CHƯƠNG 2 THẾ NÀO LÀ ĐÊM* Giải thích thế nào là đêm tối mà linh hồn phải trải qua để đạt tới sự nên một. “Giữa một đêm dày” 1 - Có ba lý do khiến cái bước linh hồn vượt qua để nên một với Thiên Chúa được gọi là đêm. Lý do thứ nhất là do điểm xuất phát từ đó linh hồn đã lên đường. Nó phải ra đi mà không được mê thích bất cứ điều gì trong tất cả những cái nó có được ở trần gian này. Chối bỏ và thiếu hụt như vậy đúng là một thứ đêm đối với mọi giác quan của con người. Lý do thứ hai là do phương thế hay con đường linh hồn phải đi qua để đạt tới sự nên một ấy. Phương thế ấy là đức tin, đối với trí hiểu thì đức tin cũng tối như đêm vậy. Lý do thứ ba là do điểm đến được nhắm tới, tức là Thiên Chúa. Trong cõi sống này Thiên Chúa đối với linh hồn cũng là một đêm dày không hơn không kém. Cả ba đêm ấy phải đi qua linh hồn hay nói đúng hơn, linh hồn phải trải qua ba đêm ấy để đạt tới sự nên một với Thiên Chúa. 2 - Về ba loại đêm ấy, ta có được một hình ảnh sống động trong sách Tôbia, nơi ba đêm mà thiên thần truyền cho chàng trẻ tuổi Tôbia phải trải qua trước khi nên một với vợ chàng. Trong đêm đầu, chàng phải đốt cháy tim con cá trên lửa, ám chỉ trái tim còn yêu thích và quyến luyến những sự thuộc về thế gian. Cũng thế, muốn bắt đầu tiến đến cùng Thiên Chúa, trái tim này phải đốt cháy và thanh tấy tất cả những gì là thụ tạo trong lửa của tình yêu Thiên Chúa. Có thanh tẩy như vậy mới xua trừ được ma quỷ, vì ma quỷ chỉ có quyền lực trên linh hồn nào quyến luyến những chuyện xác phàm mau qua. 3 - Trong đêm thứ hai, Thiên thần bảo rằng chàng sẽ được tiếp nhận và nhập đoàn các vị tổ phụ là bậc cha ông trong đức tin. Bởi vì một khi qua được đêm thứ nhất, tức là tự tước bỏ những gì mơn trớn giác quan, linh hồn liền vào ngay đêm thứ hai, tức là chỉ ở trong đức tin (đức tin không loại trừ đức ái nhưng chỉ loại trừ những tri thức khác của trí hiểu như chúng tôi sẽ nói sau), vì chỉ có đức tin mới không lệ thuộc giác quan. 4 - Trong đêm thứ ba, Thiên thần bảo rằng chàng sẽ nhận được sự chúc phúc, tức là chính Thiên Chúa, Đấng đã nhờ đêm thứ hai, là đức tin, mà tự thông ban mình cho linh hồn cách kín ẩn và mật thiết tới nỗi, đối với linh hồn, đó là một đêm khác nữa. Thật vậy, cuộc thông ban này diễn ra còn tăm tối hơn những cuộc thông ban khác, như chúng ta sẽ nói sau. Sau khi trải qua đêm thứ ba này, tức là sau khi đã hoàn tất việc Thiên Chúa thông ban trong tâm linh (điều này thường diễn ra khi linh hồn lâm cảnh tối tăm mù mịt), thì tiếp theo ngay là việc nên một với Tân Nương tức là Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Thật vậy, thiên thần bảo Tôbia rằng sau đêm thứ ba chàng sẽ nên một với vợ mình trong niềm kính sợ Chúa. Khi nào niềm kính sợ ấy hoàn hảo, tình yêu cũng hoàn hảo; và đó là khi nhờ tình yêu mà linh hồn được biến đổi. 5 - Đêm có ba phần như vậy nhưng tất cả chỉ là một đêm, bởi vì đêm này cũng gồm ba phần như đêm thường vậy. Phần thứ nhất, đêm giác quan, sánh được với phần trước nửa đêm, khi ta không còn bận tâm tới sự vật chung quanh. Phần thứ hai, đêm đức tin, sánh được với lúc nửa đêm, hoàn toàn tăm tối. Và phần thứ ba giống như rạng đông, mà sau đó tiếp liền là ánh sáng ban ngày, tức là Thiên Chúa. Để hiểu rõ học thuyết này hơn, chúng ta sẽ bàn về từng nguyên nhân một. (Còn tiếp) |
Thứ Ba, 12 tháng 11, 2024
Đường Lên Núi Cát Minh - Quyển 1 - Chương 2: Thế nào là đêm
Thứ Hai, 11 tháng 11, 2024
Đường Lên Núi Cát Minh - Quyển 1 - Chương 1: Hai thứ đêm
Thứ Bảy, 9 tháng 11, 2024
Đường Lên Núi Cát Minh - Lời tựa (tiếp theo)
Thứ Năm, 7 tháng 11, 2024
Đường Lên Núi Cát Minh - Lời tựa
Thứ Tư, 6 tháng 11, 2024
Đường Lên Núi Cát Minh
THÁNH GIOAN THÁNH GIÁ
TOÀN TẬP
Tập 2
ĐƯỜNG LÊN NÚI CÁT MINH
Nguyên tác:
Subida al Monte Carmelo
Bản dịch của
NGUYỄN UY NAM và Lm. TRĂNG THẬP TỰ
ĐƯỜNG LÊN NÚI CÁT MINH |
Tác phẩm của Gioan Thánh giá, tu sĩ Cát Minh, bàn về cung cách một linh hồn có thể dọn mình để mau đạt đến sự nên một với Thiên Chúa; cống hiến những ý kiến và học
thuyết rất ích lợi cho những người mới bắt đầu cũng như những người đã tiến
khá xa trên đường lành, để họ biết thoát khỏi mọi sự thế tục, khỏi bị mắc kẹt
vào những điều thuộc tâm linh, được trần trụi triệt để và được sự tự do tâm
linh là điều cần có để được nên một với Thiên Chúa. |
Toàn bộ học thuyết tôi muốn trình bày trong cuốn Đường Lên Núi Cát Minh này, được gói ghém trong những ca
khúc sau đây. Những ca khúc này cũng hàm chứa cung cách tiến lên tận đỉnh
ngọn núi ấy, là bậc cao của sự hoàn thiện mà ở đây chúng ta gọi là sự nên một
với Thiên Chúa. Tôi sẽ triển khai bằng cách căn cứ vào cái nền ấy mà xây đắp
những điều sẽ nói. Do đó, tôi xin gom lại đây toàn thể các ca khúc ấy, để
giúp bạn đọc hiểu và thấy ngay được khái quát tất cả những điều tôi sẽ viết.
Khi trình bày tôi sẽ nêu lại từng ca khúc, hoặc có khi từng câu, tùy theo đòi
hỏi của từng vấn đề được trình bày. Toàn văn các ca khúc như sau: |
NHỮNG CA KHÚC LINH HỒN HÁT MỪNG VẬN MAY DIỄM PHÚC, NHỜ SỰ TRẦN TRỤI
VÀ THANH TẨY MÀ ĐƯỢC VƯỢT TỪ ĐÊM TỐI ĐỨC TIN ĐẾN SỰ KẾT HIỆP NÊN MỘT VỚI ĐỨC
LANG QUÂN. |
Giữa một đêm dày, Nồng nàn yêu thương và âu lo, Ôi vận may diễm phúc! Tôi đã ra đi không bị để ý, Mái nhà tôi giờ thật yên hàn. Trong tăm tối và an toàn Cải trang, men theo cầu thang bí mật, Ôi vận may diễm phúc! Trong tăm tối và được che khuất, Mái nhà tôi giờ thật yên hàn. Nhờ đêm diễm phúc, Trong bí mật, vì không ai thấy tôi, Cả tôi cũng không nhìn gì cả, Không một ánh sáng và kẻ dẫn đường nào khác Ngoài chút sáng cháy trong tim. Chút sáng ấy đang hướng dẫn tôi Chắc chắn hơn ánh sáng giữa trưa, Dẫn đến nơi có người đợi tôi Người mà tôi biết rõ, Đợi ở phía không ai lai vãng. Ôi đêm! Ngươi đã hướng dẫn ta! Ôi đêm! Đáng yêu hơn rạng đông! Ôi đêm! Ngươi đã phối hợp Đức Tình Quân với tình nương Một tình nương đã được biến đổi nên Tình Quân! Trên lòng tôi đầy hoa, Được giữ vẹn cho một mình Chàng, Chàng lưu lại đó, say ngủ, Và tôi vuốt ve Chàng, Và quạt mát cho Chàng bằng quạt bá hương. Khi tôi đang vân vê tóc Chàng Khí, từ lỗ châu mai Bằng bàn tay trong suốt của nó Đã làm tôi bị thương ở cổ Và khiến mọi giác quan tôi bị treo lơ lửng. Tôi ở yên và tự quên đi Mặt nghiêng trên Tình Quân Tất cả ngưng lại, và tôi buông mình, Buông bỏ cả sự chú ý của tôi Giữa những cánh huệ, và quên. (Còn tiếp) |
Thứ Hai, 4 tháng 11, 2024
Đạo làm người (tiếp theo & hết)
Từ
đức hạnh bên trong đến thuần phong bên ngoài
Đức hạnh là của tâm
hồn, nên có vẻ như gói gọn bên trong mỗi cá nhân. Bởi lẽ các gốc của một việc
làm tốt không phải là những cử chỉ nhìn thấy bên ngoài, cho bằng tâm tình cùng
với động cơ và ý hướng vốn ẩn khuất sâu trong nội tâm chúng ta. Quả thật đức
tính không do sự lặp lại của những vận động cơ bắp, mà của những tâm tình và ý
muốn, mà những vận động kia chỉ là biểu hiện bên ngoài thôi. Vâng, nếu chỉ có
bên ngoài, thì về lâu về dài, cử chỉ (đóng kịch) kia chỉ ngày càng làm thui
chột tình cảm đi. Trái lại, tình cảm thương người nếu lặp đi lặp lại sẽ ngày
càng vững, càng sâu thêm mãi mãi, khiến cho từ đây, chỉ cần thấy một trẻ em
khóc, một con chó rên la, là anh sẽ nhói đau ngay trong lòng, để rồi chính cảm
xúc này sẽ đẩy đưa tay chân và miệng lưỡi của anh.
Tuy đức hạnh là của
tâm hồn đấy, nhưng hễ lòng đầy sẽ ngứa ngáy tay chân, khiến cho một đạo đức
chân chính luôn được biểu hiện trong lời nói, việc làm và đời sống. Do đó mà nó
thành lây lan, và khi có nhiều người tốt, nhiều hành động tốt diễn ra như vậy,
thì tất cả sẽ tạo nên một bầu khí, một môi trường, cùng với cách làm, cách nghĩ
tưởng và đánh giá chung của một xã hội. Và đây là thuần phong, mỹ tục. Để rồi
sinh ra giữa một môi trường như thế và được giáo hóa theo cung cách sống ấy,
đứa trẻ sẽ tốt lên. Vâng, một phong hóa tốt và một giáo dục tốt luôn là cần
thiết để tạo nên những xã hội tốt và những nhân cách hoàn mỹ.
Các xã hội xưa, như xã
hội Kitô giáo phương Tây trước thế kỷ XIX và xã hội Nho giáo phương Đông trước
thế kỷ XX, đều có một phong hóa khá cao nó rèn đúc nên những mẫu người tuyệt
vời trong suốt nhiều thế kỷ. Có điều, một phong hóa không thể không có những
khuôn, những luật lệ cùng với dư luận chúng gò ép con người, mà khi gò ép quá
nhiều và quá mạnh, thì tự do mất đi sẽ khiến khó sống đạo đức sâu bởi khó sống
tự mình. Bầu khí sẽ trở nên khó thở khi con người hiểu biết nhiều hơn, khiến
cách mạng bùng nổ thành dây chuyền, mà người ta muốn phá đổ hết những gì là
truyền thống cùng với những ràng buộc. Trong cuộc lật đổ lan rộng ấy, chẳng
những cái xấu mất đi, mà những cái tốt cũng tan theo luôn, trong đó có truyền
thống đạo đức.
Ngày nay, vì xã hội sa
đọa quá rồi, nhiều người bên phương Đông muốn trở về với Nho giáo. Có điều nên
nhớ, không thể trở về với truyền thống mà không biến đổi nó để nó phù hợp hơn
với cuộc sống của chúng ta hôm nay. Vâng, phải chắt lấy và giữ lại cái gì là
tinh tuý hay tinh thần, như Nhân Trí Dũng, như Thành và Trung Dung, cùng với
Hiếu, Nghĩa, Tiết. Còn Tam cương, Ngũ thường, thì phải sàng lọc kỹ thôi, không
thể giữ đủ hết.
Cuộc chiến vì phong
hóa không phải là một với cuộc chiến vì sự thiện, bởi lẽ sự thiện thuộc tinh
thần, còn phong hóa chỉ là biểu hiện bên ngoài, dù môi trường phong hóa rất cần
cho giáo dục và sự phát triển của đạo đức. Có điều con người không thể sống và
phát triển mà tách khỏi xã hội và văn hóa được, dù xã hội với cái vỏ bề ngoài
và những khuôn cứng nhắc đôi khi cũng cản lối tinh thần nữa. Cho nên vấn đề là
phải chọn giữa những hình thức và khuôn, vừa phải tạo bầu khí thanh thoáng của
tự do, vừa phải giới hạn một phần tự do ấy để bảo vệ thuần phong mỹ tục. Trong
thời đại của thông tin nghe-nhìn (audio-vision) hôm nay, một đằng phải hạn chế
những phim ảnh và âm nhạc khiêu dâm hay kích động bạo lực, đằng kia phải đầu tư
người và của cho những tiểu thuyết và phim ảnh đề cao tình đồng loại và quan hệ
sư đệ, gia đình. Có điều xưa kia gần như chỉ người dưới mới có bổn phận đối với
người trên, chứ ngày nay thì để người dưới dễ tuân phục người trên, chính người
trên cũng phải làm gương cho người dưới và tìm hiểu tâm tư và nguyện vọng của
giới trẻ chúng là con em, đệ tử của họ.
Đạo
đức và nhân phẩm
Con người sinh ra đã
đáng tôn quý rồi. Sự đáng tôn quý hay nhân phẩm ấy được Khổng giáo gọi là Lương
quí và Thiên tước, tức cái Quí và Tước tự nhiên Trời ban (Mạnh tử 6A, 16-17).
Tại sao sinh ra đã đáng tôn đáng quý như thế, thì theo Mạnh tử giải thích, con
người luôn chứa sẵn trong mình những đức như nhân và nghĩa.
Thật ra, không phải
đứa bé hay người nguyên thuỷ đã sẵn có những đức ấy, mà bằng chứng là đứa bé
sinh ra rất ích kỷ (6), còn người nguyên thuỷ thì suốt một thời gian dài sống
không khác cầm thú bao nhiêu. Vâng, cũng như qua kinh nghiệm và giáo dục, người
ta tạo dần khoa học và văn hóa, thì đứa bé cũng cần được dạy dỗ và người nguyên
thuỷ phải mò mẫm nhiều thế hệ mới biết đạo làm người.
Có điều, sở dĩ chỉ con
người mới có tri thức lý tính, là vì khi sinh ra nó đã sẵn lý trí rồi. thì cũng
thế, sở dĩ chỉ con người mới khám phá ra đạo làm người, vì sinh ra nó đã mang
sẵn một hướng thiện nó đi kèm nhạy cảm thiện ác, để rồi nhờ lý trí và bằng kinh
nghiệm, nó khám phá dần cái gì là thiện, là ác. Việc khám phá ấy vừa là của
những thánh hiền sống nhiều với nội tâm và tiến xa trên đạo làm người, vừa là
của chung một xã hội tốt đã thành môi trường sống và sự nâng đỡ cho bao thế hệ
thánh hiền như thế.
Một khi đã cố gắng rất
nhiều để thành nhân, thành thánh, thì không những người ta chỉ đáng tôn quí
bằng cái nền tảng lương quí và thiên tước tự nhiên kia, mà còn bằng phẩm hạnh
đạt được của một con người đã bao năm trung thành với tiếng gọi làm người của
mình. Bằng như ngược lại, thì “cái tốt mà hư đi thì càng tệ thêm” (corruptio
optimi, pessima), khiến cho sinh ra, thì lương quí như nhau đấy, nhưng càng
sống, người ta càng xa biệt nhau về nhân phẩm:
– “Cố phân đồng loại
giả, cử lương tri dã” (Mạnh tử 6A,7)
– “Tính tương cận…,
tập tương viễn” (Luận ngữ, 17.2)
Thật ra, thì sự lương
quí hay đáng tôn quí tự nhiên không phải do nhân nghĩa tiềm tàng cho bằng do
một cái gì cơ bản hơn, và đây là bản vị, mà ngày nay triết học quen gọi là cái
vị-thân (le pour-soi). Vâng, cỏ có mặt là vì con bò, con trâu; trong khi bò và
trâu hiện hữu là vì chủng loại chúng và vì con người, chứ con người thì sống vì
chính mình, nên không thể bị hy sinh cho cái gì khác, thậm chí không thể bị hy
sinh dù cho cả một xã hội. Và đây là lý do tại sao nó phải được tôn kính vì
chính nó, cũng như tại sao nó phải sống xứng với nhân phẩm của mình, và đấy là
Tính, là Đạo, là Nhân nghĩa.
Chú thích
(1) Đạo Đức kinh,
ch.XXIII.
(2) “Thượng đức bất
đức” (ch.XXXVIII)
(3) Ch.XXXVIII.
(4) Nho giáo, quyển
thượng, Trung tâm Học liệu xuất bản, tr.44
(5) Kinh Dịch: văn
ngôn truyện
(6) Về sự ích kỷ của con nít, xin xem St.Augustin, Les confessions, ch.VII-VIII.
Nguồn: https://dongten.net/dao-lam-nguoi/
Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2024
Đạo làm người
Tác giả: Hoàng Sỹ Quý, SJ.
Ý
thức luân lý
Con vật chỉ phản ứng
theo bản năng, nghĩa là cái bản năng “trời ơi” ấy làm thay cho nó hết. Duy chỉ
con người mới hành động thật, nghĩa là làm tự mình, do lý trí soi lối và ý chí
quyết định. Nên khởi động là ở việc cân nhắc và quyết định này, chứ không phải
ở hoạt động cơ bắp và thần kinh. Chính vì thế, đắn đo và quyết muốn đã được gọi
là hành vi (act) rồi, để khi tòa án luận tội thì phải dựa vào đó mà xét. Vâng,
dù anh quyết giết người mà chưa giết được, thì anh đã phạm tội trước lương tâm
anh, còn tòa án thì kết tội anh cố ý mưu sát.
Sở dĩ con người có
trách nhiệm, không về động tác bên ngoài cho bằng về hành vi nội tâm (cũng là
nội tại, immanent), vì chỉ nội tâm mới là giang san riêng của tôi, chỉ ở nội
tâm tôi mới thực là chủ, là tổng tư lệnh. Ở nội tâm đó, tôi vừa là nhà lập
pháp, vừa là quan tòa và kẻ thi hành án luôn. Và đây là lương tri, hay tiếng
nói lương tâm.
Do đâu mà có cái lương
tâm lạ lùng ấy? Freud giải thích nó bằng then máy của Siêu ngã. Đây là uy quyền
người cha cùng với những cấm đoán bị “đồng hóa” (identification) hay hội nhập
vào đứa bé, thành một thứ Tôi trên tôi nó kiềm chế và kiểm soát tôi. Có điều
Freud không cho biết vì sao có cái hương vị luân lý đi kèm, khiến “quyết lệnh
luân lý” (impératif moraux) phân biệt với những loại cấm cản, ức chế
(inhibition) khác. Lại nữa, cưỡng bách luân lý luôn giả thiết tự do, đến nỗi
khi không còn tự do, dù do hoàn cảnh bên ngoài, dù do bệnh tâm thần bên trong,
thì cưỡng bách luân lý cũng tiêu tan.
Chúng tôi không nghĩ
như Nho giáo và các triết gia Cổ Trung Hoa, rằng con người khi sinh ra, nhất là
người nguyên thuỷ, đã có ngay những đức như nhân nghĩa trong mình. Mà thực ra,
họ chỉ có một thứ nhạy cảm luân lý hay cảm thức thiện ác, để rồi từ thứ nhạy
cảm này, với sự trợ giúp của lý trí và kinh nghiệm, sẽ khám phá ra dần dần cái
gì là hợp với tính người, tức thiện, và cái gì nghịch lại, tức ác. Chứ hồi đầu,
loài người chỉ có một cảm nhận chung chung, nó là một thứ nguyên tắc tối ư tổng
quát:
– Điều thiện thì nên
làm, điều ác thì phải lánh!
Chứ còn cái gì là lành
hay ác thì lại khác, khiến cho về lâu về dài và từ vùng trời này đến vùng trời
kia, có thể có những quy tắc luân lý cụ thể trái ngược nhau, ít là ở bề nổi và
về mặt thực hành.
Đạo
làm người
Nếu Tây Trúc chỉ trọng
có tôn giáo, và coi luân lý chỉ có ích trong giai đoạn vô minh, luân hồi thôi;
và nếu Tây phương tuy đề cao luân lý đấy, nhưng coi nó là vấn đề riêng của loài
người; thì Á Đông chẳng những để luân lý bao trùm luôn tôn giáo – hay nói cho
đúng hơn, đặt bổn phận đối với Trời và thần thánh, tức tôn giáo, lồng cả trong
Đạo làm người, tức luân lý – mà còn đặt luân lý vào trong cái Đạo tối thượng nó
bao trùm cả Thiên Địa Nhân. Vâng, luân lý chỉ là một trong những hiển thể của
Đạo, và gốc của nó nằm ở Mệnh Trời.
Theo Lão tử, Đạo ở gốc
của nó thì không gọi được tên, không định được dạng, không hiển ra bằng đức và
quy luật rõ ràng. Và đây mới là Thường đạo. Ngay Trời được coi là gốc của tất
cả, thì nơi Trời, Đạo cũng có hai mặt Vô danh và Hữu danh như thế:
Vô danh vạn vật chi
thuỷ,
Hữu danh vạn vật chi
mẫu.
Còn con người, nếu
sống đạo sâu xa, đến như thành một với đạo: “đồng ư đạo (1), thì người ta cũng
không cần nghĩ đến Đức, huống nữa đức này hay đức kia (2):
“Mất đạo rồi mới có
đức,
Mất đức rồi mới có
nhân…”(3)
Có thuyết cho rằng
Nhân đạo là do Trời định, có thuyết lại cho rằng do tự nhiên thôi, không cần
Trời phải muốn thế mới thành như thế.
Theo tôi nghĩ, nên
dung hòa giữa hai ý kiến, bằng cách vượt trên cả luật tự nhiên lẫn thiên ý. Như
thế cũng phù hợp với cách hiểu của khoa học hôm nay về đạo của đất, tức quy
luật của tự nhiên.
Vâng, theo ý tôi, Trời
chỉ cần đặt giữa hư không một Thiên mệnh hay ý hướng, để giữa hư không ấy nổ
lớn một Bigbang, rồi từ cái bắt đầu nó như có như không, giữa năng lượng và hạt
này, mà vật chất sinh ra, vật chất ấy tự tìm lối cho mình hướng về cái mới chỉ
là ý Trời hằn in trên nó. Tìm đường, nó phải dò dẫm, mày mò, để rồi mỗi khi
tiến được một bước, nó liền để vết cho tất cả sau đó lặp lại (répétition): vết
ấy chính là quy luật, chứ quy luật không có sẵn trước đâu. Nên quy luật đúng là
tự nhiên, mà cũng đúng là ý Trời. Nếu hướng nhắm của Trời là sự sống, và giữa
sự sống là con người, thì nơi con người ấy cũng có một Thiên mệnh chiếu in
thành Tính, để với cái Tính lý tưởng và cái Đạo “thường đạo” chung chung này,
con người cũng sẽ dò dẫm tìm đường, tự khai phá lấy cho mình một hệ thống các
đức và quy luật luân lý chúng hướng dẫn hắn trên đường thành thánh, thành nhân.
Hướng nhắm là Đạo,
nhưng vững Đạo là ở Đức
Tính là cái đích phải
vươn tới, Đạo là đường đi nói chung, nhưng thể hiện Đạo ra trong cuộc sống lại
là Đức, và cụ thể hơn, là các đức như nhân, nghĩa, v.v… Cho nên để đạt đạo
trong điều kiện hiện sinh của loài người, không thể không trui rèn các đức
tính, chúng hiển lộ Đạo và làm cho Đạo vững lên:
– Chí vu Đạo, cứ vu
Đức
Nếu Lão tử chỉ nói về
Đạo, thì thực tế hơn Khổng tử chỉ bàn về các đức. Về đức Khổng Khâu kể ra, nào
là Cung khoan tín mẫn huệ, nào là Nhân nghĩa lễ trí tín, nào là Kiệm khiêm tiết
trực và Trung thứ hiếu đễ. Nhưng đức mà Khổng tử năng nhắc đến và nhấn vào
nhiều là Nhân Trí Dũng, là Thành và Trung Dung. Có thể nói đây là những đức trụ
(cột) của tòa nhà đạo đức Khổng giáo.
Luân lý Hy-La cũng có
những đức trụ (vertus cardinales) mà Cicero ghi rõ trong tác phẩm De officiis
(Về các bổn phận) của ông, và đây là: Tiết độ, khôn ngoan, công bình và can
đảm. Trong bốn đức ấy, có đến ba thuộc cương, còn khôn ngoan thuộc phán đoán hơn
nên không kể. Trái lại, trong năm đức trụ Nho giáo, rõ ràng thuộc cương chỉ có
Dũng và Thành, và chúng được lòng Nhân nhuần thấm khiến cho ôn dịu lại. Hơn
thế, trong tâm ý của đức Khổng, ngũ đức nói trên mang một ý nghĩa rất sâu xa.
Cao sâu nhất có lẽ là
Thành và Trung Dung, mà Đức Khổng dành cho cả một cuốn sách: sách Trung Dung.
Dẫn nhập cho Trung
Dung, Trình tử định nghĩa Trung như sau: “Bất thiên chi vị Trung”, không thiên
lệch, đó là Trung. Câu nói ấy khiến có thể hiểu là Đừng đi quá, hay Tránh thái
quá và bất cập. Quả đúng là có “tránh thái quá và bất cập” đấy, nhưng đây chỉ
là kết quả hay cái ngọn thôi. Để hiểu đúng Trung là gì ở gốc của nó, thì cứ
việc đọc tiếp liền sau đó, nơi lời diễn giải đầu tiên của Đức Khổng.
Hỉ nộ ai lạc chi vị
phát, vị chi Trung;
Phát nhi giai trùng
tiết, vị chi Hòa!
(Mừng giận buồn vui
khi chưa phát sinh, thì đó là Trung;
Phát sinh mà đúng hợp
[với cảnh, việc], thì đó là Hòa)
Nói cách khác, Trung
có gì giống như trạng thái nội tâm lúc chưa xảy ra biến cố: không ghét, ham,
mừng, giận, nghĩa là không nghiêng lệch bên này hay bên kia; để khi biến cố xảy
ra rồi, thì phản ứng nếu phù hợp và đúng mức cần, thì đó là hòa hợp với đạo.
Vừa đúng mức, chứ không để cho thành kiến, đố kỵ hay quan hệ thân, thù chi phối
mảy may, thì đúng là Khách quan rồi. Cũng đúng là Bất thiên (indifferentia) của
tu đức học Kitô giáo, tình trạng không thiên lệch giống như khi chưa xảy ra sự
việc, để khi xảy ra thì phản ứng đúng mức theo bổn phận và đạo làm người đòi
hỏi, chứ không do thiên lệch mà làm quá, cũng không do sợ nể mà bất cập.
Thật ra, nếu chỉ Trung
thôi thì chưa có gì nói lên tình cảm gắn bó với lẽ phải và sự thật, nên sánh
đôi với Trung, cần phải thêm đức Thành nữa. Thành không phải chỉ là nghĩ sao
nói thế. Thành trước hết phải là có sao nghĩ vậy, đánh giá đúng như vậy, nghĩa
là Thành với tâm và lương tri, và như thế cũng là khách quan, là Trung luôn.
Nếu luôn thành và
trung với lương tri như thế, thì lương tri không còn chi che khuất, sẽ khiến
Đạo ngày càng hiện rõ, thành như trong suốt, và đây là Trí, là Minh: Trí hướng
về hiểu biết thuyết lý, còn Minh hướng về cụ thể và thực hành. Vậy Minh là phân
định (discernement) nó giúp người ta đánh giá một ý nghĩ là đúng hay sai, cũng
như giúp ứng phó thế nào cho hợp đạo trong một trường hợp cụ thể. Một đánh giá
có tính thực hành thôi, chứ hiểu tại sao lại thế, thì cần phải Trí nữa.
Có điều, để từ phân
định mà chuyển thành hành động, thì phải có thêm Dũng, không phải cái “dũng của
người phương Bắc” để xông pha giữa rừng gươm lửa đạn, mà cái “dũng của người
phương Nam” để chiến đấu với chính mình.
Lại nữa, để hành động
thẳng ngay mà vẫn còn tính, tình người, thì lại phải có thêm lòng Nhân. Với
lòng nhân, người ta dễ cảm thông nỗi khổ của người khác và tôn kính sự sống nói
chung, như Trần Trọng Kim nhận xét:
– “Nhân là đầu các
điều thiện, chủ bồi dưỡng sự sinh của trời đất” (4).
Vì là đầu các điều
thiện, Nhân thành đỉnh cao của cả tòa nhà đạo đức, mà ở đấy mọi đức tỏa sáng
Nhân và dung hợp với nhan đề làm nên một nhân cách hoàn mỹ, một con người hoàn bị:
– “Quân tử thể Nhân,
tức dĩ trưởng nhân” (5).
Trong lúc chưa đạt tới
đỉnh cao ấy, thì các đức cương nhu đối nghịch phải sánh đôi để mài giũa và bổ
túc cho nhau, nhờ đó tránh thái quá hay bất cập. Vâng, trực quá sẽ tàn nhẫn,
khoan dung và từ bi quá sẽ nhu nhược và khuyến khích sự ác.
(Còn tiếp)