi linh hồn lâm cảnh tối tăm mù mịt), thì tiếp theo ngay là việc nên một với Tân Nương tức là Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Thật vậy, thiên thần bảo Tôbia rằng sau đêm thứ ba chàng sẽ nên một với vợ mình trong niềm kính sợ Chúa. Khi nào niềm kính sợ ấy hoàn hảo, tình yêu cũng hoàn hảo; và đó là khi nhờ tình yêu mà linh hồn được biến đổi.

5 - Đêm có ba phần như vậy nhưng tất cả chỉ là một đêm, bởi vì đêm này cũng gồm ba phần như đêm thường vậy. Phần thứ nhất, đêm giác quan, sánh được với phần trước nửa đêm, khi ta không còn bận tâm tới sự vật chung quanh. Phần thứ hai, đêm đức tin, sánh được với lúc nửa đêm, hoàn toàn tăm tối. Và phần thứ ba giống như rạng đông, mà sau đó tiếp liền là ánh sáng ban ngày, tức là Thiên Chúa.

Để hiểu rõ học thuyết này hơn, chúng ta sẽ bàn về từng nguyên nhân một.

- Nguyên tác: Subida al Monte Carmelo của Thánh GIOAN THÁNH GIÁ. Bản dịch của NGUYỄN UY NAM và Lm. TRĂNG THẬP TỰ.

(Còn tiếp)

Thứ Hai, 11 tháng 11, 2024

Đường Lên Núi Cát Minh - Quyển 1 - Chương 1: Hai thứ đêm



ĐƯỜNG LÊN NÚI CÁT MINH
QUYỂN 1
- Bàn về bản chất của đêm dày.
- Bàn về sự cần thiết phải vượt qua đêm dày để đạt tới chỗ kết hiệp nên một với Thiên Chúa.
- Cách riêng bàn về đêm dày của giác quan, của các mê thích, và về những thiệt hại mà các mê thích gây ra cho linh hồn.
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1 Hai thứ đêm*
CHƯƠNG 2 Thế nào là đêm*
CHƯƠNG 3 Tước bỏ sự mê thích*
CHƯƠNG 4 Cuộc vượt qua cần thiết*
CHƯƠNG 5 Cuộc vượt qua cần thiết* (2)
CHƯƠNG 6 Hậu quả tệ hại của mê thích*
CHƯƠNG 7 Mê thích sinh khổ não *
CHƯƠNG 8 Mê thích khiến linh hồn nên tối tăm và mù quáng*
CHƯƠNG 9 Mê thích gây hoen ố *
CHƯƠNG 10 Mê thích đưa tới nguội lạnh và suy yếu *
CHƯƠNG 11 Diệt hẳn mê thích *
CHƯƠNG 12 Tác hại dây chuyền và đồng bộ *
CHƯƠNG 13 Cách xử sự *
- Các tựa đề có đánh dấu hoa thị (*) là của riêng bản Việt ngữ. Người dịch mạn phép thêm vào để bạn đọc dễ theo dõi tư tưởng của tác giả và tiện tra cứu ở mục lục.
---
CHƯƠNG 1
+ HAI THỨ ĐÊM*
Chương này trình bày ca khúc thứ nhất:
Nói về những khác biệt giữa hai thứ đêm mà những người theo đường tâm linh phải trải qua, theo hai phần của con người: phần thượng đẳng và phần hạ đẳng.
Và giải thích ca khúc sau đây.
- Ca khúc thứ nhất
Giữa một đêm dày,
Nồng nàn yêu thương và âu lo,
Ôi vận may diễm phúc!
Tôi đã ra đi không bị để ý,
Mái nhà tôi giờ thật yên hàn.
1 - Trong ca khúc thứ nhất này, linh hồn hát mừng vì số phận mình thật diễm phúc và may mắn được thoát khỏi mọi sự bên ngoài, khỏi những mê thích và những bất toàn vốn nằm trong phần dễ cảm của con người, do sự vô trật tự của lý trí gây nên. Để hiểu điều ấy, cần biết rằng một linh hồn muốn đạt tới bậc hoàn thiện, trước hết thường phải trải qua hai thứ đêm chính yếu, được người sống theo tâm linh gọi là những cuộc thanh luyện và thanh tẩy linh hồn, ở đây chúng tôi gọi là đêm, bởi vì trong cả hai thứ đêm ấy, linh hồn như thể bước đi trong đêm, trong bóng tối.
2 - Đêm thứ nhất hay cuộc thanh luyện thứ nhất thuộc phần dễ cảm của linh hồn, được bàn tới trong ca khúc này và trong phần thứ nhất của sách này. Đêm thứ hai thuộc phần tâm linh, sẽ được nói tới trong ca khúc thứ hai tiếp sau; và chúng tôi sẽ bàn về mặt chủ động của nó trong phần hai và phần ba; còn mặt thụ động sẽ được bàn ở phần bốn.
3 - Đêm thứ nhất này dành cho những người mới bắt đầu, vào thời kỳ Thiên Chúa khởi sự đưa họ lên bậc chiêm niệm. Phần tâm linh cũng có dự phần vào đêm ấy, như sau này chúng tôi sẽ có lúc nói tới. Còn đêm thứ hai hay cuộc thanh luyện thứ hai dành cho những người đã tiến khá xa, vào thời kỳ Thiên Chúa muốn đưa họ lên bậc kết hiệp nên một với Thiên Chúa; và đây là một đêm tối tăm hơn, mù mịt hơn; và là một cuộc thanh luyện đáng sợ, như sẽ nói sau.

MINH GIẢI
4 - Đây là tóm tắt điều linh hồn muốn nói trong ca khúc này: Được Thiên Chúa lôi kéo, linh hồn đã ra đi chỉ nguyên vì yêu mến Ngài, được đốt cháy bằng tình yêu mến Ngài trong một đêm dày. Đêm ở đây tức là sự tước đoạt và thanh luyện khỏi mọi mê thích thuộc giác quan, liên hệ đến mọi thứ bên ngoài của đời này cũng như những gì đem lại khoái cảm cho nhục thể và thú vị cho lòng muốn. Tất cả những điều đó được thực hiện trong cuộc thanh luyện giác quan ấy. Linh hồn cũng nói thêm rằng nó ra đi khi ngôi nhà của nó đã yên hàn; tức là muốn ám chỉ phần cảm giác, các mê thích đã dịu xuống và ngủ yên trong linh hồn, và linh hồn cũng vậy, không còn quan tâm tới chúng nữa. Nó sẽ không ra khỏi những đau đớn dằn vặt do các mê thích gây ra trước khi những mê thích này giảm thiểu và ngủ yên.
Đó là lý do tại sao linh hồn bảo rằng số phận mình diễm phúc: Vì nó đã ra đi mà không bị để ý, tức là không bị bất cứ một mê thích nào của nhục thể hay một điều gì khác cản trở. Nó đã ra đi trong đêm, nghĩa là trong khi Thiên Chúa tước đoạt hết các mê thích ấy của nó, đối với nó, điều này đúng là một đêm tối.
5 - Thật là một vận may diễm phúc cho linh hồn khi được Thiên Chúa đặt vào đêm tối ấy, nơi phát xuất cho nó biết bao điều tốt và là nơi nó không sao tự mình mà vào được; vì không ai có thể tự mình loại trừ hết mọi mê thích để đến với Thiên Chúa.
6 - Đó là giải thích tổng quát về ca khúc này. Bây giờ chúng tôi sẽ đi vào từng câu, giảng giải từng câu một và sẽ trình bày những điều chúng tôi nhắm đến. Chúng tôi cũng sẽ làm như thế đối với các ca khúc khác, như tôi đã nói trong lời tựa, trước hết sẽ nêu ra từng tiết và giải thích, rồi đến mỗi câu của tiết ấy.
- Nguyên tác: Subida al Monte Carmelo của Thánh GIOAN THÁNH GIÁ. Bản dịch của NGUYỄN UY NAM và Lm. TRĂNG THẬP TỰ.

(Còn tiếp)

Thứ Bảy, 9 tháng 11, 2024

Đường Lên Núi Cát Minh - Lời tựa (tiếp theo)





4 — Vậy, để giúp cho những người mới bắt đầu và những người đã tiến khá xa biết phó mình cho Chúa dẫn đưa khi uy linh Ngài muốn đưa họ tiến tới thì, với ơn Chúa giúp, chúng tôi sẽ cung cấp cho họ một học thuyết và những lời khuyên để họ hiểu điều ấy, hoặc ít ra, để họ phó mình cho Thiên Chúa dẫn đưa. Bởi vì, có một số cha giải tội và linh hướng, do không có ánh sáng và kinh nghiệm về những nẻo đường này, đã thường làm hại và ngăn cản các linh hồn ấy, thay vì giúp đỡ họ trên con đường đó.

Tựa như những người xây tháp Babel, do không hiểu nhau, thay vì cung cấp một chất liệu phù hợp lại trao một thứ gì đó hoàn toàn khác, nên chẳng làm gì được cả. Thế mới hiểu tại sao trong những tình cảnh ấy, khi một linh hồn không hiểu được mình và không tìm được ai hiểu cho, sẽ bị thử thách khắc nghiệt và đau đớn biết bao. Bởi lẽ đã đến lúc Thiên Chúa dẫn đưa linh hồn qua con đường cao vượt nhất, con đường của chiêm niệm tăm tối và khô khan, ở đó linh hồn dường như thấy mình bị lạc mất. Rồi giữa lúc linh hồn đang bị phủ ngập những tăm tối, âu lo, buồn nản và cám dỗ, thì lại gặp phải những kẻ đã an ủi ông Gióp, bảo rằng đó là chứng u sầu, phiền muộn hoặc một tính khí nào đó, thậm chí còn có thể là một khía cạnh của lòng xấu khéo che đậy nên linh hồn mới bị Thiên Chúa bỏ rơi. Và họ quyết đoán ngay rằng linh hồn ấy hẳn đã trở nên xấu xa lắm mới gặp phải những chuyện như vậy.

5 — Người khác lại bảo linh hồn ấy đang thụt lùi, vì nó không còn tìm thấy thích thú hoặc an ủi như trước kia trong những gì thuộc về Thiên Chúa. Nói thế, họ khiến linh hồn đáng thương ấy bị khốn khổ gấp đôi, bởi vì do nhận ra tình trạng khốn khổ riêng của mình, linh hồn ấy hết sức khổ tâm khi thấy rõ hơn ban ngày rằng mình đầy xấu xa tội lỗi. Thật vậy, trong đêm tối chiêm niệm này, Thiên Chúa có soi sáng cho linh hồn hiểu ra được như thế. Vậy, khi linh hồn thấy có kẻ vừa ý với mình bảo rằng đó là do lỗi của nó, thì sự đau đớn và cô đơn tuyệt vọng của nó sẽ tăng lên vô hạn, thường có thể đi tới mức mà cái chết chỉ còn là một nỗi đau nhỏ mọn. Thế nhưng các cha giải tội ấy vẫn chưa bằng lòng, vì nghĩ rằng tình trạng ấy là do tội lỗi nên đòi các linh hồn ấy lục lọi lại quá khứ và xưng tội chung hết lần này tới lần khác và như thế là lại đóng đinh họ thêm nữa. Các vị ấy không biết rằng đây không phải là lúc bắt xét mình hoặc xưng tội, nhưng là lúc cần để yên các linh hồn ấy như thế trong cuộc thanh luyện Thiên Chúa đang thực hiện cho họ, chỉ an ủi và khích lệ để bao lâu Thiên Chúa còn muốn điều ấy thì họ cũng muốn như thế. Bởi lẽ, đến nước này, dù các linh hồn ấy có làm gì và các vị linh hướng có nói gì cũng chẳng có phương cách nào chữa trị.

6 — Nhờ ơn Chúa, về sau chúng tôi sẽ bàn đến và sẽ nói rõ lúc ấy linh hồn phải xử sự ra sao, cũng như cha giải tội phải làm gì cho linh hồn ấy, và đâu là những dấu chỉ cho biết đây có phải là một cuộc thanh luyện linh hồn không, và trong trường hợp đúng là thanh luyện, thì đó là thanh luyện giác quan hay tâm linh (tức là đêm dày sẽ bàn đến sau này), và làm thế nào có thể biết được đấy có phải là chứng u sầu hay một sự bất toàn nào khác về giác quan hoặc tâm linh. Bởi lẽ, có thể có những linh hồn, hoặc cha giải tội của họ, nghĩ rằng Thiên Chúa đang đưa họ qua nẻo đường đêm dày của việc thanh luyện tâm linh mà trong thực tế lại chỉ là một sự bất toàn của các linh hồn ấy. Cũng có nhiều linh hồn nghĩ rằng mình chẳng có cầu nguyện gì cả mà thật ra lại đã cầu nguyện thật nhiều, và ngược lại, có những người khác tưởng mình đã cầu nguyện rất nhiều mà thực ra lại chỉ cầu nguyện quá ít.

7 — Có những linh hồn khác đáng thương hại, họ vất vả và mệt mỏi nhiều nhưng lại đi giật lùi, vì họ đặt kết quả bước tiến của họ nơi điều chẳng giúp họ nhúc nhích thêm được chút nào mà còn cản bước tiến; cũng có những linh hồn khác, chỉ nghỉ ngơi trong yên tĩnh nhưng lại tiến bộ rất nhiều. Có những người khác nữa, dù được Thiên Chúa ưu ái ban ơn để tiến bước, nhưng lại lúng túng và rơi vào chướng ngại nên không thẳng tiến được. Tóm lại, trên một nẻo đường như thế, những ai muốn theo sẽ trải qua nhiều cảm nghiệm khác nhau: Có thể là vui thỏa và khó nhọc, hy vọng và đau khổ, tùy theo tâm linh họ còn bất toàn hay đã hoàn thiện. Về tất cả những chuyện ấy, nhờ Thiên Chúa giúp, chúng tôi sẽ cố gắng nói đôi điều để mỗi linh hồn khi đọc đến sẽ phần nào đó thấy được con đường họ đang theo và con đường họ nên theo nếu muốn đạt tới đỉnh ngọn núi này.

8 — Học thuyết này bàn về đêm dày linh hồn phải trải qua để đến với Thiên Chúa, nên xin độc giả đừng ngạc nhiên nếu thấy nó có vẻ hơi tối tăm. Tôi muốn nói là lúc độc giả bắt đầu đọc. Nhưng cứ đọc thẳng tới rồi sẽ hiểu hơn về phần đầu, vì điều sau sẽ giải thích và làm sáng tỏ điều trước. Nếu đọc toàn bộ thêm lần nữa thì sẽ thấy điều ấy sáng sủa hơn và cả học thuyết cũng “ổn” hơn. Nếu có người không thấy thỏa mãn với học thuyết này, thì ấy là do kiến thức của tôi ít ỏi và bút pháp của tôi thấp kém, chứ tự bản thân chúng thì những điều nói đây rất tốt và rất cần thiết. Tuy nhiên tôi cũng nghĩ rằng dù người ta có viết về đề tài này hoàn chỉnh và hoàn hảo hơn cách tôi viết ở đây, thì cũng chỉ một số ít có thể thưởng thức được, vì rằng ở đây không bàn đến những điều nặng về luân lý và thú vị đối với những người vừa theo đường tâm linh vừa thích đạt đến Thiên Chúa bằng những sự êm đềm thú vị, nhưng là bàn đến một học thuyết cốt yếu súc tích và vững chắc cho hai nhóm người nói trên, nếu họ muốn đi qua trạng thái trần trụi tâm linh mà tôi đang nói đây.

9 — Mà mục đích chính của tôi cũng không phải nói với hết mọi người, nhưng chỉ nhắm đến một số người trong hội dòng của chúng tôi đang dõi theo dấu chân các vị khai sáng ở núi Cát Minh, cả tu sĩ và nữ tu, là những người đã yêu cầu tôi viết - và là những người đã được Thiên Chúa ưu ái đặt lên triền dốc của ngọn núi này; những người này sau khi đã lột bỏ hẳn những điều thế tục của đời này, sẽ hiểu rõ hơn học thuyết về sự trần trụi tâm linh.

- Nguyên tác: Subida al Monte Carmelo của Thánh GIOAN THÁNH GIÁ. Bản dịch của NGUYỄN UY NAM và Lm. TRĂNG THẬP TỰ.

(Còn tiếp)

Thứ Năm, 7 tháng 11, 2024

Đường Lên Núi Cát Minh - Lời tựa

 


ĐƯỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

+ LỜI TỰA

1 - Để làm sáng tỏ và giúp hiểu đêm dày mà linh hồn vượt qua để đạt tới ánh sáng thần linh của việc kết hiệp nên một trọn vẹn với Thiên Chúa trong tình yêu (như người ta có thể có được ở đời này), lẽ ra cần có một ánh sáng tri thức và một kinh nghiệm khác lớn hơn ánh sáng và kinh nghiệm của tôi. Để đạt tới đỉnh cao hoàn thiện, có biết bao bóng tối dày đặc và bao âu lo vất vả cả về tâm linh và thế tục mà những linh hồn diễm phúc ấy thường phải chịu mà tri thức thô lậu của nhân loại không thể hiểu và kinh nghiệm cũng không sao làm sáng tỏ được. Chỉ ai trải qua mới có thể cảm nhận được nhưng cũng không thể diễn tả ra được.

2 - Vì thế, để nói đôi điều về đêm dày này tôi sẽ không cậy vào kinh nghiệm hoặc tri thức, bởi vì cả hai đều có thể thiếu sót và sai lầm. Dĩ nhiên, tôi không bỏ qua những đóng góp của tri thức và kinh nghiệm, nhưng để nói những điều mà với ơn Chúa tôi sẽ phải nói thì, ít là về những điều quan trọng và khó hiểu nhất, tôi sẽ dùng Thánh Kinh. Có Thánh Kinh hướng dẫn, ta sẽ không thể lạc đường, bởi lẽ Đấng nói trong Thánh Kinh là Chúa Thánh Thần. Nếu tôi có sai lầm điều gì, do không hiểu rõ, cứ tưởng mình nói theo Thánh Kinh mà thật ra lại không, thì ấy không phải tôi cố ý lìa xa cách hiểu đúng đắn và Giáo lý của Mẹ Hội thánh Công giáo. Trong trường hợp này, không những tôi hoàn toàn vâng phục lệnh truyền của Hội thánh mà còn xin vâng theo bất cứ ý kiến nào tốt hơn mà Hội thánh đoán định.

3 - Tôi được thôi thúc làm việc này không phải vì thấy mình có sẵn khả năng làm được công trình khó khăn này nhưng vì trông cậy Chúa sẽ giúp tôi nói được đôi điều để đáp ứng nhu cầu lớn lao của nhiều linh hồn mới bước vào đường nhân đức. Chúa chúng ta muốn đặt những linh hồn ấy trong đêm dày này, để qua đó mà đạt tới sự nên một với Ngài, nhưng họ không tiến xa được, đôi khi vì không muốn tiến tới đó, đôi khi vì không hiểu và không có những người hướng dẫn đủ khả năng và tỉnh táo để dẫn họ đạt tới đỉnh. Và như thế, thật đáng thương cho nhiều linh hồn, được Thiên Chúa ban tài năng và ân sủng để tiến xa (và nếu có can đảm, họ sẽ đạt được đỉnh cao ấy) thế mà trong cách xử đãi với Thiên Chúa họ vẫn cứ mãi thấp lè tè, hoặc vì họ không muốn hay không biết, hoặc vì họ không được dẫn dắt hay không được dạy bảo cho biết phải rời khỏi những bước đầu ấy.

Có thể là sau cùng Chúa vẫn đoái thương họ, giúp họ tiến lên mà không cần những sự dẫn dắt hay dạy bảo ấy. Tuy nhiên họ sẽ đạt đích chậm hơn nhiều, vất vả hơn nhiều mà lại ít công trạng hơn, vì không biết hòa mình theo Thiên Chúa để tự nguyện buông mình vào con đường tinh tuyền và chắc chắn nhất dẫn đến sự kết hiệp nên một. Đành rằng Thiên Chúa có thể dẫn đưa họ mà không cần đến những sự nâng đỡ ấy, nhưng bởi vì họ không chịu để cho mình được dẫn đưa và còn chống lại sự hướng dẫn của những người ấy, họ tiến rất chậm, và vì không vận dụng lòng muốn nên chẳng có công trạng bao nhiêu, và còn có thể vì đó mà phải đau khổ hơn. Thật vậy, có những linh hồn thay vì buông mình cho Thiên Chúa và để cho Ngài nâng đỡ, lại ngăn cản Thiên Chúa bằng sự khuấy động ồn ào, hoặc bằng sự chống cưỡng của họ. Họ hành động hệt như những đứa trẻ đang được mẹ ẵm trên tay nhưng lại kêu la giãy giụa đòi được xuống đất tự bước đi, để rồi chẳng tiến được gì, và nếu có đi được vài bước chập chững thì chỉ là những bước đi của con nít.

- Nguyên tác: Subida al Monte Carmelo của Thánh GIOAN THÁNH GIÁ. Bản dịch của NGUYỄN UY NAM và Lm. TRĂNG THẬP TỰ.

(Còn tiếp)

Thứ Tư, 6 tháng 11, 2024

Đường Lên Núi Cát Minh


THÁNH GIOAN THÁNH GIÁ

TOÀN TẬP


 Tập 2

ĐƯỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Nguyên tác:

Subida al Monte Carmelo

Bản dịch của

NGUYỄN UY NAM và Lm. TRĂNG THẬP TỰ



Tác phẩm của Gioan Thánh giá, tu sĩ Cát Minh, bàn về cung cách một linh hồn có thể dọn mình để mau đạt đến sự nên một với Thiên Chúa; cống hiến những ý kiến và học thuyết rất ích lợi cho những người mới bắt đầu cũng như những người đã tiến khá xa trên đường lành, để họ biết thoát khỏi mọi sự thế tục, khỏi bị mắc kẹt vào những điều thuộc tâm linh, được trần trụi triệt để và được sự tự do tâm linh là điều cần có để được nên một với Thiên Chúa.


Toàn bộ học thuyết tôi muốn trình bày trong cuốn Đường Lên Núi Cát Minh này, được gói ghém trong những ca khúc sau đây. Những ca khúc này cũng hàm chứa cung cách tiến lên tận đỉnh ngọn núi ấy, là bậc cao của sự hoàn thiện mà ở đây chúng ta gọi là sự nên một với Thiên Chúa. Tôi sẽ triển khai bằng cách căn cứ vào cái nền ấy mà xây đắp những điều sẽ nói. Do đó, tôi xin gom lại đây toàn thể các ca khúc ấy, để giúp bạn đọc hiểu và thấy ngay được khái quát tất cả những điều tôi sẽ viết. Khi trình bày tôi sẽ nêu lại từng ca khúc, hoặc có khi từng câu, tùy theo đòi hỏi của từng vấn đề được trình bày. Toàn văn các ca khúc như sau:

NHỮNG CA KHÚC LINH HỒN HÁT MỪNG VẬN MAY DIỄM PHÚC, NHỜ SỰ TRẦN TRỤI VÀ THANH TẨY MÀ ĐƯỢC VƯỢT TỪ ĐÊM TỐI ĐỨC TIN ĐẾN SỰ KẾT HIỆP NÊN MỘT VỚI ĐỨC LANG QUÂN.


Giữa một đêm dày,
Nồng nàn yêu thương và âu lo,
Ôi vận may diễm phúc!
Tôi đã ra đi không bị để ý,
Mái nhà tôi giờ thật yên hàn.
Trong tăm tối và an toàn
Cải trang, men theo cầu thang bí mật,
Ôi vận may diễm phúc!
Trong tăm tối và được che khuất,
Mái nhà tôi giờ thật yên hàn.
Nhờ đêm diễm phúc,
Trong bí mật, vì không ai thấy tôi,
Cả tôi cũng không nhìn gì cả,
Không một ánh sáng và kẻ dẫn đường nào khác
Ngoài chút sáng cháy trong tim.
Chút sáng ấy đang hướng dẫn tôi
Chắc chắn hơn ánh sáng giữa trưa,
Dẫn đến nơi có người đợi tôi
Người mà tôi biết rõ,
Đợi ở phía không ai lai vãng.
Ôi đêm! Ngươi đã hướng dẫn ta!
Ôi đêm! Đáng yêu hơn rạng đông!
Ôi đêm! Ngươi đã phối hợp
Đức Tình Quân với tình nương
Một tình nương đã được biến đổi nên Tình Quân!
Trên lòng tôi đầy hoa,
Được giữ vẹn cho một mình Chàng,
Chàng lưu lại đó, say ngủ,
Và tôi vuốt ve Chàng,
Và quạt mát cho Chàng bằng quạt bá hương.
Khi tôi đang vân vê tóc Chàng
Khí, từ lỗ châu mai
Bằng bàn tay trong suốt của nó
Đã làm tôi bị thương ở cổ
Và khiến mọi giác quan tôi bị treo lơ lửng.
Tôi ở yên và tự quên đi
Mặt nghiêng trên Tình Quân
Tất cả ngưng lại, và tôi buông mình,
Buông bỏ cả sự chú ý của tôi
Giữa những cánh huệ, và quên.

(Còn tiếp)

Thứ Hai, 4 tháng 11, 2024

Đạo làm người (tiếp theo & hết)

 


Từ đức hạnh bên trong đến thuần phong bên ngoài

 

Đức hạnh là của tâm hồn, nên có vẻ như gói gọn bên trong mỗi cá nhân. Bởi lẽ các gốc của một việc làm tốt không phải là những cử chỉ nhìn thấy bên ngoài, cho bằng tâm tình cùng với động cơ và ý hướng vốn ẩn khuất sâu trong nội tâm chúng ta. Quả thật đức tính không do sự lặp lại của những vận động cơ bắp, mà của những tâm tình và ý muốn, mà những vận động kia chỉ là biểu hiện bên ngoài thôi. Vâng, nếu chỉ có bên ngoài, thì về lâu về dài, cử chỉ (đóng kịch) kia chỉ ngày càng làm thui chột tình cảm đi. Trái lại, tình cảm thương người nếu lặp đi lặp lại sẽ ngày càng vững, càng sâu thêm mãi mãi, khiến cho từ đây, chỉ cần thấy một trẻ em khóc, một con chó rên la, là anh sẽ nhói đau ngay trong lòng, để rồi chính cảm xúc này sẽ đẩy đưa tay chân và miệng lưỡi của anh.

 

Tuy đức hạnh là của tâm hồn đấy, nhưng hễ lòng đầy sẽ ngứa ngáy tay chân, khiến cho một đạo đức chân chính luôn được biểu hiện trong lời nói, việc làm và đời sống. Do đó mà nó thành lây lan, và khi có nhiều người tốt, nhiều hành động tốt diễn ra như vậy, thì tất cả sẽ tạo nên một bầu khí, một môi trường, cùng với cách làm, cách nghĩ tưởng và đánh giá chung của một xã hội. Và đây là thuần phong, mỹ tục. Để rồi sinh ra giữa một môi trường như thế và được giáo hóa theo cung cách sống ấy, đứa trẻ sẽ tốt lên. Vâng, một phong hóa tốt và một giáo dục tốt luôn là cần thiết để tạo nên những xã hội tốt và những nhân cách hoàn mỹ.

 

Các xã hội xưa, như xã hội Kitô giáo phương Tây trước thế kỷ XIX và xã hội Nho giáo phương Đông trước thế kỷ XX, đều có một phong hóa khá cao nó rèn đúc nên những mẫu người tuyệt vời trong suốt nhiều thế kỷ. Có điều, một phong hóa không thể không có những khuôn, những luật lệ cùng với dư luận chúng gò ép con người, mà khi gò ép quá nhiều và quá mạnh, thì tự do mất đi sẽ khiến khó sống đạo đức sâu bởi khó sống tự mình. Bầu khí sẽ trở nên khó thở khi con người hiểu biết nhiều hơn, khiến cách mạng bùng nổ thành dây chuyền, mà người ta muốn phá đổ hết những gì là truyền thống cùng với những ràng buộc. Trong cuộc lật đổ lan rộng ấy, chẳng những cái xấu mất đi, mà những cái tốt cũng tan theo luôn, trong đó có truyền thống đạo đức.

 

Ngày nay, vì xã hội sa đọa quá rồi, nhiều người bên phương Đông muốn trở về với Nho giáo. Có điều nên nhớ, không thể trở về với truyền thống mà không biến đổi nó để nó phù hợp hơn với cuộc sống của chúng ta hôm nay. Vâng, phải chắt lấy và giữ lại cái gì là tinh tuý hay tinh thần, như Nhân Trí Dũng, như Thành và Trung Dung, cùng với Hiếu, Nghĩa, Tiết. Còn Tam cương, Ngũ thường, thì phải sàng lọc kỹ thôi, không thể giữ đủ hết.

 

Cuộc chiến vì phong hóa không phải là một với cuộc chiến vì sự thiện, bởi lẽ sự thiện thuộc tinh thần, còn phong hóa chỉ là biểu hiện bên ngoài, dù môi trường phong hóa rất cần cho giáo dục và sự phát triển của đạo đức. Có điều con người không thể sống và phát triển mà tách khỏi xã hội và văn hóa được, dù xã hội với cái vỏ bề ngoài và những khuôn cứng nhắc đôi khi cũng cản lối tinh thần nữa. Cho nên vấn đề là phải chọn giữa những hình thức và khuôn, vừa phải tạo bầu khí thanh thoáng của tự do, vừa phải giới hạn một phần tự do ấy để bảo vệ thuần phong mỹ tục. Trong thời đại của thông tin nghe-nhìn (audio-vision) hôm nay, một đằng phải hạn chế những phim ảnh và âm nhạc khiêu dâm hay kích động bạo lực, đằng kia phải đầu tư người và của cho những tiểu thuyết và phim ảnh đề cao tình đồng loại và quan hệ sư đệ, gia đình. Có điều xưa kia gần như chỉ người dưới mới có bổn phận đối với người trên, chứ ngày nay thì để người dưới dễ tuân phục người trên, chính người trên cũng phải làm gương cho người dưới và tìm hiểu tâm tư và nguyện vọng của giới trẻ chúng là con em, đệ tử của họ.

 

Đạo đức và nhân phẩm

 

Con người sinh ra đã đáng tôn quý rồi. Sự đáng tôn quý hay nhân phẩm ấy được Khổng giáo gọi là Lương quí và Thiên tước, tức cái Quí và Tước tự nhiên Trời ban (Mạnh tử 6A, 16-17). Tại sao sinh ra đã đáng tôn đáng quý như thế, thì theo Mạnh tử giải thích, con người luôn chứa sẵn trong mình những đức như nhân và nghĩa.

 

Thật ra, không phải đứa bé hay người nguyên thuỷ đã sẵn có những đức ấy, mà bằng chứng là đứa bé sinh ra rất ích kỷ (6), còn người nguyên thuỷ thì suốt một thời gian dài sống không khác cầm thú bao nhiêu. Vâng, cũng như qua kinh nghiệm và giáo dục, người ta tạo dần khoa học và văn hóa, thì đứa bé cũng cần được dạy dỗ và người nguyên thuỷ phải mò mẫm nhiều thế hệ mới biết đạo làm người.

 

Có điều, sở dĩ chỉ con người mới có tri thức lý tính, là vì khi sinh ra nó đã sẵn lý trí rồi. thì cũng thế, sở dĩ chỉ con người mới khám phá ra đạo làm người, vì sinh ra nó đã mang sẵn một hướng thiện nó đi kèm nhạy cảm thiện ác, để rồi nhờ lý trí và bằng kinh nghiệm, nó khám phá dần cái gì là thiện, là ác. Việc khám phá ấy vừa là của những thánh hiền sống nhiều với nội tâm và tiến xa trên đạo làm người, vừa là của chung một xã hội tốt đã thành môi trường sống và sự nâng đỡ cho bao thế hệ thánh hiền như thế.

 

Một khi đã cố gắng rất nhiều để thành nhân, thành thánh, thì không những người ta chỉ đáng tôn quí bằng cái nền tảng lương quí và thiên tước tự nhiên kia, mà còn bằng phẩm hạnh đạt được của một con người đã bao năm trung thành với tiếng gọi làm người của mình. Bằng như ngược lại, thì “cái tốt mà hư đi thì càng tệ thêm” (corruptio optimi, pessima), khiến cho sinh ra, thì lương quí như nhau đấy, nhưng càng sống, người ta càng xa biệt nhau về nhân phẩm:

– “Cố phân đồng loại giả, cử lương tri dã” (Mạnh tử 6A,7)

– “Tính tương cận…, tập tương viễn” (Luận ngữ, 17.2)

 

Thật ra, thì sự lương quí hay đáng tôn quí tự nhiên không phải do nhân nghĩa tiềm tàng cho bằng do một cái gì cơ bản hơn, và đây là bản vị, mà ngày nay triết học quen gọi là cái vị-thân (le pour-soi). Vâng, cỏ có mặt là vì con bò, con trâu; trong khi bò và trâu hiện hữu là vì chủng loại chúng và vì con người, chứ con người thì sống vì chính mình, nên không thể bị hy sinh cho cái gì khác, thậm chí không thể bị hy sinh dù cho cả một xã hội. Và đây là lý do tại sao nó phải được tôn kính vì chính nó, cũng như tại sao nó phải sống xứng với nhân phẩm của mình, và đấy là Tính, là Đạo, là Nhân nghĩa.

 

Chú thích

 

(1) Đạo Đức kinh, ch.XXIII.

(2) “Thượng đức bất đức” (ch.XXXVIII)

(3) Ch.XXXVIII.

(4) Nho giáo, quyển thượng, Trung tâm Học liệu xuất bản, tr.44

(5) Kinh Dịch: văn ngôn truyện

(6) Về sự ích kỷ của con nít, xin xem St.Augustin, Les confessions, ch.VII-VIII. 


Nguồn: https://dongten.net/dao-lam-nguoi/


Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2024

Đạo làm người



Tác giả: Hoàng Sỹ Quý, SJ.

 

Ý thức luân lý

 

Con vật chỉ phản ứng theo bản năng, nghĩa là cái bản năng “trời ơi” ấy làm thay cho nó hết. Duy chỉ con người mới hành động thật, nghĩa là làm tự mình, do lý trí soi lối và ý chí quyết định. Nên khởi động là ở việc cân nhắc và quyết định này, chứ không phải ở hoạt động cơ bắp và thần kinh. Chính vì thế, đắn đo và quyết muốn đã được gọi là hành vi (act) rồi, để khi tòa án luận tội thì phải dựa vào đó mà xét. Vâng, dù anh quyết giết người mà chưa giết được, thì anh đã phạm tội trước lương tâm anh, còn tòa án thì kết tội anh cố ý mưu sát.

 

Sở dĩ con người có trách nhiệm, không về động tác bên ngoài cho bằng về hành vi nội tâm (cũng là nội tại, immanent), vì chỉ nội tâm mới là giang san riêng của tôi, chỉ ở nội tâm tôi mới thực là chủ, là tổng tư lệnh. Ở nội tâm đó, tôi vừa là nhà lập pháp, vừa là quan tòa và kẻ thi hành án luôn. Và đây là lương tri, hay tiếng nói lương tâm.

 

Do đâu mà có cái lương tâm lạ lùng ấy? Freud giải thích nó bằng then máy của Siêu ngã. Đây là uy quyền người cha cùng với những cấm đoán bị “đồng hóa” (identification) hay hội nhập vào đứa bé, thành một thứ Tôi trên tôi nó kiềm chế và kiểm soát tôi. Có điều Freud không cho biết vì sao có cái hương vị luân lý đi kèm, khiến “quyết lệnh luân lý” (impératif moraux) phân biệt với những loại cấm cản, ức chế (inhibition) khác. Lại nữa, cưỡng bách luân lý luôn giả thiết tự do, đến nỗi khi không còn tự do, dù do hoàn cảnh bên ngoài, dù do bệnh tâm thần bên trong, thì cưỡng bách luân lý cũng tiêu tan.

 

Chúng tôi không nghĩ như Nho giáo và các triết gia Cổ Trung Hoa, rằng con người khi sinh ra, nhất là người nguyên thuỷ, đã có ngay những đức như nhân nghĩa trong mình. Mà thực ra, họ chỉ có một thứ nhạy cảm luân lý hay cảm thức thiện ác, để rồi từ thứ nhạy cảm này, với sự trợ giúp của lý trí và kinh nghiệm, sẽ khám phá ra dần dần cái gì là hợp với tính người, tức thiện, và cái gì nghịch lại, tức ác. Chứ hồi đầu, loài người chỉ có một cảm nhận chung chung, nó là một thứ nguyên tắc tối ư tổng quát:

– Điều thiện thì nên làm, điều ác thì phải lánh!

 

Chứ còn cái gì là lành hay ác thì lại khác, khiến cho về lâu về dài và từ vùng trời này đến vùng trời kia, có thể có những quy tắc luân lý cụ thể trái ngược nhau, ít là ở bề nổi và về mặt thực hành.

 

Đạo làm người

 

Nếu Tây Trúc chỉ trọng có tôn giáo, và coi luân lý chỉ có ích trong giai đoạn vô minh, luân hồi thôi; và nếu Tây phương tuy đề cao luân lý đấy, nhưng coi nó là vấn đề riêng của loài người; thì Á Đông chẳng những để luân lý bao trùm luôn tôn giáo – hay nói cho đúng hơn, đặt bổn phận đối với Trời và thần thánh, tức tôn giáo, lồng cả trong Đạo làm người, tức luân lý – mà còn đặt luân lý vào trong cái Đạo tối thượng nó bao trùm cả Thiên Địa Nhân. Vâng, luân lý chỉ là một trong những hiển thể của Đạo, và gốc của nó nằm ở Mệnh Trời.

 

Theo Lão tử, Đạo ở gốc của nó thì không gọi được tên, không định được dạng, không hiển ra bằng đức và quy luật rõ ràng. Và đây mới là Thường đạo. Ngay Trời được coi là gốc của tất cả, thì nơi Trời, Đạo cũng có hai mặt Vô danh và Hữu danh như thế:

Vô danh vạn vật chi thuỷ,

Hữu danh vạn vật chi mẫu.

 

Còn con người, nếu sống đạo sâu xa, đến như thành một với đạo: “đồng ư đạo (1), thì người ta cũng không cần nghĩ đến Đức, huống nữa đức này hay đức kia (2):

“Mất đạo rồi mới có đức,

Mất đức rồi mới có nhân…”(3)

 

Có thuyết cho rằng Nhân đạo là do Trời định, có thuyết lại cho rằng do tự nhiên thôi, không cần Trời phải muốn thế mới thành như thế.

 

Theo tôi nghĩ, nên dung hòa giữa hai ý kiến, bằng cách vượt trên cả luật tự nhiên lẫn thiên ý. Như thế cũng phù hợp với cách hiểu của khoa học hôm nay về đạo của đất, tức quy luật của tự nhiên.

 

Vâng, theo ý tôi, Trời chỉ cần đặt giữa hư không một Thiên mệnh hay ý hướng, để giữa hư không ấy nổ lớn một Bigbang, rồi từ cái bắt đầu nó như có như không, giữa năng lượng và hạt này, mà vật chất sinh ra, vật chất ấy tự tìm lối cho mình hướng về cái mới chỉ là ý Trời hằn in trên nó. Tìm đường, nó phải dò dẫm, mày mò, để rồi mỗi khi tiến được một bước, nó liền để vết cho tất cả sau đó lặp lại (répétition): vết ấy chính là quy luật, chứ quy luật không có sẵn trước đâu. Nên quy luật đúng là tự nhiên, mà cũng đúng là ý Trời. Nếu hướng nhắm của Trời là sự sống, và giữa sự sống là con người, thì nơi con người ấy cũng có một Thiên mệnh chiếu in thành Tính, để với cái Tính lý tưởng và cái Đạo “thường đạo” chung chung này, con người cũng sẽ dò dẫm tìm đường, tự khai phá lấy cho mình một hệ thống các đức và quy luật luân lý chúng hướng dẫn hắn trên đường thành thánh, thành nhân.

 

Hướng nhắm là Đạo, nhưng vững Đạo là ở Đức

 

Tính là cái đích phải vươn tới, Đạo là đường đi nói chung, nhưng thể hiện Đạo ra trong cuộc sống lại là Đức, và cụ thể hơn, là các đức như nhân, nghĩa, v.v… Cho nên để đạt đạo trong điều kiện hiện sinh của loài người, không thể không trui rèn các đức tính, chúng hiển lộ Đạo và làm cho Đạo vững lên:

– Chí vu Đạo, cứ vu Đức

 

Nếu Lão tử chỉ nói về Đạo, thì thực tế hơn Khổng tử chỉ bàn về các đức. Về đức Khổng Khâu kể ra, nào là Cung khoan tín mẫn huệ, nào là Nhân nghĩa lễ trí tín, nào là Kiệm khiêm tiết trực và Trung thứ hiếu đễ. Nhưng đức mà Khổng tử năng nhắc đến và nhấn vào nhiều là Nhân Trí Dũng, là Thành và Trung Dung. Có thể nói đây là những đức trụ (cột) của tòa nhà đạo đức Khổng giáo.

 

Luân lý Hy-La cũng có những đức trụ (vertus cardinales) mà Cicero ghi rõ trong tác phẩm De officiis (Về các bổn phận) của ông, và đây là: Tiết độ, khôn ngoan, công bình và can đảm. Trong bốn đức ấy, có đến ba thuộc cương, còn khôn ngoan thuộc phán đoán hơn nên không kể. Trái lại, trong năm đức trụ Nho giáo, rõ ràng thuộc cương chỉ có Dũng và Thành, và chúng được lòng Nhân nhuần thấm khiến cho ôn dịu lại. Hơn thế, trong tâm ý của đức Khổng, ngũ đức nói trên mang một ý nghĩa rất sâu xa.

 

Cao sâu nhất có lẽ là Thành và Trung Dung, mà Đức Khổng dành cho cả một cuốn sách: sách Trung Dung.

 

Dẫn nhập cho Trung Dung, Trình tử định nghĩa Trung như sau: “Bất thiên chi vị Trung”, không thiên lệch, đó là Trung. Câu nói ấy khiến có thể hiểu là Đừng đi quá, hay Tránh thái quá và bất cập. Quả đúng là có “tránh thái quá và bất cập” đấy, nhưng đây chỉ là kết quả hay cái ngọn thôi. Để hiểu đúng Trung là gì ở gốc của nó, thì cứ việc đọc tiếp liền sau đó, nơi lời diễn giải đầu tiên của Đức Khổng.

Hỉ nộ ai lạc chi vị phát, vị chi Trung;

Phát nhi giai trùng tiết, vị chi Hòa!

(Mừng giận buồn vui khi chưa phát sinh, thì đó là Trung;

Phát sinh mà đúng hợp [với cảnh, việc], thì đó là Hòa)

 

Nói cách khác, Trung có gì giống như trạng thái nội tâm lúc chưa xảy ra biến cố: không ghét, ham, mừng, giận, nghĩa là không nghiêng lệch bên này hay bên kia; để khi biến cố xảy ra rồi, thì phản ứng nếu phù hợp và đúng mức cần, thì đó là hòa hợp với đạo. Vừa đúng mức, chứ không để cho thành kiến, đố kỵ hay quan hệ thân, thù chi phối mảy may, thì đúng là Khách quan rồi. Cũng đúng là Bất thiên (indifferentia) của tu đức học Kitô giáo, tình trạng không thiên lệch giống như khi chưa xảy ra sự việc, để khi xảy ra thì phản ứng đúng mức theo bổn phận và đạo làm người đòi hỏi, chứ không do thiên lệch mà làm quá, cũng không do sợ nể mà bất cập.

 

Thật ra, nếu chỉ Trung thôi thì chưa có gì nói lên tình cảm gắn bó với lẽ phải và sự thật, nên sánh đôi với Trung, cần phải thêm đức Thành nữa. Thành không phải chỉ là nghĩ sao nói thế. Thành trước hết phải là có sao nghĩ vậy, đánh giá đúng như vậy, nghĩa là Thành với tâm và lương tri, và như thế cũng là khách quan, là Trung luôn.

 

Nếu luôn thành và trung với lương tri như thế, thì lương tri không còn chi che khuất, sẽ khiến Đạo ngày càng hiện rõ, thành như trong suốt, và đây là Trí, là Minh: Trí hướng về hiểu biết thuyết lý, còn Minh hướng về cụ thể và thực hành. Vậy Minh là phân định (discernement) nó giúp người ta đánh giá một ý nghĩ là đúng hay sai, cũng như giúp ứng phó thế nào cho hợp đạo trong một trường hợp cụ thể. Một đánh giá có tính thực hành thôi, chứ hiểu tại sao lại thế, thì cần phải Trí nữa.

 

Có điều, để từ phân định mà chuyển thành hành động, thì phải có thêm Dũng, không phải cái “dũng của người phương Bắc” để xông pha giữa rừng gươm lửa đạn, mà cái “dũng của người phương Nam” để chiến đấu với chính mình.

 

Lại nữa, để hành động thẳng ngay mà vẫn còn tính, tình người, thì lại phải có thêm lòng Nhân. Với lòng nhân, người ta dễ cảm thông nỗi khổ của người khác và tôn kính sự sống nói chung, như Trần Trọng Kim nhận xét:

– “Nhân là đầu các điều thiện, chủ bồi dưỡng sự sinh của trời đất” (4).

 

Vì là đầu các điều thiện, Nhân thành đỉnh cao của cả tòa nhà đạo đức, mà ở đấy mọi đức tỏa sáng Nhân và dung hợp với nhan đề làm nên một nhân cách hoàn mỹ, một con người hoàn bị:

– “Quân tử thể Nhân, tức dĩ trưởng nhân” (5).

 

Trong lúc chưa đạt tới đỉnh cao ấy, thì các đức cương nhu đối nghịch phải sánh đôi để mài giũa và bổ túc cho nhau, nhờ đó tránh thái quá hay bất cập. Vâng, trực quá sẽ tàn nhẫn, khoan dung và từ bi quá sẽ nhu nhược và khuyến khích sự ác.


(Còn tiếp)