Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2024

Đường Lên Núi Cát Minh - Quyển 1 - Chương 11: Diệt hẳn mê thích



ĐƯỜNG LÊN NÚI CÁT MINH
QUYỂN 1

CHƯƠNG 11
DIỆT HẲN MÊ THÍCH *

Chương này chứng minh rằng muốn đạt tới sự nên một với Thiên Chúa, linh hồn cần phải lột bỏ hết mọi mê thích, cả những mê thích hết sức nhỏ nhặt.

1 - Có lẽ từ lâu độc giả đã muốn hỏi xem: Để đạt tới bậc hoàn thiện cao ấy, có cần phải giết chết hoàn toàn mọi mê thích cả lớn lẫn nhỏ chăng? Hay chỉ cần giết một số mê thích nào đó và bỏ qua một số khác, ít là những mê thích không mấy quan trọng? Bởi thật là gay go và hết sức khó khăn để linh hồn có thể đạt được sự tinh tuyền và trần trụi, đến độ chẳng còn tha thiết và nghiêng chiều về bất cứ một điều gì!

2 - Về vấn đề này, xin trả lời như sau: Trước hết, không phải mọi mê thích đều gây hại như nhau, và cản trở linh hồn ngang nhau, vì có những mê thích hữu ý và những mê thích theo phản ứng tự nhiên. về những mê thích theo phản ứng tự nhiên (vốn là chuyện ngoài ý muốn), ta không thể nào tẩy trừ chúng, tức là không thể nào hoàn toàn giết sạch chúng ngay ở đời này, nên bao lâu ta không ưng theo chúng và chúng không vượt quá những rung động tự nhiên (tức là tất cả những rung động mà trong đó lòng muốn tự do không hề dự phần chút nào, cả trước lẫn sau), thì chúng ít ngăn cản hoặc không ngăn cản linh hồn trên đường nên một. Đàng khác những mê thích ấy, dù không hoàn toàn bị giết chết vẫn không ngăn cản được ta đến nỗi không thể nào vươn tới sự nên một với Chúa, vì ngay cả khí chúng cứ bám chặt lấy bản tính tự nhiên, thì về mặt tâm linh hữu trí, linh hồn vẫn có thể rất tự do. Lắm khi còn có thể xảy ra tình trạng: Linh hồn đã vận dụng lòng muốn để nên một sâu xa trong nguyện gẫm an tĩnh rồi, mà những mê thích ấy vẫn cứ cựa quậy trong phần cảm giác của con người, dù ở phần thượng tầng, linh hồn đang mải mê cầu nguyện, chẳng can dự gì với chúng.

Còn đối với tất cả những mê thích có tính cách hữu ý, nếu ta muốn đạt tới sự nên một toàn diện, thì nhất thiết phải diệt sạch, phải khử sạch khỏi linh hồn từ những điều trầm trọng đưa đến tội nặng cho tới những điều ít trầm trọng hơn chỉ đưa tới tội nhẹ, và cả đến những điều nhỏ mọn chỉ đưa tới những bất toàn, dù là những bất toàn nhỏ bé nhất. Lý do là vì bậc nên một với Thiên Chúa cốt ở chỗ linh hồn giữ cho ý muốn mình được hoàn toàn biến đổi sang ý muốn Thiên Chúa, đến nỗi không còn điều gì trái nghịch với ý muốn này, nhưng trong hết mọi sự và đối với mọi vấn đề, nó chỉ còn chuyển động theo ý Thiên Chúa muốn mà thôi.

3 - Trong tình trạng nên một ấy, hai ý muốn biến thành một, thành ý muốn Thiên Chúa, đến nỗi ý muốn Thiên Chúa cũng là ý muốn của linh hồn. Nếu linh hồn này còn tha thiết với một điều bất toàn nào đó, là điều Thiên Chúa không muốn, thì chưa đạt tới chỗ có cùng một ý muốn với Thiên Chúa, vì còn muốn điều Thiên Chúa không muốn. Do đó, nếu linh hồn muốn hoàn toàn nên một với Thiên Chúa bằng tình yêu và lòng muốn, trước tiên phải khử trừ hết mọi mê thích trong ý muốn, ngay cả những mê thích nhỏ bé nhất. Tức là, khi đã nhận biết rồi thì không được cố ý thuận tình muốn bất cứ một điều bất toàn nào, nhưng phải hết sức tự chủ và vận dụng tự do để cự tuyệt ngay khi vừa thoáng thấy nó. Tôi nói: “Khi đã nhận biết”, bởi lẽ thường thì do lơ đãng, do vô tình hoặc do thiếu năng lực, linh hồn vẫn rất dễ rơi vào những điều bất toàn, vào tội nhẹ và những mê thích tự nhiên. Những tội như vậy không do cố ý, tựa như là những điều lén lút đột nhập, nên có lời viết: "Người công chính ngã bảy lần còn chỗi dậy được" (Cn 24,16). Thế nhưng còn các mê thích có tính cách hữu ý, đưa đến những tội nhẹ cố ý, dù chỉ là những điều hết sức nhỏ, nếu người ta không lướt thắng thì cũng đủ gây ngăn trở (cho sự nên một với Thiên Chúa). Còn về những thói quen đã bị giết chết, dù lắm lúc một số tác động thuộc những mê thích khác nhau còn xuất hiện nhưng chúng không gây tác hại nhiều. Dĩ nhiên, ta vẫn phải quyết khai trừ chúng, bởi lẽ chúng còn phát sinh được cũng là do một một điểm bất toàn đã thành thói quen. Còn những thói quen về những điều bất toàn hữu ý, mà người ta không bao giờ chịu chiến thắng cho dứt khoát thì không những chúng ngăn trở việc nên một với Thiên Chúa mà còn cản trở cả bước đường hoàn thiện nữa.

4 - Có những bất toàn đã thành thói quen thường gặp như: thói nói nhiều, để lòng quyến luyến một điều nào đó không bao giờ muốn thắng vượt, chẳng hạn đối với một người, một bộ quần áo, một quyển vở, một căn phòng, một loại đồ ăn, một kiểu chuyện gẫu, sở thích thưởng thức điều này, điều nọ, muốn biết, muốn nghe và nhiều chuyện khác tương tự... Bất cứ điều gì trong những bất toàn ấy, mà linh hồn quyến luyến thành quen đi, cũng đều gây biết bao thiệt hại cho khả năng tăng trưởng và tiến bộ về nhân đức. Có thể nói nếu mỗi ngày người ta vấp phải nhiều bất toàn khác và nhiều tội nhẹ riêng rẽ, nhưng là những điều không phát sinh từ một thói quen thường xuyên của một tính xấu thường xuyên nào đó, thì có lẽ vẫn không bị ngăn trở cho bằng trường hợp linh hồn tha thiết với một vật nào đó. Bao lâu còn bị ràng buộc vào đó, dù sự bất toàn ấy chỉ là một chuyện không đâu, linh hồn vẫn không thể tiến tới trên con đường hoàn thiện. Một con chim đã bị cột thì cột bằng một sợi chỉ mảnh mai hay bằng một sợi dây lớn có khác gì mấy? Dù sợi chỉ có mảnh mai đến đâu, bao lâu con chim chưa giựt đứt được để bay đi thì vẫn còn mất tự do như bị cột bằng sợi dây lớn. Thực ra, sợi chỉ thì dễ bứt đứt hơn, nhưng dù dễ dàng đến đâu, nếu không chịu giựt đứt, vẫn không thể nào cất cánh. Đó cũng chính là tình trạng của một linh hồn còn dính bén với một thụ tạo. Dù có nhiều nhân đức, nó vẫn sẽ không đạt được sự tự do của ơn nên một với Thiên Chúa. Mê thích và sự dính bén nơi linh hồn có đặc tính giống như đặc tính mà người ta gán cho loại “cá ép” đối với chiếc tàu. Dù chỉ là một con cá bé tí, một khi đã ép mình vào chiếc tàu nào, nó làm cho chiếc tàu ấy phải đứng yên không thể nào tới bến hoặc chạy thêm được [Theo một huyền thoại hàng hải thời xưa ở bên Tây (ND - chú thích của người dịch)]. Thật vậy, quả là đáng thương hại cho nhiều linh hồn, chẳng khác nào những chiếc tàu giàu có, chất đầy mọi thứ phong phú, các công trình, các cuộc linh thao, các nhân đức và các hồng ân Thiên Chúa ban cho họ, vậy mà vì không có can đảm dứt bỏ một sở thích nhỏ, một điều tha thiết hay một nghiêng chiều nào đó (thật ra những thứ ấy chỉ là một), họ chẳng bao giờ tiến lên được, cũng không cập được bến hoàn thiện, dù họ chỉ cần vỗ cánh một cái cho đứt hẳn sợi dây ràng buộc, chỉ cần gỡ bỏ con cá ép tí teo của mê thích đang phá rầy là xong.

5 - Thiên Chúa đã làm cho họ cắt đứt được nhiều sợi dây thật lớn trói buộc vào những điều tội lỗi và những chuyện hão huyền, thế nhưng thật đáng tiếc, chỉ vì không chịu từ bỏ một chuyện trẻ con mà Thiên Chúa dạy họ phải thắng vượt để tỏ lòng yêu mến Ngài — một sự ràng buộc không lớn hơn sợi chỉ hay sợi tóc — nên họ đã bỏ cuộc, không đạt tới được ơn lành lớn lao dường ấy. Tệ hơn nữa, vì chút quyến luyến ấy, chẳng những họ không tiến bước mà còn thụt lùi, bỏ mất cả những bước đã tiến và đạt được từ bao lâu nay với bao công lao khó nhọc. Vì ai cũng biết rõ rằng trên con đường này không tiến là lùi, không được là thua. Chính Chúa đã muốn dạy chúng ta điều ấy khi Ngài nói: "Ai không đi với Ta tức là chống lại Ta, và kẻ không cùng Ta thu họp tức là làm tan tác" (Mt 12,30). Ai không để ý trám lại vết nứt nhỏ trên chiếc bình, sẽ mất hết thứ chất lỏng chứa bên trong. Sách Huấn ca dạy chúng ta rằng: "Ai khinh lợi nhỏ sẽ khánh kiệt" (Hc 19,1), tức là ai khinh chê những điều nhỏ mọn sẽ dần dần sa ngã. Sách còn nói thêm: "Một tia lửa nhen cả lò than" (Hc 11,32), tức là tự một tia lửa thôi, ngọn lửa sẽ bùng lên. Một điểm bất toàn đủ để kéo theo một điểm bất toàn khác và những điểm này lại kéo theo nhiều điểm khác nữa. Thành thử không bao giờ có chuyện một linh hồn lơ là trong việc lướt thắng một mê thích mà lại không mắc phải nhiều mê thích khác, phát sinh từ chính sự yếu đuối và bất toàn của linh hồn đối với mê thích mà nó cần thắng vượt. Và do đó, nó luôn đi đến chỗ sa ngã. Chúng ta cũng đã từng thấy nhiều người vốn được Thiên Chúa ban ơn tiến mau trong việc từ bỏ triệt để và sống tự do tâm linh; thế rồi, chỉ vì họ lại để mình dính bén với một nghiêng chiều nào đó, dưới một danh nghĩa việc lành, trao đổi chuyện trò hoặc tình bạn, mà mất dần tinh thần nhiệt thành, sự cảm nếm Thiên Chúa, cũng như sự cô tịch thánh thiện và rồi mất hẳn niềm vui thỏa và sự bền bỉ tập luyện linh thao. Họ đi đến chỗ mất hết tất cả, bởi lẽ ngay từ đầu không chịu khai trừ chút sở thích và mê thích thuộc giác quan để giữ cho mình được cô tịch mà đến với Thiên Chúa.

6 - Trên con đường này, muốn đạt đích thì phải luôn luôn bước đi. Muốn vậy, phải luôn luôn giết chết các ao ước, không được duy trì chúng. Nếu không tẩy sạch hết, sẽ không thể nào đạt đích. Củi sẽ không biến thành lửa nếu còn thiếu độ nóng cần thiết, dù chỉ một độ hết sức nhỏ. Cũng thế, linh hồn sẽ không biến hóa nên Thiên Chúa, nếu còn bất toàn ở một điểm, dù chỉ là một bất toàn không đáng gì so với một mê thích hữu ý. Như chúng ta sẽ bàn tới sau này trong đêm tối đức tin, linh hồn chỉ có một lòng muốn thôi. Nếu lòng muốn này bị vướng mắc hoặc bị đầu tư vào một thụ tạo nào đó, nó sẽ không còn tự do, đơn nhất và tinh ròng, là những điều kiện mà cuộc biến đổi thần linh đòi phải có.

7 - Trong sách Thủ Lãnh có một hình ảnh về vấn đề này: Thiên thần đến với con cái Israel và bảo họ rằng, vì họ đã không tận diệt đám dân thù nghịch, trái lại còn giao kết với một số người trong bọn chúng, cho nên Thiên Chúa sẽ để chúng ở lại giữa họ như địch thù, để chúng làm cớ cho họ vấp phạm và hư mất [Nguyên văn: “Nên Ta đã nói: Ta sẽ không đuổi chúng trước mặt ngươi, chúng sẽ ở bên sườn các ngươi, và các thần của chúng sẽ là bẫy hại các ngươi” (Tp 2, 3)]. Thiên Chúa cũng xử sự y như thế đối với một số linh hồn: Ngài đã lôi kéo họ ra khỏi thế gian và giết chết những tên khổng lồ trong số các tội lỗi của họ và tận diệt phần đa số các kẻ thù của họ - tức là những dịp vấp phạm mà họ gặp phải trong thế gian, cốt để họ được tự do hơn mà đi vào đất hứa, tức là nên một với Thiên Chúa. Thế nhưng họ lại kéo bè kết cánh, thỏa hiệp với đám dân bé nhỏ ấy, tức là những bất toàn mà họ không chịu diệt hẳn đi. Vì thế, Thiên Chúa chán ngán và để họ gục ngã trong các mê thích của họ càng lúc càng tệ hơn.

8 - Sách Giôsua cũng cho ta một hình ảnh về vấn đề này: Khi dân Israel khởi sự chiếm đất hứa, Thiên Chúa truyền cho họ phải tàn sát hết tất cả mọi thứ trong thành Giêricô, không được để sót một sinh vật nào, cả đàn ông lẫn đàn bà, từ trẻ con tới người già cả, và tất cả mọi thú vật; họ cũng không được lấy hoặc ao ước một chút gì trong toàn bộ các chiến lợi phẩm. Ấy là để chúng ta hiểu rằng, muốn được nên một với Thiên Chúa cũng thế, phải giết sạch những gì còn lẩn lút trong linh hồn, cả cái ít và cái nhiều, cái bé và cái lớn, linh hồn không được khao khát gì nơi tất cả những thứ đó, và phải từ bỏ triệt để như thể linh hồn không hề có đối với chúng và chúng không hề có đối với linh hồn vậy. Đó là điều thánh Phaolô đã dạy chúng ta trong thư gửi giáo đoàn Côrintô: Anh em thân mến, tôi xin cảnh giác anh em điều này: "Thời buổi đã co rút lại! Cho nên từ nay, những kẻ có vợ thì hãy ở như không có, những kẻ khóc (đối với sự vật thế gian này) hãy như không khóc; những kẻ vui hãy như không vui, những kẻ mua hãy như không cầm giữ, và hưởng thế gian như không tận hưởng" (1Cr 7,29-31). Nói thế, thánh Tông đồ muốn dạy chúng ta biết cần phải giữ cho linh hồn được thanh thoát đối với hết mọi sự để tiến đến với Thiên Chúa.

Nguyên tác: Subida al Monte Carmelo của Thánh GIOAN THÁNH GIÁ. Bản dịch của NGUYỄN UY NAM và Lm. TRĂNG THẬP TỰ.
(Còn tiếp)

Thứ Tư, 27 tháng 11, 2024

Đường Lên Núi Cát Minh - Quyển 1 - Chương 10: Mê thích đưa tới nguội lạnh và suy yếu

 


ĐƯỜNG LÊN NÚI CÁT MINH
QUYỂN 1

CHƯƠNG 10
MÊ THÍCH ĐƯA TỚI NGUỘI LẠNH VÀ SUY YẾU*

Bàn về việc các mê thích khiến linh hồn thành nguội lạnh và bị suy yếu trên đường nhân đức.

1 - Tác hại thứ năm do các mê thích gây cho linh hồn, là chúng khiến linh hồn hóa thành nguội lạnh và bị suy yếu, không đủ sức theo đuổi đường nhân đức và kiên trì trên đường ấy. Sức mạnh của mê thích bị chia chẻ làm nhiều phần, khiến nó bị yếu hơn là khi nó chỉ hoàn toàn gắn bó với một vật nào đó thôi. Mê thích ấy càng bị chia chẻ cho nhiều vật, sức mạnh nó dành cho mỗi vật càng yếu đi. Các triết gia nói rằng dũng lực mà quy về một mối thì mạnh hơn là khi bị chia chẻ. Do đó, rõ ràng là nếu mê thích của lòng muốn tràn đổ vào điều gì khác ngoài nhân đức, thì đối với nhân đức nó sẽ rất yếu ớt. Một linh hồn chia chẻ lòng muốn vào những chuyện không đâu, thì giống như nước đã gặp chỗ chảy xuống rồi thì không thể ngoi lên được và không còn tiện dụng được nữa. Vì vậy tổ phụ Giacóp đã so sánh Ruben con ông với thứ nước tràn ra ngoài, bởi lẽ về một tội nào đó, chàng đã buông cương cho các mê thích của chàng. Ông nói: "Con chảy tràn ra như nước, con sẽ không lớn mạnh"(x. St 49,4). Dường như ông muốn nói: Vì con đã buông mình theo các mê thích như nước chảy xuôi, con sẽ chẳng tiến được trên đường nhân đức.

Nước nóng không đậy vung sẽ dễ mất hết sức nóng. Các loại thuốc thơm không đóng kín sẽ mau mất hương vị và cường độ mùi thơm của chúng. Cũng vậy, linh hồn nào không tập trung vào một mê thích duy nhất là mê thích Thiên Chúa sẽ mất sức nóng và nghị lực trên đường nhân đức. Vua Đavít biết rõ điều ấy nên đã thưa với Chúa: "Con sẽ giữ sức mạnh con cho Chúa" [Nguyên văn lời thánh vịnh: “Lạy Thiên Chúa là sức mạnh con, con ngước mắt nhìn Ngài” (Tv 58/59, 10)], tức là con sẽ tập trung sức mạnh các mê thích của con vào một mình Chúa mà thôi.

2 - Các mê thích còn làm suy yếu dũng lực (và cũng là nhân đức) của linh hồn vì chúng hút mất sinh lực của linh hồn, tựa như những chồi nhỏ quanh thân cây, rút tỉa hết nhựa sống khiến cây không sinh được hoa trái. Ta cũng có thể đem áp dụng lời sau đây của Chúa cho các linh hồn ấy: "Khốn cho những kẻ mang thai hay nuôi con dại trong những ngày ấy" (Mt 24, 19). Như việc mang thai và nuôi nấng làm hao mòn sức lực người mẹ, các mê thích cũng vậy, nếu không bị loại trừ, sẽ ngày càng thu hút sức mạnh của linh hồn. Chúng càng lớn mạnh, linh hồn càng kiệt quệ, tựa như những chồi non làm kiệt quệ thân cây vậy. Về điểm này Chúa đã khuyên ta "Hãy thắt lưng" (Lc 12,35), tức là hãy giết chết các mê thích của ta. Thật vậy, chúng chẳng khác nào những con đỉa hút máu. Như sách Châm ngôn có nói: "Những con đỉa (tức là các mê thích) là những đứa con nói luôn miệng: Cho xin! Cho xin!" [Nguyên văn: “Con đỉa có hai con gái: Cho xin! Cho xin!”] (Cn 30, 15).

3 - Như vậy đã rõ, các mê thích chẳng gây được cho linh hồn sự lành nào, mà trái lại chỉ lấy mất những sự lành chúng gặp trong đó. Bao lâu chưa giết chết chúng, chúng vẫn không ngừng làm điều mà người ta nói về những con rắn lục con, rằng chúng lớn dần trong dạ mẹ, ăn ruột mẹ và giết chết mẹ, để sống ngay bên xác mẹ. Nếu ta không chịu giết chết các mê thích thì rồi chúng cũng sẽ làm như vậy: Cuối cùng, chúng sẽ giết chết sự sống trong Thiên Chúa của linh hồn, chỉ vì linh hồn đã không chịu bóp nghẹt chúng trước. Bởi đó, sách Huấn ca có nói: "Đam mê xác thịt đừng chiếm lòng con, xin đừng phó con cho tình dục thao túng" (Hc 23,6).

4 - Ngay cả khi chúng không đến nỗi quá quắt như vậy, cũng thật hết sức đau lòng cho tình cảnh khốn cùng của một linh hồn bị các mê thích ấy khống chế, khiến không còn chịu đựng nổi chính mình, vô dụng với những người chung quanh, uể oải và lười biếng trước những gì thuộc về Thiên Chúa. Lắm thứ khí huyết bệnh hoạn khiến bệnh nhân bị nặng nề mệt mỏi không bước nổi, lắm thứ cảm giác chán ngấy khiến người ấy chán ăn, nhưng không có thứ nào sánh được với tình trạng các mê thích đối với thụ tạo gây ra cho linh hồn, khiến nó hóa nặng nề và buồn nản trong việc theo đường nhân đức. Như thế, thông thường, nguyên nhân khiến nhiều linh hồn không còn nhiệt tình háo hức trên con đường nhân đức, chính là vì họ còn giữ những mê thích và quyến luyến không hoàn toàn dành cho Thiên Chúa.

Nguyên tác: Subida al Monte Carmelo của Thánh GIOAN THÁNH GIÁ. Bản dịch của NGUYỄN UY NAM và Lm. TRĂNG THẬP TỰ.
(Còn tiếp)

Thứ Ba, 26 tháng 11, 2024

Đường Lên Núi Cát Minh - Quyển 1 - Chương 9: Mê thích gây hoen ố

 


ĐƯỜNG LÊN NÚI CÁT MINH
QUYỂN 1

CHƯƠNG 9
MÊ THÍCH GÂY HOEN Ố*

Bàn về việc các mê thích khiến linh hồn bị nhơ nhớp như thế nào: Minh chứng điều ấy bằng những hình ảnh so sánh và bằng thế giá Thánh Kinh.

1 - Tác hại thứ tư mà các mê thích gây ra là chúng khiến cho linh hồn bị nhơ nhớp, bị hoen ố, đúng như lời trong sách Huấn ca: "Ai chạm phải nhựa thông sẽ lấm" (Hc 13,1). Kẻ chạm vào nhựa thông là kẻ làm vui thỏa ý muốn mê thích nơi một thụ tạo nào đó. Cần lưu ý cách nhà hiền triết so sánh các thụ tạo với nhựa thông. Bởi vì, giữa sự ưu việt của linh hồn so với tất cả những gì tốt nhất nơi các thụ tạo, sự khác biệt còn cách xa hơn sự khác biệt giữa ngọc sáng hay vàng ròng so với nhựa thông. Nếu đem một viên ngọc hay vàng đã nung nóng đặt trên nhựa thông, chúng sẽ hóa đen và bị nhơ nhớp tùy theo độ nóng làm chảy nhựa và dìm chúng xuống. Cũng thế, linh hồn bị mê thích nung nấu, quyến luyến với các thụ tạo nào đó, cũng sẽ bị sức nóng của mê thích hút sự nhơ nhớp vào mình và bị hoen ố.

Giữa linh hồn và các thụ tạo mà ta cảm giác được, sự khác biệt còn lớn hơn cả sự khác biệt giữa một chất lỏng trong sáng và một thứ bùn rất nhơ bẩn. Như chất lỏng này sẽ bị hư hoại nếu đem đổ vào bùn, linh hồn nào gắn bó với thụ tạo cũng bị nhơ bẩn như vậy.

Những vết nhọ nồi làm hỏng khuôn mặt rất xinh đẹp kiều diễm. Cũng thế, linh hồn vốn là hình ảnh rất xinh đẹp kiều diễm về Thiên Chúa, nhưng nếu linh hồn chiều theo các mê thích vô trật tự thì sẽ bị chúng làm cho xấu xa và nhơ nhớp.

2 - Vì thế, khi ngôn sứ Giêrêmia than phiền về sự suy thoái và xấu xí mà những quyến luyến lệch lạc ấy gây ra cho linh hồn, ông đã diễn tả vẻ đẹp của nó trước rồi mới nói đến sự xấu xa của nó: "Những người nazir (những người khấn để tóc) sáng chói hơn tuyết, trắng hơn sữa, cốt cách của họ thắm hơn san hô, nước da họ rực rỡ như bích ngọc. Bây giờ nước da đen đỉu quá mồ hóng, ngoài đường không thể nào nhận ra" (Ac 4,7-8). Ông muốn nói: Mái tóc của họ (tức là của linh hồn ) trắng hơn tuyết, sáng hơn sữa, bóng hơn ngà thời cổ, đẹp hơn lam ngọc. Thế mà nay mặt họ lại đen hơn than, và tại các nơi công cộng, người ta không còn nhận ra họ nữa. Ở đây chúng ta phải hiểu tóc là những tình cảm và tư tưởng của linh hồn, tóc này, nếu được hướng dẫn tới chỗ mà Thiên Chúa đã định cho chúng - tức là hướng đến chính mình Ngài, thì tóc này sẽ trắng hơn tuyết, sáng hơn sữa, bóng hơn ngà và đẹp hơn bích ngọc. Bốn vật này ám chỉ đến đủ mọi thứ đẹp đẽ và tuyệt hảo của các thụ tạo mang thể chất. Bên trên những vẻ đẹp ấy là linh hồn và các hoạt động của nó, tức là những nazir hay những tóc trắng nói trên. Nếu linh hồn và những hoạt động của nó bị hỗn loạn và bị hướng tới chỗ Thiên Chúa không định cho nó, tức là nếu chúng bị đem phục vụ các thụ tạo, thì ngôn sứ Giêrêmia nói rằng mặt chúng trở nên đen và cứ tiếp tục đen hơn than.

3 - Chính sự mê thích các vật đời này cách vô trật tự đã gây nên mọi tệ hại ấy và cả những tệ hại lớn hơn nữa, tàn phá mất vẻ kiều diễm của linh hồn. Đến nỗi nếu phải trình bày rõ về những xấu xa và nhơ bẩn các mê thích ấy có thể gây ra cho linh hồn, chắc rằng chúng ta sẽ chẳng thấy có gì ở đời này so sánh được, cho dù là sánh với cảnh đầy mạng nhện và rắn rết, với sự hôi thối ghê tởm của của xác chết, hoặc với bất cứ điều nhơ nhớp bẩn thỉu nào khác người ta có thể thấy hay tưởng tượng ra, cũng chẳng thấm vào đâu. Cho dù trong thực tế, xét về mặt hữu thể tự nhiên, một linh hồn lệch lạc vẫn tiếp tục là một hữu thể tốt đẹp vì đã được Thiên Chúa tạo dựng; thì xét về mặt luân lý, nó đã thành xấu xa, ghê tởm, nhơ nhớp và tăm tối, với tất cả những tác hại chúng tôi sắp quảng diễn đây và còn tệ hơn thế nhiều. Chúng kinh khủng đến nỗi chỉ một mê thích vô trật tự thôi (như chúng tôi sẽ nói sau) dù chẳng phải là chuyện đáng tội trọng, cũng đủ khiến linh hồn bị lệ thuộc, nhơ nhớp và xấu xa đến nỗi không thể nào hòa hợp với Thiên Chúa trong ơn nên một, khi mê thích ấy chưa được thanh tẩy. Thử hỏi linh hồn sẽ mang hình dáng quái dị đến mức nào một khi nó hoàn toàn mất trật tự trong các đam mê và bị bỏ mặc cho các mê thích của nó? Nó sẽ xa lìa Thiên Chúa và sự thánh thiện của Ngài đến mức nào?

4 - Không thể nào lấy lời mà diễn tả hoặc lấy trí khôn mà quan niệm được đủ các thứ nhơ bẩn mà các mê thích đủ loại gây ra trong linh hồn. Nếu ta có thể nói lên được hoặc giúp người khác hiểu được điều đó, hẳn họ sẽ kinh ngạc và rất đau lòng khi thấy mỗi mê thích, bất kể lớn nhỏ, tùy chất lượng của nó, đều để lại cho linh hồn một vết thẹo và một tình trạng nhơ bẩn xấu xa như thế nào; và càng đau lòng hơn nữa khi thấy rằng chỉ riêng nơi một sự vô trật tự nào đó của lý trí thôi, đã có thể có vô số điều nhơ bẩn lớn nhỏ khác nhau, mỗi điều đều tàn phá theo một cách riêng của nó. Nếu linh hồn người công chính chỉ cần một sự toàn thiện là sự chính trực của linh hồn thôi, đã có vô vàn những thiên ân rất phong phú và nhiều nhân đức diễm lệ, mỗi nhân đức đều độc đáo và duyên dáng tùy theo số lượng và vẻ độc đáo của các tâm tình yêu mến mà người đó đã bày tỏ với Thiên Chúa, - thì cũng vậy, một linh hồn lệch lạc sẽ tùy theo những mê thích khác nhau của nó đối với các thụ tạo, mà chuốc lấy bao điều khốn nạn khác nhau, đủ thứ nhơ bẩn hèn hạ, tùy theo những mê thích ấy vẽ nên trong nó.

5 - Những mê thích khác nhau ấy được gợi hình khéo léo trong sách ngôn sứ Êzêkiel (x. Êd 8,10-16). Sách ấy thuật lại rằng Thiên Chúa tỏ cho vị ngôn sứ thấy chung quanh các bức tường phía trong đền thờ, những hình hài vẽ đủ các giống vật bò sát trên đất và tất cả sự ghê tởm của các thú vật nhơ nhớp. Rồi Thiên Chúa phán cùng Êzêkiel: "Hỡi con người, ngươi đã thấy chưa, ngươi có thấy những điều ghê tởm mà những người này làm trong tối tăm, mỗi người nơi am thờ kín ẩn nhất của nó hay chăng?" Rồi Thiên Chúa đã truyền cho ông tiến vào sâu hơn, để thấy nhiều điều ghê tởm kinh khủng hơn nữa. Ông cho biết ông đã thấy tại đó nhiều người đàn bà đang ngồi than khóc Adonis, thần tình yêu của họ. Thiên Chúa còn truyền cho ông vào sâu hơn nữa để thấy nhiều tội ác còn ghê gớm hơn, và ông cho biết ông nhận thấy ở đó có “hai mươi lăm người đang quay lưng về phía đền thờ”.

6 - Những giống bò sát và thú vật nhơ bẩn đủ loại vẽ trong khu thứ nhất của đền thờ là những tư tưởng và những quan niệm của trí hiểu về các vật hèn hạ dưới đất này và về hết mọi loài thụ tạo. Có thể nói chúng được vẽ nên trong đền thờ linh hồn mỗi khi linh hồn để cho chúng làm mờ trí hiểu, là căn phòng thứ nhất của linh hồn. Vào sâu hơn, trong căn phòng thứ hai, có những phụ nữ đang khóc than thần Adonis, ấy là những mê thích ngụ tại quan năng thứ hai của linh hồn, là lòng muốn. Những mê thích ấy như thể đang khóc than, bởi chúng đang ao ước điều mà lòng muốn quyến luyến. Chúng là những loài bò sát đã được vẽ vời trong trí hiểu. Và những người nam ở trong căn phòng thứ ba là những hình ảnh và biểu tượng về các thụ tạo mà dạ nhớ, là phần thứ ba của linh hồn, cứ duy trì và cứ nghiền đi ngẫm lại trong mình. Nói rằng những người này quay lưng lại đền thờ, là vì khi nào linh hồn quyến luyến một vật nào dưới đất này và ôm ấp nó cách trọn vẹn hoàn toàn theo cả ba quan năng, thì có thể nói nó đã quay lưng lại đền thờ Thiên Chúa là lương tri [Nguyên văn: lý trí ngay chính của linh hồn], vốn không chấp nhận một thụ tạo nào chống lại Thiên Chúa.

7 - Thiết tưởng những điều nói trên đủ để hiểu đôi chút về sự lộn xộn dơ bẩn do các mê thích gây ra cho linh hồn. Còn nếu cứ phải bàn riêng đến cả sự xấu xa ít hệ trọng hơn mà những bất toàn và các biến thái của nó gây ra trong linh hồn, và rồi về sự xấu xa mà các tội nhẹ và bao nhiêu biến thái của chúng gây ra (sự xấu xa này còn trầm trọng hơn sự xấu xa của những điều bất toàn kia nữa), cũng như về sự xấu xa mà những mê thích của tội trọng và bao nhiêu biến thái của chúng gây ra (đây quả là sự xấu xa toàn diện của linh hồn). Nếu cứ phải nói hết mọi sự với bao nhiêu khía cạnh khác biệt nhau của chúng thì chẳng bao giờ xong, cả đến trí hiểu của thiên thần chắc cũng không đủ để có thể am tường hết. Điều tôi nói và điều nằm trong đề tài của chúng ta, chính là: mọi mê thích, dù chỉ nghiêng về một bất toàn hết sức nhỏ, cũng vẫn làm cho linh hồn thành nhơ nhớp và hoen ố.

Nguyên tác: Subida al Monte Carmelo của Thánh GIOAN THÁNH GIÁ. Bản dịch của NGUYỄN UY NAM và Lm. TRĂNG THẬP TỰ.
(Còn tiếp)

Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2024

Đường Lên Núi Cát Minh - Quyển 1 - Chương 8: Mê thích khiến linh hồn nên tối tăm và mù quáng

 


ĐƯỜNG LÊN NÚI CÁT MINH
QUYỂN 1

CHƯƠNG 8
MÊ THÍCH KHIẾN LINH HỒN NÊN TỐI TĂM VÀ MÙ QUÁNG*

1 - Tác hại thứ ba mà các mê thích gây ra cho linh hồn là chúng khiến linh hồn thành mù quáng tối tăm. Kìa xem, hơi nước khiến không khí thành tối tăm và ngăn cản không cho mặt trời soi sáng, tấm gương mờ không sao nhận rõ hình ảnh được, nước đục không thể phản chiếu rõ ràng khuôn mặt con người soi mình trong đó. Cũng vậy, linh hồn nào để mình bị các mê thích cầm giữ, thì về phương diện trí hiểu, nó cũng bị mù tối, không còn chỗ cho mặt trời của lý trí tự nhiên cũng như mặt trời siêu nhiên của Đức Khôn Ngoan Thiên Chúa chạm đến và soi sáng. Cho nên tác giả thánh vịnh có nói: "Tội ác con đổ xuống trên mình, làm tối tăm mặt mũi" (Tv 39/40,13).

2 - Chính vì thế, trí hiểu trở thành u mê, lòng muốn bị tê liệt, dạ nhớ trở nên lú lẫn, tóm lại các hoạt động cần thiết của linh hồn đều bị hỗn loạn. Bởi lẽ, về phương diện hoạt động, các quan năng này lệ thuộc vào trí hiểu, nên rõ ràng một khi trí hiểu bị cản trở, chúng cũng thành hỗn loạn mất trật tự. Cho nên vua Đavít mới nói: "Hồn vía con rụng rời kinh khiếp" (Tv 6,4). Tác giả muốn nói các quan năng của linh hồn ông đã bị xáo trộn. Thật vậy, như đã nói, trí hiểu không có khả năng thâu nhận vẻ chói sáng của Đức Khôn Ngoan Thiên Chúa, như thể khí trời đầy mây không có khả năng thâu nhận ánh sáng mặt trời. Lòng muốn không còn bén nhạy để yêu mến Thiên Chúa bằng một tình yêu tinh ròng, cũng như tấm gương bị hơi thở làm mờ đục không còn phản ảnh được rõ ràng nét mặt người soi. Dạ nhớ cũng vậy, bị mờ mịt những bóng tối của mê thích, nó không còn phản ảnh được hình ảnh Thiên Chúa cách trong sáng, như thể nước đầy bùn không sao cho thấy rõ được khuôn mặt đang soi mình trong đó.

3 - Mê thích khiến linh hồn thành tối tăm và mù quáng, bởi vì đã là mê thích thì bao giờ cũng mù quáng, tự nó chẳng có chút hiểu biết nào về mình, nên lý trí phải luôn dẫn dắt nó như dẫn người mù. Do đó mỗi lần linh hồn để cho mê thích hướng dẫn, là mỗi lần nó bị mù tối. Vì, nếu một người sáng mắt lại nhờ một người mù đặc dẫn đường thì chẳng khác nào hai người đều mù. Đúng như lời Chúa phán trong Tin mừng Mátthêô: "Mù mà dẫn đàng cho mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố" (Mt 15,14). Đôi mắt chẳng ích lợi cho con thiêu thân bao nhiêu, vì sự mê thích vẻ đẹp của ánh sáng khiến mắt nó bị lóa và sa vào lửa. Cũng thế, có thể nói rằng kẻ nào nuôi mình bằng sự thỏa mãn mê thích cũng giống như con cá bị lóa mắt, đối với nó, phải nói rằng ánh sáng đã vô tình đóng vai trò bóng tối, khiến nó không nhận ra thứ mồi thợ câu đang nhử nó. Vua Đavít cho chúng ta hiểu rõ điểm này, khi ông nói về những người như thế: "Lửa đã giáng xuống trên chúng và chúng không thấy được ánh sáng [Đúng ra, nguyên văn Thánh vịnh 57/58, 9-10 là: “Như thể trẻ sinh non không thấy mặt trời, ước gì lửa giận của Chúa cuốn chúng đi”], thứ lửa nung nóng bằng nhiệt năng và làm lóa mắt bằng ánh sáng. Đó cũng là điều sự mê thích tạo nên trong linh hồn, nó nung nấu dục vọng và làm lóa mắt trí khôn, đến nỗi trí khôn không thể thấy được ánh sáng của mình nữa. Nguyên nhân của tình trạng lóa mắt là thế này: Khi người ta đặt trước đôi mắt một ánh sáng lạ, năng lực thị giác liền bị thu hút hết vào cái ánh sáng ngay trước mắt này và không còn thấy được thứ ánh sáng nào khác. Sự mê thích cũng vậy, nó vồ vập lấy linh hồn gần tới độ như thể nằm ngay trong linh hồn, khiến linh hồn lảo đảo trong thứ ánh sáng ấy và thỏa thích trong nó, và không còn được hưởng thứ ánh sáng đầy thông minh sáng suốt của mình. Người ta sẽ chẳng được nhìn thấy thứ ánh sáng thông minh ấy bao lâu chưa khai trừ sự lóa mắt do mê thích gây ra.

4 - Vì thế, chúng ta có lý để than phiền sự dốt nát của một số người đang tự chuốc lấy nhiều việc đền tội khác thường và nhiều lối thao luyện theo ý riêng. Họ cứ tưởng rằng chỉ cần làm mấy việc ấy là đủ để được nên một với Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Thế nhưng, làm sao có thể nên một được như vậy nếu họ không chuyên chăm loại trừ các mê thích của họ. Nếu các linh hồn ấy chuyên chăm như thế thì chỉ cần chịu khó nhọc bằng phân nửa trong một tháng cũng được lợi nhiều hơn là tập luyện đủ thứ trong nhiều năm. Bởi vì, như thể cần phải lao động vất vả thì đất đai mới phì nhiêu, nếu không thì chỉ sinh cỏ dại, cũng vậy, phải giết chết các mê thích đi để linh hồn được tiến bộ. Nếu không, tôi dám nói rằng linh hồn ấy sẽ không đạt được hoàn thiện và cũng không lớn lên được trong sự nhận biết Thiên Chúa và nhận biết chính mình. Tất cả những gì nó làm cũng chẳng sinh ích lợi gì hơn khi người ta gieo hạt giống trên mảnh đất không được cày bừa. Do đó, bao lâu chưa dập tắt các mê thích thì vẫn chưa tẩy trừ được tăm tối và ngu muội khỏi linh hồn. Những mê thích ấy như thác lũ, mà cũng có thể ví được như những hạt bụi nơi con mắt, chưa gạt chúng đi thì chúng còn ngăn cản không cho mắt thấy.

5 - Vua Đavít đau lòng khi thấy sự mù quáng của những người như vậy, một đàng họ bị các mê thích ngăn cản không cho nhận ra vẻ sáng của chân lý, một đàng họ bị Thiên Chúa phẫn nộ, nên ông đã cảnh giác họ phải cẩn thận: "Như ốc sên vừa bò vừa rữa... ước gì lửa giận của Chúa cuốn chúng đi nhanh hơn lửa gai bén tới nồi" (Tv 57/58,10). Nghĩa là trước khi những mê thích của chúng kịp lớn mạnh như bụi gai rậm, Thiên Chúa đã diệt trừ chúng như sâu bọ. Bởi vì, đối với những mê thích sống trong linh hồn, để chúng có thể nghe được tiếng Ngài, Thiên Chúa sẽ dùng hình phạt và sự nghiêm trị ở đời nay hay đời sau, mà khiến chúng tan biến đi. Tức là Ngài thanh tẩy chúng. Lại còn nói rằng: "Ngài sẽ làm chúng tan biến trong cơn giận" là bởi vì khi giết chết các mê thích, người ta phải hứng chịu nỗi khổ do sự tàn phá chúng gây ra trong linh hồn.

6 - Ôi phải chi người ta biết được giá trị của thứ ánh sáng thần linh họ bị tước đoạt do sự mù tối mà các nghiêng chiều và các mê thích gây ra cho họ, và phải chi người ta biết được rằng nếu ai không chịu hy sinh những nghiêng chiều và mê thích ấy sẽ gặp tai ương và thiệt hại mỗi ngày đến mức nào! Họ không nên tự phụ mình hiểu biết sâu sắc và được nhiều ơn Chúa, để nghĩ lầm rằng dù mình có nghiêng chiều và mê thích đi nữa, những thứ này cũng không làm tối tăm mù quáng, cũng không khiến mình dần dần bị rơi vào chỗ càng lúc càng tồi tệ. Thật vậy, ai có thể ngờ rằng một người già giặn trong khôn ngoan và đầy dẫy ơn huệ Thiên Chúa như vua Salômôn mà còn rơi vào chỗ mù quáng, lòng muốn bị bạc nhược đến nỗi đã lập nhiều bàn thờ dâng kính các ngẫu tượng và thờ lạy chúng ngay trong tuổi già của ông? Ông ra nông nỗi ấy chỉ vì nghiêng chiều quyến luyến các bà vợ và không chịu chăm lo gạt bỏ các mê thích và những hoan lạc của tim ông (x. 1V 11,4). Chính ông đã nói về mình trong sách Giảng viên rằng: "Tôi đã không để lòng mất một thú vui nào" (x. Gv 2,10). Việc buông theo các mê thích này mãnh liệt đến nỗi, dù lúc đầu ông thực sự khôn ngoan đấy nhưng về sau, vì ông không chịu gạt bỏ chúng, dần dần ông đã bị chúng làm cho mù quáng, tâm trí ra mê muội, và cuối cùng chúng đã dập tắt hẳn nguồn ánh sáng khôn ngoan lớn lao Thiên Chúa đã ban cho ông, thành thử tới tuổi già, ông đã lìa bỏ Thiên Chúa.

7 - Vậy, một người hết sức am tường về khoảng cách muôn trùng giữa điều thiện và điều ác mà các mê thích còn hoành hành mãnh liệt đến thế, thì thử hỏi, đối với sự dốt nát của chúng ta, nếu chúng ta không chịu kiềm chế các mê thích ấy thì còn gì mà chúng chẳng làm nổi? Quả thật, như lời Thiên Chúa nói với ngôn sứ Giôna khi phán về dân thành Ninivê, chúng ta đúng là những kẻ chưa phân biệt tay phải với tay trái (x. Gn 4,11). Từng bước trong cuộc sống ta còn tưởng ác là thiện và tưởng thiện là ác, chỉ vì chúng ta ngu muội. Mà nếu các sự mê thích lại vào hùa với những tăm tối tự nhiên của ta, thì điều gì sẽ xảy ra, nếu chẳng phải là như Isaia đã than phiền, khi ông nói về những người ưa chiều theo các mê thích của họ: "Tựa như người mù men theo tường, chúng ta mò mẫm, mò mẫm như người không có mắt. Chúng ta lảo đảo cả trưa lẫn chiều, đang sung sức mà như người đã chết" (Is 59,10). Bởi vì người nào đã để cho các mê thích biến mình thành mù quáng thì ngay giữa chân lý và điều xứng hợp, họ vẫn chẳng thấy được gì hơn khi họ ở trong tăm tối.

Nguyên tác: Subida al Monte Carmelo của Thánh GIOAN THÁNH GIÁ. Bản dịch của NGUYỄN UY NAM và Lm. TRĂNG THẬP TỰ.
(Còn tiếp)

Thứ Năm, 21 tháng 11, 2024

Đường Lên Núi Cát Minh - Quyển 1 - Chương 7: Mê thích sinh khổ não


ĐƯỜNG LÊN NÚI CÁT MINH
QUYỂN 1

CHƯƠNG 7
MÊ THÍCH SINH KHỔ NÃO*

Bàn về cách các mê thích hành hạ linh hồn, đồng thời minh chứng điều ấy bằng những hình ảnh so sánh và bằng thế giá Thánh Kinh.

1 - Dạng tác hại gây rối thứ hai mà các mê thích gây ra cho linh hồn, là chúng hành hạ và khiến cho linh hồn sầu muộn. Chúng khiến linh hồn nên như người khốn khổ vì bị dây trói chặt vào một vật nào đó và chẳng được nghỉ ngơi cho tới khi nào được giải thoát khỏi cực hình ấy. Vua Đavít nói về những người này rằng: "Con bị lưới ác nhân vây bủa" (Tv 118/119,61). Cũng có thể dịch là: Con bị siết chặt bởi các dây tội lỗi, tức là các mê thích của con. Một người nằm mình trần trên những gai góc và mũi nhọn, bị đau đớn khổ sở thế nào thì linh hồn cũng phải đau đớn khổ sở khi ngả mình trên các mê thích như thế. Cũng như gai nhọn, những mê thích ấy gây thương tích phiền muộn, dính đeo vào và gây khổ sở. Vua Đavít nói rằng: "Chúng bao vây tôi như thể bầy ong, chúng cháy bừng như lửa bụi gai" (Tv 117/118,12). Bởi vì các mê thích chẳng khác nào bụi gai, trong đó lửa của âu lo và khốn khổ cứ tăng thêm mạnh.

Như người nhà nông buộc con bò vào chiếc cày rồi đánh đập và kích thích nó, chỉ vì nhắm đến mùa gặt; dục vọng cũng vậy, nó dùng các mê thích gây sầu muộn cho linh hồn cốt để đoạt được điều nó mong muốn. Ta có một ví dụ rất sống động nơi việc nàng Đalila thiết tha muốn biết sức mạnh của Samson do đâu, sự mê thích ấy khiến nàng mệt mỏi và hành hạ nàng tới nỗi linh hồn nàng bị yếu nhược có thể chết được [Câu này cảm hứng từ lời Thánh Kinh nói về Samson: Bởi vì nàng thúc bách ông quá, tất cả mọi ngày và nhằng nhẵng đòi ông, thì ông đã nóng lòng sốt ruột muốn chết được (Tp 16,10)].

2 - Mê thích càng lớn bao nhiêu, sự hành hạ nó gây cho linh hồn càng lớn bấy nhiêu. Cho nên càng mê thích càng bị hành hạ khổ cực. Linh hồn càng để cho mê thích xâm chiếm càng bị giày vò khốn khổ. Và như thế, ngay ở đời này, linh hồn đã hứng lấy trọn vẹn lời sách Khải huyền về thành Babylon: "Nó đã vinh sang hào nhoáng bao nhiêu, hãy giáng cực hình và tang tóc cho nó bấy nhiêu" (Kh 18,7). Một người rơi vào tay kẻ thù bị hành hạ khốn khổ thế nào, thì một linh hồn để cho mình bị các mê thích cuốn hút cũng bị hành hạ khổ sở thế ấy. Về điểm này, ta có một hình ảnh rất rõ trong sách Thủ Lãnh: Ông Samson là một người hùng, lúc đầu đầy sức mạnh và tự do, đã làm thẩm phán dân Israel, nhưng về sau ông rơi vào quyền lực đối phương, chúng cướp mất sức mạnh ông, móc mắt ông, và trói ông lại, bắt ông đẩy cối đá, hành hạ và làm khổ ông nhiều (x. Tl 16,21). Đó cũng là số phận của những linh hồn để cho kẻ thù là các mê thích tiếp tục sống và thắng thế trong mình. Trước hết chúng khiến linh hồn trở nên yếu nhược và mù quáng, như sẽ nói sau đây, rồi ngay đó chúng làm khổ và hành hạ linh hồn, bằng cách cột linh hồn vào cối đá dục vọng, và những sợi dây cột linh hồn chính là các mê thích.

3 - Cảm thương những người chỉ vì mong làm thỏa sự mê thích các thụ tạo mà phải khó nhọc và tốn kém đến thế, nên trong sách Isaia, Thiên Chúa nói với họ, đại ý: "Tất cả các ngươi là những kẻ mê thích, hãy đến với nguồn nước, và tất cả các ngươi là những kẻ không có tiền bạc của ý riêng và của các mê thích, hãy mau đến, hãy mua của ta mà ăn. Hãy đến, hãy mua rượu và sữa của Ta (là sự bình an và dịu ngọt tâm linh), không cần tiền bạc của ý riêng và không cần phải đổi bằng một sự khó nhọc các ngươi đã phải cống hiến cho các mê thích của các ngươi! Tại sao các ngươi mất tiền bạc (của ý riêng) vì cái chẳng phải là bánh (tức là không phải Thánh Thần Thiên Chúa) và lao nhọc (do các mê thích gây ra) vì cái không thể làm cho các ngươi no thỏa? Hãy đến với Ta và hãy lắng nghe Ta, hãy ăn những điều tốt các ngươi ao ước, hồn các ngươi sẽ béo tốt và hoan lạc" (x. Is 55,1-2) [Nguyên văn: “Hỡi những ai khát, hết thảy hãy đến, có nước đây, cả những ai không có tiền, cũng hãy đến, hãy mua mà ăn! Hãy đến mà mua, không tiền không bạc, mà có rượu có sữa! Tại sao phí tiền vào cái thứ không phải bánh ăn, phí của vào đồ không làm no bụng? Hãy nghe Ta và các ngươi sẽ có thức lành mà ăn, và cao lương mà hưởng tùy theo sở thích” (Is 55,1 -2)].

4 - Đi đến chỗ béo tốt như thế tức là đã lìa khỏi mọi sự nếm hưởng thụ tạo, vì thụ tạo hành hạ khổ sở, còn Thánh Thần Thiên Chúa làm vui sướng. Vì vậy, Chúa kêu gọi chúng ta trong Tin mừng Mátthêô như sau: "Hãy đến với Ta, hết thảy những kẻ lao đao và gánh nặng (về những nỗi lo lắng và mê thích của các ngươi, hãy ra khỏi đó), và Ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức" (Mt 11,28). Đây là thứ an nghỉ mà các mê thích đã cướp đoạt mất như vua Đavít có nói: "Tội chồng chất ngập đầu ngập cổ như gáng nặng vượt quá sức con" (Tv 37/38,5).

Nguyên tác: Subida al Monte Carmelo của Thánh GIOAN THÁNH GIÁ. Bản dịch của NGUYỄN UY NAM và Lm. TRĂNG THẬP TỰ.
(Còn tiếp)

Thứ Tư, 20 tháng 11, 2024

Đường Lên Núi Cát Minh - Quyển 1 - Chương 6: Hậu quả tệ hại của mê thích

 


ĐƯỜNG LÊN NÚI CÁT MINH
QUYỂN 1

CHƯƠNG 6
HẬU QUẢ TỆ HẠI CỦA MÊ THÍCH*

Chương này bàn về những tác hại chính do các mê thích gây cho linh hồn, vừa ngăn cản vừa gây rối.

1 - Để hiểu rõ hơn và phong phú hơn về vấn đề đã nêu, thiết tưởng ở đây cần nêu lên và giải thích làm sao các mê thích tác hại trên linh hồn về hai phương diện chính: Hậu quả thứ nhất là chúng ngăn cản sự hiện diện của Thần khí Thiên Chúa; hậu quả thứ hai là, chúng ở trong linh hồn nào thì gây mệt mỏi, hành hạ, làm tăm tối, ô nhiễm và suy yếu linh hồn ấy, như lời của ngôn sứ Giêrêmia: "Dân Ta đã làm hai điều bất hảo: Chúng đã bỏ Ta là mạch nước hằng sống, để tự đào lấy bể nước cho mình, nhưng các bể bị rò, không chứa được nước" (Gr 2,13). Bất cứ một hành vi nào bị xáo trộn vì mê thích cũng gây nên cả hai tác hại ấy, tức là ngăn cản và gây rối.
Trước hết xin nói về tác hại ngăn cản. Rõ ràng là, linh hồn nào nghiêng chiều về một vật thì do sự nghiêng chiều ấy nó đã rơi xuống thua kém cả hàng thụ tạo. Mỗi mê thích ấy càng ăn rễ sâu vào linh hồn càng khiến linh hồn mất khả năng tiếp nhận Thiên Chúa. Bởi lẽ, theo cách nói của các triết gia và chúng ta cũng đã bàn đến ở chương 4, hai điều mâu thuẫn nhau không thể nào cùng ở chung trong một chủ thể. Nghiêng chiều về Thiên Chúa và nghiêng chiều về thụ tạo là hai sự nghiêng chiều mâu thuẫn nhau, làm sao hai sự nghiêng chiều ấy có thể ở chung nơi cùng một lòng muốn? Bởi lẽ, nào có điều gì tương xứng giữa thụ tạo và Đấng Tạo Hóa? giữa điều thuộc giác quan và điều thuộc tâm linh? giữa cái hữu hình và cái vô hình? giữa cái nhất thời và cái vĩnh cửu? giữa lương thực bởi trời thuần túy thuộc về tâm linh với thứ lương thực thuộc giác quan hoàn toàn theo nhục cảm? giữa sự trần trụi của Đức Kitô và sự dính bén với một thụ tạo?

2 - Trong lãnh vực tạo hình tự nhiên, người ta không thể nào đưa một hình thù vào một vật thể nếu không xua đuổi khỏi vật thể ấy cái hình thù trái ngược vốn có trước. Bao lâu hình thù này còn thì nó sẽ là một cản trở cho hình thù kia. Hai hình thù ấy loại trừ nhau, không thể đội trời chung với nhau được. Cũng vậy, bao lâu linh hồn còn lệ thuộc sinh khí khả giác của nhục cảm thì Thần khí thuần túy tâm linh không thể nào vào trong nó được. Vì thế Chúa có nói: "Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó" (Mt 15,26). Ở một đoạn khác, Ngài nói: "Đừng quăng của thánh cho chó" (Mt 7,6). Bằng những lời ấy, Chúa gọi là con Thiên Chúa những người từ bỏ hết những mê thích đối với thụ tạo và sắp sẵn để lãnh nhận Thánh Thần của Thiên Chúa cách thật tinh tuyền; còn những kẻ nào muốn được thỏa thuê các mê thích nơi các thụ tạo, Ngài so sánh họ với những con chó. Bởi vì, con cái thì được ăn cùng bàn và cùng món với Cha, tức là được nuôi dưỡng bằng Thần khí của Ngài, còn chó má thì chỉ được ăn những mẩu bánh từ bàn rơi xuống mà thôi.

3 - Do đó phải biết rằng mọi thụ tạo đều chỉ là những vụn bánh từ bàn của Thiên Chúa rơi xuống. Cho nên kẻ tìm no thỏa nơi các thụ tạo, có bị gọi là chó cũng đích đáng. Cũng bởi lý do đó, người ta lấy mất của nó phần bánh của con cái, vì nó không chịu nhắc mình lên khỏi những vụn bánh là các thụ tạo, để ngồi vào bàn tiệc Thần Khí tự hữu của Cha nó. Cũng vì thế, những loại người ấy thật như những con chó lúc nào cũng đói vì các vụn bánh chỉ tổ khiêu khích mê thích thay vì thỏa mãn cơn đói. Vua Đavít khi nói về những người ấy, có viết: "Chúng tru lên như chó và chạy rong khắp thành, chúng lang thang tìm kiếm của ăn, chúng gầm gừ khi không no bụng" (Tv 58/59,15-16).

Đó là đặc điểm của kẻ chạy theo các mê thích, lúc nào cũng bất mãn và chán chường, như kẻ phải chịu đói khát vậy. Liệu có thể tương hợp chút nào giữa cơn đói do các thụ tạo gây ra với sự no thỏa do Thần Khí Thiên Chúa đem lại không? Do đó, bao lâu người ta chưa tống khứ cơn đói thụ tạo ra khỏi linh hồn thì linh hồn không thể tiếp nhận được sự no thỏa Đấng Tạo Hóa. Bởi lẽ, như đã nói, cơn đói và sự no thỏa đã là hai điều mâu thuẫn nhau thì không thể ở chung trong cùng một chủ thể.

4 - Những điều ấy cho thấy khi gột sạch và thanh tẩy linh hồn khỏi những yếu tố mâu thuẫn ấy, Thiên Chúa còn phải hành động quyết liệt hơn khi tạo thành nó từ hư vô. Vì những cái mâu thuẫn nơi các tình cảm và mê thích trái ngược ấy còn đối nghịch và kháng cự lại Thiên Chúa hơn cả hư vô, vì hư vô đâu có kháng cự. Nói như thế là tạm đủ về tác hại chính yếu đầu tiên mà các mê thích gây ra cho linh hồn, tức là sự chống lại Thần Khí Thiên Chúa, như chúng tôi đã nói nhiều ở trên.

5 - Bây giờ chúng ta hãy nói tới hậu quả thứ hai các mê thích gây cho linh hồn. Hậu quả này có nhiều loại, vì các mê thích làm cho linh hồn mệt mỏi, hành hạ nó, khiến nó hóa tăm tối, bị hoen ố và yếu nhược. Sau đây chúng ta sẽ bàn từng điểm trong 5 điểm ấy.

6 - Trước hết, rõ ràng các mê thích làm cho linh hồn rã rời mệt mỏi. Chúng như những đứa bé bất an và rất khó vừa lòng, luôn đòi mẹ cái này cái nọ, và chẳng bao giờ chịu vừa lòng cả. Tựa như kẻ khao khát tìm kho tàng phải đào đất hết sức rã rời mệt mỏi, linh hồn cũng chán chường mệt mỏi vì theo đuổi những điều các mê thích của nó đòi hỏi. Kết cuộc, nó đã đào nên những giếng nứt nẻ không sao chứa được nước để thỏa mãn cơn khát của nó. Đó là điều ngôn sứ Isaia đã nói: "Như khi ai đói nằm mơ thấy mình ăn, nhưng bừng tỉnh dậy, bụng vẫn trống không; hay như ai khát nằm mơ thấy mình uống, nhưng bừng tỉnh dậy thấy mình vẫn kiệt quệ, bụng khô" (Is 29,8). Linh hồn mang đầy mê thích cũng phải mệt mỏi rã rời, y như môt người lên cơn sốt, chưa hết sốt là vẫn còn khó chịu, và cơn khát càng lúc càng tăng thêm. Vì như lời trong sách Gióp: "Nó sẽ gặp túng thiếu ngay trong dư dật, bàn tay của mọi kẻ khốn cùng sẽ chụp lên nó" (G 20,22). Linh hồn mệt mỏi và sầu não vì những mê thích của mình. Nó bị thương, bị chấn động và bị rối loạn vì chúng, như nước bị gió đánh mạnh. Chúng làm cho linh hồn xao động không được nghỉ yên, ở nơi đâu cũng vậy và việc gì cũng vậy. Ngôn sứ Isaia nói về các linh hồn này như sau: "Còn ác nhân, chúng như biển động, không thể lặng yên" (Is 57, 20). Ác nhân nói đây là những kẻ không chế ngự nổi những mê thích của mình. Linh hồn nào muốn làm thỏa mãn các mê thích sẽ rã rời mệt mỏi. Nó tựa như một người đói mở miệng để tớp cho đầy gió: Thay vì được no thỏa, lại càng khát hơn, vì gió đâu phải là thức ăn của người ấy. Như lời của Ngôn sứ Giêrêmia nói: "Nó xông vào sa mạc, lòng những tấp tểnh, nó rít hơi" (Gr 2,24) tức là do lòng muốn nó mê thích, nó vơ vào những thứ gió hợp với sự nghiêng chiều của nó. Tiếp đó, để giúp linh hồn ấy hiểu sự khô khan của nó, ngài khuyên: "Hãy ngừng chân lại kẻo mà long móng, kẻo họng ngươi chết khát" (Gr 2,25). Chân ấy tức là tư tưởng, phải giữ cho đừng trần trụi; họng ấy tức là cái ý muốn lấp đầy nỗi mê thích, phải giữ cho đừng khát, nếu không thì sẽ càng lúc càng khát khô hơn. Và như kẻ si tình phải rã rời mệt mỏi biết bao khi, đến ngày hẹn đã từng khao khát mong chờ, nó lại bị hụt hẫng! Cũng thế, linh hồn phải mệt mỏi rã rời với tất cả những mê thích nó muốn lấp đầy, vì tất cả chỉ gây cho nó một sự trống rỗng ghê gớm hơn và một cơn đói dữ dội hơn nữa. Vì, như người ta vẫn thường nói, nỗi mê thích giống như lửa, càng chất củi vào càng cháy mạnh, cháy hết củi thì thế nào cũng phải tắt.

7 - Về điểm này, tình trạng của sự mê thích còn bi đát hơn, bởi vì, lửa cháy hết củi sẽ tắt dần, còn sự mê thích một khi đã được gia tăng nhờ được no thỏa, có thiếu chất đốt nó cũng không tàn dần: Thay vì tàn dần như lửa thiếu chất đốt, nó rơi vào chán chường mệt mỏi, vì cơn đói cứ tăng mà đồ ăn lại thiếu. Ngôn sứ Isaia có bàn về điểm này rằng: "Người ta xẻo bên phải nhưng vẫn đói, người ta ngoặm bên trái nhưng cũng chẳng no" (Is 9,20). Thật vậy, những ai không chịu giết chết các mê thích của mình, thì nghiêng về bên phải tức là con đường của Thiên Chúa mà vẫn đói là đúng, vì họ chẳng đáng được no thỏa nhờ Thần Khí êm dịu. và khi họ nghiêng về phía bên trái, tức là khi đã để cho mê thích được thỏa mãn nơi một thụ tạo nào đó, họ vẫn không được no thỏa cách đích đáng, vì lúc ấy họ vừa bỏ mất điều duy nhất có thể làm thỏa lòng, vừa ngấu nghiến cái thứ làm họ đói thêm hơn. Do đó, rõ ràng các mê thích khiến linh hồn rã rời mệt mỏi.

Nguyên tác: Subida al Monte Carmelo của Thánh GIOAN THÁNH GIÁ. Bản dịch của NGUYỄN UY NAM và Lm. TRĂNG THẬP TỰ.
(Còn tiếp)

Thứ Hai, 18 tháng 11, 2024

Lời nguyện của Chị Thánh Tiên-Sa Nhỏ



Lời nguyện 2
[LỜI TUYÊN KHẤN]
8 tháng 9 năm 1890

Ôi Giêsu, Đức phu quân thần linh của con! Chớ chi con không bao giờ đánh mất tấm áo Rửa Tội con được mặc lại lần thứ hai, xin hãy ngăn con trước khi [con] có ý định phạm một lỗi lầm nhỏ nhất. Chớ gì con luôn tìm và gặp chỉ một mình Chúa, và loài thụ tạo chẳng là gì đối với con, còn con chẳng là gì đối với chúng, nhưng chỉ một mình Giêsu là tất cả!... Chớ chi những sự thế gian không bao giờ có thể làm cho linh hồn con phải bối rối, không gì khuấy động được sự bình an của con, ôi Giêsu, con chỉ xin Chúa sự bình an, và cả tình yêu nữa, tình yêu bất tận vô biên mà chẳng là gì khác ngoài chính Chúa, tình yêu mà không còn là con nữa, nhưng là Chúa, ôi Giêsu của con. Giêsu mà vì Chúa con muốn được chết tuẫn đạo, tuẫn đạo bằng tâm hồn hoặc thể xác, hay đúng hơn là cả hai... Hãy cho con thực thi những lời con tuyên khấn một cách hoàn thiện và làm cho con hiểu được cách trở thành một hiền thê của Chúa. Xin cho con đừng bao giờ làm phiền cộng đoàn, và xin không một ai phải bận tâm đến con, chớ chi con thấy mình bị giày đạp, bị quên lãng như một hạt cát nhỏ bé dưới chân Chúa, ôi Giêsu.

Nguyện cho ý Chúa được thực hiện hoàn toàn trong con, (Mt 6,10), chứ gì con đến được nơi mà Chúa đã có mặt sẵn ở đấy để dọn chỗ cho con... (Ga 14,23).

Ôi Giêsu, xin hãy làm cho con cứu vớt được nhiều linh hồn, xin cho ngày hôm nay không một linh hồn nào bị luận phạt và cho mọi linh hồn trong luyện ngục được cứu thoát... Ôi Giêsu, hãy tha thứ cho con nếu con nói ra những điều không nên nói, con chỉ muốn làm Chúa vui và an ủi Chúa mà thôi.

***(Khi viết bản tuyên khấn này, Têrêxa làm theo một tập quán mà Chị học được. Thời bấy giờ, thường là các tập sinh, vào ngày nhận tu phục hoặc tuyên khấn, đều mang trên ngực một bản ghi như vậy, trong đó họ cầu xin cho mình và cho các bạn bè những ơn ích mà mình muốn được lãnh nhận. Một truyền thống khẳng định rằng, tất cả những lời cầu nguyện, được thực hiện bằng cách nằm úp mặt trên một tấm nệm len thô màu nâu, với hai tay chéo nhau thành hình thập giá, thì đều được chuẩn nhận.)***

- Trích trong tác phẩm “Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu Và Thánh Nhan, quyển IV: Những Lời Cầu Nguyện – Những Trò Chuyện Sau Cùng – Các Ghi Chép Khác”. Bản dịch của Nôbertô Thái Văn Hiến, trang 26-28.


Chủ Nhật, 17 tháng 11, 2024

Đường Lên Núi Cát Minh - Quyển 1 - Chương 5: Cuộc vượt qua cần thiết (2)

 


ĐƯỜNG LÊN NÚI CÁT MINH
QUYỂN 1

CHƯƠNG 5
CUỘC VƯỢT QUA CẦN THIẾT* (2)

Tiếp tục đề tài, chương này dùng thế giá và các hình ảnh của Thánh Kinh để tỏ rõ điều hết sức cần thiết là: Linh hồn phải tiến đến với Thiên Chúa nhờ đêm dày, tức là bằng cách giết chết lòng mê thích đối với mọi sự.

1 - Qua những gì đã nói trước đây, ta có thể nhận thức được phần nào về khoảng cách giữa tất cả những gì là bản tính các thụ tạo với chính bản tính Thiên Chúa. Chúng ta cũng thấy những linh hồn nghiêng chiều về một thụ tạo, phải ở cách xa Thiên Chúa như thế nào. Bởi vì, chúng tôi xin nói lại, tình yêu khiến cho người ta ngang hàng và nên giống với điều mình yêu. Về điểm này thánh Âu Tinh đã rất thấm thía, khi thưa cùng Thiên Chúa trong cuốn “Độc thoại” của ngài như sau: "Thật khốn thân con! Cho đến bao giờ sự nhỏ hèn và bất toàn của con mới có thể hòa hợp với sự chính trực của Chúa. Chúa thật tốt lành, còn con thật xấu xa; Chúa nhân từ còn con thì phụ bạc; Chúa thánh thiện, còn con thì khốn nạn; Chúa công chính còn con thì bất chính; Chúa là sự sáng còn con thì mù lòa; Chúa là sự sống, còn con là chết chóc; Chúa là linh dược, con là bệnh nhân; Chúa là thực tại tối cao, con hoàn toàn hư ảo!" (Soli loq. đ. 2 GPLT, 40, 866). Đó là những điều thánh nhân nêu lên để tố cáo mình có xu hướng nghiêng chiều về các thụ tạo.

2 - Vậy, quả là dốt nát tột độ nếu linh hồn nghĩ rằng có thể vươn cao trong việc nên một với Thiên Chúa, mà trước hết không chịu trút bỏ hết mọi mê thích mọi cái tự nhiên cũng như siêu nhiên có thể ngăn cản sự nên một ấy (như trước đây chúng tôi đã nêu rõ). Thật vậy, có một khoảng cách hết sức xa giữa những sự vật ấy và ơn sẽ được ban ở đây, là ơn được hoàn toàn biến đổi trong Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao Chúa Cứu Thế, khi dạy chúng ta con đường từ bỏ, đã phán trong Tin mừng: "Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được" (Lc 14,33). Điều ấy rất rõ ràng, vì giáo lý Con Thiên Chúa đã đến dạy chúng ta chính là khinh miệt hết mọi sự, để có thể lãnh nhận phần thưởng là chính bản thân Thánh Thần Thiên Chúa. Vậy, bao lâu linh hồn chưa gỡ mình khỏi những điều ấy thì không có khả năng lãnh nhận được Thánh Thần Thiên Chúa và đạt tới sự hoàn toàn biến đổi trong Ngài.

3 - Về sự thật ấy, chúng ta có một hình ảnh trong sách Xuất Hành (x. 16,3-4), theo đó, Thiên Chúa đã chỉ ban lương thực bởi trời là manna cho con cái Israel sau khi họ đã dùng hết thứ bột mang đi từ Ai Cập. Với hình ảnh ấy, Ngài muốn nói rằng, trước tiên phải từ bỏ hết mọi sự, vì thứ lương thực các thiên thần ấy không dung hợp với miệng lưỡi nào còn muốn thưởng thức chút hương vị nơi lương thực loài người. Linh hồn nào dừng lại để vui với những hương vị ngoại lai xa lạ thì chẳng những không tiếp nhận được Thần Khí Thiên Chúa, mà hơn nữa còn làm buồn lòng Chúa Uy Linh rất nhiều, vì họ đòi hỏi lương thực tâm linh nhưng lại không mãn nguyện với một mình Thiên Chúa mà vẫn còn lưu luyến và nghiêng chiều đối với nhiều sự vật khác. Hình như cũng chính trong sách Thánh Kinh ấy [Thực ra là sách Dân số 11, 4] có nói rằng họ không hài lòng với thứ đồ ăn nhẹ này, nên đã ước ao và kêu nài được ăn thịt. Thiên Chúa rất phẫn nộ vì họ đã muốn pha trộn một thứ đồ ăn thấp hèn thô tục như vậy vào món ăn cao siêu và tinh tế đến thế, cũng là món ăn bao gồm hương vị và phẩm chất của hết mọi thứ thực phẩm. Cho nên vua Đavít mới nói: "Khi họ chưa kịp đã thèm, miếng ăn còn chưa kịp nuốt, thì cơn giận Chúa Trời đã bừng lên phạt họ" (Tv 77/78,30-31). Ngài khiến lửa bởi trời sa xuống thiêu hủy nhiều nghìn người trong bọn họ, vì Ngài ban cho họ thức ăn bởi trời như thế mà họ còn mê thích một đồ ăn khác thì quả là điều bất xứng.

4 - Ôi! Giá như những kẻ theo đường tâm linh biết được rằng khi họ không biết dứt bỏ lòng ham muốn những điều ấu trĩ chẳng đáng giá gì, thì họ đã đánh mất đi những điều quý giá nhường bao, và mất đi một kho tàng tâm linh phong phú nhường bao!... Giá như họ biết được rằng chỉ cần đừng muốn nếm hưởng chúng là họ sẽ tìm được, nơi lương thực tâm linh giản dị ấy, cái hương vị của tất cả mọi sự như thế nào. Tuy nhiên họ không nếm được. Nguyên nhân khiến họ không cảm nhận được hương vị của mọi thứ lương thực tích chứa trong manna, chính là vì họ đã không chịu chú ý tập trung sự mê thích vào chỉ nguyên một mình manna mà thôi. Nếu họ đã không tìm được nơi manna tất cả sự thích thú và sức mạnh đã ao ước không phải vì manna không có khả năng ấy, nhưng là vì chính họ đang mải tìm những chuyện khác. Kẻ nào muốn yêu điều gì khác cùng lúc với yêu Thiên Chúa là đã coi thường Thiên Chúa, vì đã lấy một yếu tố hết sức xa cách Thiên Chúa đem đặt chung với Ngài trên cùng một bàn cân.

5 - Kinh nghiệm cũng dạy ta rằng, khi nào lòng muốn nghiêng chiều về một vật gì, nó liền quý vật ấy hơn bất cứ vật nào khác, vì lẽ những vật này dù có tốt hơn vật được quý chuộng kia nhiều nhưng nếu không gây được thích thú cho nó thì nó vẫn không coi trọng. Còn nếu nó muốn nếm thử cả bên này và bên kia, nó sẽ gây điếm nhục cho bên xứng đáng hơn, vì nó coi cả hai bên như nhau. Vậy, vì không một vật nào có thể ngang hàng với Thiên Chúa, nên linh hồn sẽ gây sỉ nhục lớn cho Ngài khi nó vừa yêu Ngài vừa yêu sự khác, gắn bó với sự khác. Đã vậy, ta sẽ nói gì nếu linh hồn yêu sự vật ấy hơn cả Thiên Chúa?

6 - Đó cũng là điều được nhấn mạnh khi Chúa truyền cho ông Môsê lên núi thưa chuyện với Ngài (Xh 34,2-3). Ngài truyền cho ông lên núi một mình, bỏ con cái Israel dưới chân núi, Ngài còn cấm cả loài vật không được gặm cỏ trước núi ấy. Qua đó Ngài cho thấy rằng linh hồn nào muốn leo lên ngọn núi hoàn thiện để hiệp thông với Thiên Chúa, không những phải từ bỏ mọi sự, vất lại phía dưới, mà còn không được để cho các mê thích tức là những súc vật trong linh hồn được chăn thả trong đồng cỏ phía trước ngọn núi ấy, nghĩa là không được để chúng vui hưởng những gì khác không thuộc Thiên Chúa. Chính nơi Thiên Chúa mọi mê thích đều được lấp đầy, đó là tình trạng hoàn thiện. Như vậy, trên con đường và con dốc tiến lên cùng Thiên Chúa, cần thiết phải thường xuyên quan tâm trấn áp và giết chết các mê thích. Như thế linh hồn sẽ đạt đỉnh nhanh hơn là khi vội vội vàng vàng nhưng lòng vẫn dính chặt với thụ tạo. Bao lâu chua tự thắng được như vậy thì dù có thực hành các nhân đức nhiều đi nữa vẫn không đạt được hoàn thiện. Sự hoàn thiện này cốt ở chỗ giữ linh hồn được trống rỗng, trần trụi, và được thanh tẩy khỏi mọi mê thích.

Chúng ta có một hình ảnh sống động về vấn đề này trong sách Sáng thế (35,2-3), ở đoạn Tổ phụ Giacóp muốn lên núi Bêthel dựng một bàn thờ kính Thiên Chúa để dâng của lễ trên đó. Trước hết ông truyền cho gia nhân phải giữ ba điều: Một là phải vất bỏ tất cả các thần ngoại lai, hai là phải thanh tẩy mình, ba là phải thay đổi y phục.

7 - Ba điều kiện ấy giúp ta hiểu những điều một linh hồn phải làm khi muốn lên được núi thánh này để biến chính mình thành bàn thờ, dâng lên Thiên Chúa của lễ tình yêu tinh tuyền, của lễ ca ngợi và tôn kính thuần khiết. Trước khi lên đỉnh núi, linh hồn ấy phải chu toàn trọn vẹn ba điều kiện tương tự: Thứ nhất, phải vất bỏ tất cả các thần ngoại lai - tức là tất cả mọi nghiêng chiều lệch lạc và mọi dính bén; thứ hai, phải nhờ đêm tối giác quan mà tự thanh tẩy khỏi những tàn tích do các mê thích ấy để lại trong linh hồn, phải diệt trừ chúng và thật lòng thống hối về chúng; rồi điều kiện thứ ba cần có để lên được ngọn núi cao ấy, là phải thay đổi y phục: Nhờ việc thực hiện hai điều kiện trên, Thiên Chúa sẽ thay đổi những y phục ấy bằng những y phục mới, Ngài sẽ lột bỏ cách nhận biết cũ kỹ của con người và ban cho linh hồn một khả năng mới để nhận biết Thiên Chúa trong Thiên Chúa. Ngài sẽ ban cho nó một tình yêu mới để yêu mến Thiên Chúa trong Thiên Chúa, vì lòng muốn từ nay đã được lột bỏ hết những ước muốn và sở thích cũ kỹ của con người. Ngài sẽ đặt linh hồn vào một hiểu biết mới và một vực thẳm hoan lạc, vì những hiểu biết khác và những hình ảnh cũ kỹ từ nay bị gạt ra một bên. Ngài sẽ chấm dứt tất cả những gì thuộc về con người cũ — là sự khôn khéo của khả năng tự nhiên — và dùng tất cả quyền năng Ngài mà mặc cho nó sự khôn khéo siêu nhiên mới mẻ. Cho đến nỗi, từ nay, những hành động của nó vốn là hành động của con người lại trở thành hành động của Thiên Chúa, tức là điều người ta sẽ đạt được trong tình trạng nên một, trong đó linh hồn chẳng còn được dùng vào việc gì khác ngoài việc dùng làm bàn thờ, nơi mà Thiên Chúa được thờ phượng trong lời ca tụng và tình yêu, và chỉ có một mình Thiên Chúa ngự đó mà thôi. Do đó ta hiểu tại sao xưa kia Thiên Chúa truyền rằng bàn thờ để đỡ khám giao ước phải rỗng ở bên trong: Chính là để linh hồn hiểu rằng nó phải hết sức trống rỗng đối với mọi sự, ngõ hầu nó xứng đáng là một bàn thờ cho uy linh Ngài ngự trị (x. Xh 27,8). Trên bàn thờ ấy, Thiên Chúa cũng không cho phép được có lửa lạ, và lửa riêng của bàn thờ không bao giờ được tắt. Nađáp và Abiút là các con của thượng tế Aaron, dâng lửa lạ trên bàn thờ, đã khiến Thiên Chúa nổi giận, giết họ tức khắc ngay trước bàn thờ (x. Lv 10,1-2). Đó là để chúng ta hiểu rằng muốn cho linh hồn được nên bàn thờ xứng đáng, thì ở đó không được thiếu tình yêu Thiên Chúa và cũng không được pha trộn tình yêu ngoại lai nào.

8 - Thiên Chúa không cho phép một vật nào khác được ở chung với Ngài. Do đó chúng ta đọc thấy trong sách Các Vua quyển I (tức là Samuel I: 1Sm 5,3-5) rằng khi dân Philitinh đặt khám giao ước trong đền thờ có để tượng thần của họ, thì mỗi sáng thức dậy đều thấy đám tượng ấy nằm lăn dưới đất, vỡ tan tành. Thiên Chúa không chấp nhận cho ta có một mê thích nào khác ngoài mê thích giữ luật Ngài cách hoàn hảo và vác lấy thánh giá Chúa Giêsu Kitô. Ngài muốn rằng Ngài ở đâu thì sự mê thích phải ở đó. Vì thế nên chúng ta không thấy có lời nào trong Thánh Kinh nói rằng Thiên Chúa đã truyền đặt điều gì khác vào khám giao ước nơi có manna, ngoại trừ sách Luật và gậy ông Aaron là biểu hiệu của Thánh giá (Xh 16,34 và 25,16). Linh hồn nào không nhắm điều gì khác hơn là gìn giữ cách hoàn hảo Luật Thiên Chúa và vác lấy Thánh giá Chúa Giêsu Kitô, sẽ nên khám giao ước đích thật, có được manna chân chính, là chính Thiên Chúa. Nó sẽ đi đến chỗ chẳng cần bất cứ điều gì khác mà vẫn có được lề luật và cây gậy ấy cách hoàn hảo (Đnl 31,26; Ds 17,16-26).

Nguyên tác: Subida al Monte Carmelo của Thánh GIOAN THÁNH GIÁ. Bản dịch của NGUYỄN UY NAM và Lm. TRĂNG THẬP TỰ.
(Còn tiếp)

Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2024

Đường Lên Núi Cát Minh - Quyển 1 - Chương 4: Cuộc vượt qua cần thiết

 


ĐƯỜNG LÊN NÚI CÁT MINH
QUYỂN 1

CHƯƠNG 4
CUỘC VƯỢT QUA CẦN THIẾT*

Bàn về điều hết sức cần thiết, là linh hồn phải thật sự vượt qua đêm dày của giác quan, tức là giết chết mê thích, để bước tới nên một với Thiên Chúa.

1 - Tại sao muốn đạt tới việc nên một với Thiên Chúa, linh hồn phải trải qua đêm dày ấy, tức là phải giết chết những mê thích và chối bỏ những mê thích về mọi sự? Chính là vì trước mặt Thiên Chúa, mọi quyến luyến của linh hồn đối với thụ tạo đều là những bóng tối không hơn, không kém. Nếu linh hồn để mình bị những quyến luyến ấy bao phủ thì không thể được soi sáng và thấm nhuần ánh sáng tinh ròng và đơn thuần của Thiên Chúa. Linh hồn phải tống khứ những bóng tối ấy trước đã, bởi vì ánh sáng không đi đôi với tối tăm. Như lời thánh Gioan: "Tối tăm không thấu triệt được ánh sáng" (Ga 1,5). Có nghĩa là bóng tối không thể nhận được ánh sáng.

2 - Thật vậy, triết học dạy rằng hai điều mâu thuẫn nhau thì không thể tồn tại trong cùng một chủ thể. Những quyến luyến lệch lạc với thụ tạo là bóng tối, còn Thiên Chúa là ánh sáng, hai đàng mâu thuẫn nhau, không có gì tương tự và phù hợp nhau, như lời thánh Phaolô dạy người Côrintô: "Thông đồng thế nào được giữa ánh sáng và tối tăm?" (2Cr 6,14). Do đó, ánh sáng của ơn nên một với Thiên Chúa không thể nào ngự trị được trong linh hồn nếu trước đó nó không xua trừ hết các quyến luyến lệch lạc.

3 - Để sáng tỏ vấn đề hơn, cần nhớ rằng sự nghiêng chiều và gắn bó với thụ tạo khiến cho chính linh hồn bị hạ xuống ngang hàng với thụ tạo. Sự nghiêng chiều càng lớn càng khiến linh hồn ngang hàng và nên giống thụ tạo. Bởi vì, tình yêu làm cho người yêu và đối tượng được yêu nên giống nhau. Chính vì thế, khi nói tới những người nghiêng chiều về các thần tượng, vua Đavít thốt lên: "Ước gì kẻ làm ra hoặc tin ở tượng thần cũng giống như chúng vậy" (Tv 113/115,8). Như vậy, ai yêu một thụ tạo cũng thành thấp kém như thụ tạo ấy, và một cách nào đó còn thấp kém hơn, vì không những tình yêu hạ người ta xuống ngang hàng với đối tượng mình yêu, mà còn bắt phải lụy phục đối tượng ấy nữa. Do đó khi linh hồn yêu mến một thụ tạo, thì mất khả năng nên một cách tinh ròng với Thiên Chúa và đối với việc biến đổi chính mình. Nếu bóng tối không thể tiếp nhận ánh sáng thì sự thấp hèn của thụ tạo càng không thể tiếp nhận sự cao cả của Thiên Chúa. Bởi vì, hết mọi vật trên trời dưới đất, đem so sánh với Thiên Chúa, đều không là gì cả, như lời Giêrêmia đã nói: "Tôi nhìn xuống đất thì này trống không mông quạnh, và nhìn lên trời, ánh sáng trên trời đã hết" (Gr 4,23). Khi nói mặt đất trống không mông quạnh, vị ngôn sứ cho ta hiểu rằng mọi thụ tạo trên mặt đất đều không là gì, và cả trái đất cũng thế. Còn nhìn lên các tầng trời chẳng thấy ánh sáng, có nghĩa là hết mọi luồng sáng trên trời so với Thiên Chúa đều chỉ là tăm tối. Như thế, hết mọi thụ tạo đều là hư không, và có thể nói rằng những sự nghiêng chiều về chúng còn kém thua sự hư không, bởi vì những nghiêng chiều ấy ngăn cản và loại trừ ánh sáng. Kẻ ở trong bóng tối không thâu nhận được ánh sáng. Cũng vậy, linh hồn nào nghiêng chiều về thụ tạo sẽ không thể nhận biết Thiên Chúa. Bao lâu linh hồn chưa tự thanh tẩy khỏi sự nghiêng chiều ấy, nó không thể nào chiếm hữu Ngài, cả ở đời này nhờ sự biến đổi thật tinh ròng của tình yêu, cả ở đời sau nhờ sự huởng kiến nhãn tiền. Để sáng tỏ vấn đề hơn, chúng tôi xin nói riêng thêm về điều này như sau:

4 - Toàn bộ hữu thể của các thụ tạo, so sánh với hữu thể vô biên của Thiên Chúa chỉ là hư không. Do đó linh hồn nào đặt nghiêng chiều về chúng, chẳng những thành hư không truớc mặt Thiên Chúa mà còn kém thua hư không nữa. Bởi lẽ như đã nói, tình yêu khiến người ta thành ngang hàng với đối tượng mình yêu, giống đối tượng ấy, thậm chí còn khiến nguời ta kém thua đối tượng ấy. Một linh hồn như thế sẽ không làm sao nên một được với hữu thể vô biên của Thiên Chúa. Thật vậy, cái không có thì chẳng thể nào tương hợp với cái có. Tuơng tự, tất cả mọi vẻ đẹp của thụ tạo, đem so sánh với vẻ đẹp vô biên của Thiên Chúa, đều xấu xí tột độ. Đúng như lời vua Salômôn trong sách Châm ngôn: "Duyên dáng là giả dối, sắc đẹp là hư vô" (Cn 31,30). Vì thế, linh hồn nào nghiêng chiều về vẻ đẹp của một thụ tạo thì, trước nhan Thiên Chúa cũng hết sức xấu. Linh hồn xấu xa ấy sẽ vì đó mà không thể nào biến đổi đuợc thành vẻ đẹp là chính Thiên Chúa, vì sự xấu xa đâu có chạm tới vẻ đẹp đuợc. Tất cả vẻ duyên dáng và thanh nhã của các thụ tạo cũng rất mực vô duyên và vô vị khi sánh với ân sủng của Thiên Chúa, và do đó không thể nào đón nhận được sự duyên dáng và vẻ đẹp vô biên của Ngài. Vì lẽ điều vô duyên cách xa một trời một vực với cái vô cùng duyên dáng. Tương tự, tất cả sự tốt lành của mọi thụ tạo thế gian đem so với sự tốt lành vô biên của Thiên Chúa, có thể gọi được là gian ác, vì "không có ai tốt lành ngoại trừ một mình Thiên Chúa" (Lc 18,19). Vì thế linh hồn nào dồn tâm huyết vào những của cải thế gian thì rất mực gian ác trước mặt Thiên Chúa. Điều ác không bao gồm điều thiện, cũng vậy, một linh hồn như thế sẽ không thể nào nên một với Thiên Chúa, Đấng là sự thiện tối thượng.

Rồi, tất cả sự khôn ngoan thế gian, tất cả sự khéo léo của nhân loại, đem so với khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa chỉ là ngu dốt tột độ, như thánh Phaolô viết cho tín hữu Côrintô: "Sự khôn ngoan thế gian này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa" (1Cr 3,19).

5 - Do đó trên đường đi tới chỗ nên một với sự khôn ngoan Thiên Chúa, linh hồn nào cậy dựa vào kiến thức và tài khéo của mình quả là rất dốt nát trước mặt Ngài và ở rất xa sự khôn ngoan. Thật vậy, sự dốt nát đâu biết thế nào là khôn ngoan, như lời thánh Phaolô: “Thứ khôn ngoan ấy đối với Thiên Chúa chỉ là điên rồ”. Trước mặt Thiên Chúa, những người tưởng mình biết được điều gì, là những người ngu dốt nhất. Trong thư gửi tín hữu Rôma, thánh Tông đồ đã nói về họ rằng: "Họ khoe mình khôn ngoan nhưng đã trở nên điên rồ" (Rm 1,22). Vậy, ai mới có được sự khôn ngoan Thiên Chúa? Chỉ có những kẻ biết trở nên như những trẻ em dốt nát, vất bỏ sự hiểu biết của mình đi và tiến bước trong việc phục vụ Thiên Chúa với tình yêu. Đó cũng là thứ khôn ngoan thánh Phaolô đã dạy tín hữu Côrintô: "Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật. Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa" (1Cr 3,18-19). Thành thử để nên một với Đức Khôn Ngoan Thiên Chúa, linh hồn phải tiến bước bằng sự không hiểu biết nhiều hơn là bằng sự hiểu biết.

6 - Vì thế, tất cả quyền thống trị, tất cả sự tự do thế gian so với sự tự do và quyền thống trị của Thần khí Thiên Chúa, chỉ là một thứ nô lệ tột độ, chỉ là đau buồn và tù túng.

Do đó linh hồn nào say đắm quyền cao chức trọng, danh giá, hoặc mong được tự do thỏa mãn các mê thích thì, trước mặt Thiên Chúa, sẽ bị coi và bị đối xử không phải như con cái mà như nô lệ thấp hèn, như tù nhân, vì đã chẳng muốn theo giáo lý thánh thiện của Chúa dạy rằng: "Ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ" (Lc 22,26). Một linh hồn như thế sẽ không thể nào đạt tới sự tự do vương giả của tâm linh, thứ tự do chỉ đạt được trong sự nên một với Thiên Chúa. Thật vậy, sự nô lệ không thể có phần gì với tự do. Tự do không thể nào ở trong một trái tim lụy phục nhiều ý muốn vặt vãnh vì đó là một trái tim nô lệ. Tự do chỉ ở trong một trái tim tự do, tức là trái tim của người con. Đó là lý do tại sao bà Sara đã yêu cầu chồng bà là ông Abraham “đuổi kẻ nô tỳ và con của nó” ra khỏi nhà, vì bà nói "con của kẻ nô tỳ không có quyền thừa tự cùng với con của người tự do" (x. St 21,10).

7 - Tương tự, tất cả những vui thú, những hương vị mà ý muốn tìm được nơi những sự vật trần gian, đem so với tất cả những niềm hoan lạc tìm được nơi bản thể Thiên Chúa thì chỉ là đau đớn, khổ não và đắng cay tột cùng mà thôi. Cho nên người nào đặt tâm huyết vào những thứ ấy thì, trước nhan Thiên Chúa, sẽ đáng chịu đau đớn, khổ não và đắng cay tột độ. Nó sẽ không thể nào đạt tới những hoan lạc được ôm ấp trong sự nên một với Thiên Chúa, nó chỉ đáng chịu đau đớn và đắng cay.

Tất cả mọi sự giàu có và vinh sang nơi toàn thể thụ tạo, đem so với sự giàu có là chính Thiên Chúa, thì quả là vô cùng nghèo nàn và khốn nạn. Do đó, linh hồn nào yêu thích và chiếm hữu chúng thì, trước mặt Thiên Chúa, thật nghèo và khốn nạn đến tột cùng. Và do đó, nó sẽ không thể nào đạt tới tình trạng diễm phúc của giàu có và vinh quang — tức là tình trạng được biến đổi nên Thiên Chúa. Thật vậy, do sự khốn nạn và nghèo nàn tột cùng của nó, linh hồn ấy hết sức cách xa những gì là giàu có và vinh sang tối cao.

8 - Vì thế, Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã kêu lên trong sách Châm ngôn, than phiền về những con người như vậy, những kẻ vì yêu chuộng những thứ có vẻ xinh tốt và sang trọng của thế gian nên đã tự làm cho mình thành xấu xa, thấp hèn, khốn nạn và nghèo nàn: "Phàm nhân hỡi, ta mời gọi các ngươi đó, ta ngỏ lời với các ngươi, hỡi con cái loài người. Hỡi những kẻ ngây thơ, hãy học cho biết điều khôn khéo; hỡi những người ngu xuẩn, hãy học cho biết lẽ phải chăng. Nghe đây, ta sẽ công bố những lời cao quý, môi ta sẽ thốt lên những điều ngay thẳng... Bên cạnh ta là giàu sang, danh giá, là phú quý bền lâu và thịnh vượng... để làm giàu cho những kẻ yêu ta, khiến kho tàng của họ thêm phong phú" (Cn 8,4-6 và 18.21). Ở đây Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa ngỏ lời với tất cả những ai đặt tâm huyết và nghiêng chiều vào bất cứ vật gì của trần gian, như đã nói trên. Đức Khôn Ngoan gọi họ là "những kẻ nhỏ bé", vì họ nên giống với điều họ yêu mến, là điều nhỏ bé cỏn con. Và vì thế, Đức Khôn Ngoan nhắn nhủ họ hãy khôn khéo và chú ý, vì Đức Khôn Ngoan đang bàn về những điều quan trọng chứ không phải những chuyện cỏn con như họ. Ngài nhắn nhủ họ rằng của cải, giàu có và sự vinh quang họ yêu mến phải ở với Đức Khôn Ngoan và trong Đức Khôn Ngoan chứ không phải ở nơi họ vẫn tưởng nghĩ. Những sự giàu có cao sang và sự công chính vốn đều ở nơi Đức Khôn Ngoan Thiên Chúa. Trước mắt họ những của cải thế gian này có vẻ giàu có và vinh sang đấy, thế nhưng sự Khôn ngoan nhắc nhở họ nên lưu ý rằng những điều Đức Khôn Ngoan đem lại còn tốt đẹp hơn nhiều, rằng hoa trái mà họ sẽ gặp được nơi những điều ấy còn quý báu cho họ hơn cả vàng và châu ngọc; và điều mà sự Khôn ngoan làm nảy sinh trong các linh hồn còn tốt hơn cả thứ bạc chọn lọc mà họ rất mực quý mến. Tất cả những của cải ấy phải được hiểu về hết mọi thứ nghiêng chiều người ta có thể có trong cõi đời này.

Nguyên tác: Subida al Monte Carmelo của Thánh GIOAN THÁNH GIÁ. Bản dịch của NGUYỄN UY NAM và Lm. TRĂNG THẬP TỰ.
(Còn tiếp)

Thứ Tư, 13 tháng 11, 2024

Đường Lên Núi Cát Minh - Quyển 1 - Chương 3: Tước bỏ sự mê thích




ĐƯỜNG LÊN NÚI CÁT MINH
QUYỂN 1

CHƯƠNG 3
TƯỚC BỎ SỰ MÊ THÍCH *

Nói về nguyên nhân thứ nhất của đêm này, tức là nói về việc tước bỏ sự mê thích đối với mọi thụ tạo, và về lý do tại sao gọi đây là đêm.

1 — Đêm mà chúng tôi nói đây hiểu về việc tước bỏ sự mê thích mọi vật. Bởi vì, đêm không gì khác hơn là sự tước bỏ ánh sáng, và do đó, tước bỏ luôn tất cả những vật có thể thấy được nhờ ánh sáng; và điều ấy khiến quan năng thị giác chìm trong tối tăm và trở nên như không có. Cũng thế, ta có thể gọi việc giết chết mê thích là một đêm đối với linh hồn, bởi vì khi đã tước bỏ hết sự mê thích mọi vật, con mắt linh hồn chìm vào trong tối tăm và trở nên như không có. Quan năng thị giác hoạt động nhờ ánh sáng và nuôi mình bằng những gì có thể thấy được, và nếu ánh sáng tắt đi thì những thứ này cũng không còn thấy được. Cũng vậy, linh hồn nhờ sự mê thích mà nuôi mình bằng tất cả những gì có thể cảm nếm được theo các quan năng của nó. Dập tắt, hoặc nói đúng hơn, giết chết sự mê thích ấy, linh hồn sẽ thôi không còn nuôi mình bằng những mê thích mọi vật, và nhìn từ góc độ sự mê thích thì lúc ấy linh hồn chìm trong tối tăm và trở nên như không có.

2 — Hãy thử lấy một ví dụ áp dụng cho hết mọi quan năng. Khi linh hồn tự tước bỏ sự mê thích và nếm hưởng tất cả những gì làm vui thích thính giác, thì về phía quan năng này, linh hồn đã chìm trong tối tăm và trở nên như không có.

Khi linh hồn tự tước bỏ sự nếm hưởng tất cả những gì có thể làm vui thích thị giác cũng vậy, về phía quan năng này, linh hồn đã chìm trong tối tăm và trở nên như không có. Khi linh hồn tự tước bỏ sự nếm hưởng tất cả những mùi thơm dịu dàng đối với khứu giác thì về phía quan năng này, linh hồn đã chìm trong tối tăm và trở nên như không có. Cũng vậy, khi linh hồn từ khước nếm hưởng tất cả những thức ăn ngon có thể làm thỏa mãn vị giác, thì về phía quan năng này, linh hồn cũng đã chìm trong tối tăm và trở nên như không có. Sau cùng, linh hồn tự diệt trừ mọi thích thú và hài lòng có thể nhận được nhờ xúc giác, thì cũng thế, xét theo quan năng này, linh hồn đã chìm trong tối tăm và trở nên như không có.

Như thế, một khi linh hồn đã khước từ và loại bỏ sự mê thích mọi vật và diệt trừ sự mê thích các sự vật ấy, ta có thể nói được rằng nó đang ở trong đêm dày, và hiểu theo một cách nào đó, đêm này không gì khác hơn là một sự trống vắng nơi linh hồn, trống vắng tất cả mọi sự.

3 — Lý do là vì, theo triết học, khi mới được Thiên Chúa cho nên một với thân xác, linh hồn hệt như một tấm bảng trống trơn nhẵn nhụi, chưa có một chút gì vẽ lên đó cả. Linh hồn tựa như kẻ ở trong ngục tối, chẳng biết gì hơn những điều thấy được qua những cửa sổ của ngục tối; và nếu như qua đó mà chẳng thấy được gì thì đâu thấy được qua chỗ nào khác. Cũng thế, nếu loại bỏ những gì biết được qua các giác quan, tựa như những cửa sổ nhà tù, thì theo lẽ tự nhiên, linh hồn sẽ không biết được gì qua một con đường nào khác.

4 — Khi linh hồn vất bỏ và khước từ những hiểu biết nhận được bằng giác quan, nó như thể đã chìm trong tối tăm và rơi vào chỗ trống không. Vì như đã nói, bình thường ánh sáng không thể lọt vào cửa tò vò nào khác. Chắc hẳn linh hồn không thể nào thôi nghe, thôi thấy, thôi ngửi, thôi nếm, thôi cảm, nhưng những việc ấy không còn quan trọng đối với nó nữa. Vì đã khước từ và vất bỏ như thế, linh hồn không còn bị cản trở gì, cũng như nó không còn thấy, không còn nghe... Chẳng khác nào một người nhắm mắt cũng ở trong tăm tối như người mù không có khả năng nhìn thấy. Vì lý do ấy, vua Đavít có nói: Từ thuở bé con nghèo khổ đã nhiều và luôn ngắc ngoải (Tv 87,16). Ông tự xưng là kẻ nghèo mặc dù ông giàu có. Ông không đặt lòng muốn vào sự giàu có nên chẳng khác nào ông thật sự nghèo khó vậy. Còn nếu ông thật sự nghèo mà lòng không muốn nghèo thì vẫn không đích thực là người nghèo, bởi vì linh hồn vẫn giàu và đầy dục vọng. Chính vì thế, chúng tôi gọi sự trần trụi này là đêm tối đối với linh hồn. Ở đây chúng tôi không bàn tới sự vắng bóng các sự vật, sự thiếu vắng ấy vẫn không khiến linh hồn thành trần trụi nếu như nó vẫn cứ mê thích các vật ấy. Chúng tôi chỉ bàn tới việc lột bỏ nỗi thèm khát và mê thích các sự vật. Chính đây mới là yếu tố giúp linh hồn được tự do, không vướng mắc các sự vật ấy, mặc dù vẫn sở hữu chúng. Thật vậy, những sự vật của trần gian này không chiếm hữu được linh hồn, cũng không làm hại được linh hồn, vì chúng không xâm nhập được vào linh hồn. Chỉ có lòng muốn và sự mê thích các sự vật mới ở trong linh hồn, mới chiếm hữu và làm hại được linh hồn thôi.

5 — Loại đêm thứ nhất này, như sẽ nói sau, liên hệ đến phần dễ cảm của linh hồn, và là một trong hai loại đêm chúng tôi đã nói linh hồn phải vượt qua để đạt tới chỗ nên một.

6 — Bây giờ xin nói tại sao việc linh hồn lìa bỏ căn nhà mình trong đêm dày của giác quan để đi tìm nên một với Thiên Chúa là việc hết sức thích hợp.

- Nguyên tác: Subida al Monte Carmelo của Thánh GIOAN THÁNH GIÁ. Bản dịch của NGUYỄN UY NAM và Lm. TRĂNG THẬP TỰ.

(Còn tiếp)

Thứ Ba, 12 tháng 11, 2024

Đường Lên Núi Cát Minh - Quyển 1 - Chương 2: Thế nào là đêm




ĐƯỜNG LÊN NÚI CÁT MINH
QUYỂN 1


CHƯƠNG 2
THẾ NÀO LÀ ĐÊM*

Giải thích thế nào là đêm tối mà linh hồn phải trải qua để đạt tới sự nên một.

“Giữa một đêm dày”

1 - Có ba lý do khiến cái bước linh hồn vượt qua để nên một với Thiên Chúa được gọi là đêm. Lý do thứ nhất là do điểm xuất phát từ đó linh hồn đã lên đường. Nó phải ra đi mà không được mê thích bất cứ điều gì trong tất cả những cái nó có được ở trần gian này. Chối bỏ và thiếu hụt như vậy đúng là một thứ đêm đối với mọi giác quan của con người. Lý do thứ hai là do phương thế hay con đường linh hồn phải đi qua để đạt tới sự nên một ấy. Phương thế ấy là đức tin, đối với trí hiểu thì đức tin cũng tối như đêm vậy. Lý do thứ ba là do điểm đến được nhắm tới, tức là Thiên Chúa. Trong cõi sống này Thiên Chúa đối với linh hồn cũng là một đêm dày không hơn không kém. Cả ba đêm ấy phải đi qua linh hồn hay nói đúng hơn, linh hồn phải trải qua ba đêm ấy để đạt tới sự nên một với Thiên Chúa.

2 - Về ba loại đêm ấy, ta có được một hình ảnh sống động trong sách Tôbia, nơi ba đêm mà thiên thần truyền cho chàng trẻ tuổi Tôbia phải trải qua trước khi nên một với vợ chàng.

Trong đêm đầu, chàng phải đốt cháy tim con cá trên lửa, ám chỉ trái tim còn yêu thích và quyến luyến những sự thuộc về thế gian. Cũng thế, muốn bắt đầu tiến đến cùng Thiên Chúa, trái tim này phải đốt cháy và thanh tấy tất cả những gì là thụ tạo trong lửa của tình yêu Thiên Chúa. Có thanh tẩy như vậy mới xua trừ được ma quỷ, vì ma quỷ chỉ có quyền lực trên linh hồn nào quyến luyến những chuyện xác phàm mau qua.

3 - Trong đêm thứ hai, Thiên thần bảo rằng chàng sẽ được tiếp nhận và nhập đoàn các vị tổ phụ là bậc cha ông trong đức tin. Bởi vì một khi qua được đêm thứ nhất, tức là tự tước bỏ những gì mơn trớn giác quan, linh hồn liền vào ngay đêm thứ hai, tức là chỉ ở trong đức tin (đức tin không loại trừ đức ái nhưng chỉ loại trừ những tri thức khác của trí hiểu như chúng tôi sẽ nói sau), vì chỉ có đức tin mới không lệ thuộc giác quan.

4 - Trong đêm thứ ba, Thiên thần bảo rằng chàng sẽ nhận được sự chúc phúc, tức là chính Thiên Chúa, Đấng đã nhờ đêm thứ hai, là đức tin, mà tự thông ban mình cho linh hồn cách kín ẩn và mật thiết tới nỗi, đối với linh hồn, đó là một đêm khác nữa. Thật vậy, cuộc thông ban này diễn ra còn tăm tối hơn những cuộc thông ban khác, như chúng ta sẽ nói sau. Sau khi trải qua đêm thứ ba này, tức là sau khi đã hoàn tất việc Thiên Chúa thông ban trong tâm linh (điều này thường diễn ra khi linh hồn lâm cảnh tối tăm mù mịt), thì tiếp theo ngay là việc nên một với Tân Nương tức là Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Thật vậy, thiên thần bảo Tôbia rằng sau đêm thứ ba chàng sẽ nên một với vợ mình trong niềm kính sợ Chúa. Khi nào niềm kính sợ ấy hoàn hảo, tình yêu cũng hoàn hảo; và đó là khi nhờ tình yêu mà linh hồn được biến đổi.

5 - Đêm có ba phần như vậy nhưng tất cả chỉ là một đêm, bởi vì đêm này cũng gồm ba phần như đêm thường vậy. Phần thứ nhất, đêm giác quan, sánh được với phần trước nửa đêm, khi ta không còn bận tâm tới sự vật chung quanh. Phần thứ hai, đêm đức tin, sánh được với lúc nửa đêm, hoàn toàn tăm tối. Và phần thứ ba giống như rạng đông, mà sau đó tiếp liền là ánh sáng ban ngày, tức là Thiên Chúa.

Để hiểu rõ học thuyết này hơn, chúng ta sẽ bàn về từng nguyên nhân một.

- Nguyên tác: Subida al Monte Carmelo của Thánh GIOAN THÁNH GIÁ. Bản dịch của NGUYỄN UY NAM và Lm. TRĂNG THẬP TỰ.

(Còn tiếp)

Thứ Hai, 11 tháng 11, 2024

Đường Lên Núi Cát Minh - Quyển 1 - Chương 1: Hai thứ đêm



ĐƯỜNG LÊN NÚI CÁT MINH
QUYỂN 1
- Bàn về bản chất của đêm dày.
- Bàn về sự cần thiết phải vượt qua đêm dày để đạt tới chỗ kết hiệp nên một với Thiên Chúa.
- Cách riêng bàn về đêm dày của giác quan, của các mê thích, và về những thiệt hại mà các mê thích gây ra cho linh hồn.
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1 Hai thứ đêm*
CHƯƠNG 2 Thế nào là đêm*
CHƯƠNG 3 Tước bỏ sự mê thích*
CHƯƠNG 4 Cuộc vượt qua cần thiết*
CHƯƠNG 5 Cuộc vượt qua cần thiết* (2)
CHƯƠNG 6 Hậu quả tệ hại của mê thích*
CHƯƠNG 7 Mê thích sinh khổ não *
CHƯƠNG 8 Mê thích khiến linh hồn nên tối tăm và mù quáng*
CHƯƠNG 9 Mê thích gây hoen ố *
CHƯƠNG 10 Mê thích đưa tới nguội lạnh và suy yếu *
CHƯƠNG 11 Diệt hẳn mê thích *
CHƯƠNG 12 Tác hại dây chuyền và đồng bộ *
CHƯƠNG 13 Cách xử sự *
- Các tựa đề có đánh dấu hoa thị (*) là của riêng bản Việt ngữ. Người dịch mạn phép thêm vào để bạn đọc dễ theo dõi tư tưởng của tác giả và tiện tra cứu ở mục lục.
---
CHƯƠNG 1
+ HAI THỨ ĐÊM*
Chương này trình bày ca khúc thứ nhất:
Nói về những khác biệt giữa hai thứ đêm mà những người theo đường tâm linh phải trải qua, theo hai phần của con người: phần thượng đẳng và phần hạ đẳng.
Và giải thích ca khúc sau đây.
- Ca khúc thứ nhất
Giữa một đêm dày,
Nồng nàn yêu thương và âu lo,
Ôi vận may diễm phúc!
Tôi đã ra đi không bị để ý,
Mái nhà tôi giờ thật yên hàn.
1 - Trong ca khúc thứ nhất này, linh hồn hát mừng vì số phận mình thật diễm phúc và may mắn được thoát khỏi mọi sự bên ngoài, khỏi những mê thích và những bất toàn vốn nằm trong phần dễ cảm của con người, do sự vô trật tự của lý trí gây nên. Để hiểu điều ấy, cần biết rằng một linh hồn muốn đạt tới bậc hoàn thiện, trước hết thường phải trải qua hai thứ đêm chính yếu, được người sống theo tâm linh gọi là những cuộc thanh luyện và thanh tẩy linh hồn, ở đây chúng tôi gọi là đêm, bởi vì trong cả hai thứ đêm ấy, linh hồn như thể bước đi trong đêm, trong bóng tối.
2 - Đêm thứ nhất hay cuộc thanh luyện thứ nhất thuộc phần dễ cảm của linh hồn, được bàn tới trong ca khúc này và trong phần thứ nhất của sách này. Đêm thứ hai thuộc phần tâm linh, sẽ được nói tới trong ca khúc thứ hai tiếp sau; và chúng tôi sẽ bàn về mặt chủ động của nó trong phần hai và phần ba; còn mặt thụ động sẽ được bàn ở phần bốn.
3 - Đêm thứ nhất này dành cho những người mới bắt đầu, vào thời kỳ Thiên Chúa khởi sự đưa họ lên bậc chiêm niệm. Phần tâm linh cũng có dự phần vào đêm ấy, như sau này chúng tôi sẽ có lúc nói tới. Còn đêm thứ hai hay cuộc thanh luyện thứ hai dành cho những người đã tiến khá xa, vào thời kỳ Thiên Chúa muốn đưa họ lên bậc kết hiệp nên một với Thiên Chúa; và đây là một đêm tối tăm hơn, mù mịt hơn; và là một cuộc thanh luyện đáng sợ, như sẽ nói sau.

MINH GIẢI
4 - Đây là tóm tắt điều linh hồn muốn nói trong ca khúc này: Được Thiên Chúa lôi kéo, linh hồn đã ra đi chỉ nguyên vì yêu mến Ngài, được đốt cháy bằng tình yêu mến Ngài trong một đêm dày. Đêm ở đây tức là sự tước đoạt và thanh luyện khỏi mọi mê thích thuộc giác quan, liên hệ đến mọi thứ bên ngoài của đời này cũng như những gì đem lại khoái cảm cho nhục thể và thú vị cho lòng muốn. Tất cả những điều đó được thực hiện trong cuộc thanh luyện giác quan ấy. Linh hồn cũng nói thêm rằng nó ra đi khi ngôi nhà của nó đã yên hàn; tức là muốn ám chỉ phần cảm giác, các mê thích đã dịu xuống và ngủ yên trong linh hồn, và linh hồn cũng vậy, không còn quan tâm tới chúng nữa. Nó sẽ không ra khỏi những đau đớn dằn vặt do các mê thích gây ra trước khi những mê thích này giảm thiểu và ngủ yên.
Đó là lý do tại sao linh hồn bảo rằng số phận mình diễm phúc: Vì nó đã ra đi mà không bị để ý, tức là không bị bất cứ một mê thích nào của nhục thể hay một điều gì khác cản trở. Nó đã ra đi trong đêm, nghĩa là trong khi Thiên Chúa tước đoạt hết các mê thích ấy của nó, đối với nó, điều này đúng là một đêm tối.
5 - Thật là một vận may diễm phúc cho linh hồn khi được Thiên Chúa đặt vào đêm tối ấy, nơi phát xuất cho nó biết bao điều tốt và là nơi nó không sao tự mình mà vào được; vì không ai có thể tự mình loại trừ hết mọi mê thích để đến với Thiên Chúa.
6 - Đó là giải thích tổng quát về ca khúc này. Bây giờ chúng tôi sẽ đi vào từng câu, giảng giải từng câu một và sẽ trình bày những điều chúng tôi nhắm đến. Chúng tôi cũng sẽ làm như thế đối với các ca khúc khác, như tôi đã nói trong lời tựa, trước hết sẽ nêu ra từng tiết và giải thích, rồi đến mỗi câu của tiết ấy.
- Nguyên tác: Subida al Monte Carmelo của Thánh GIOAN THÁNH GIÁ. Bản dịch của NGUYỄN UY NAM và Lm. TRĂNG THẬP TỰ.

(Còn tiếp)