Thứ Ba, 28 tháng 10, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - 16 thế kỷ đầu của Kitô giáo - Thế kỷ 16: những con đường phân ly

 


ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN

+ 16 THẾ KỶ ĐẦU CỦA KITÔ GIÁO

17. Thế kỷ 16: những con đường phân ly

Cũng trong thời kỳ này, đang khi vận động đóng góp xây dựng thánh đường, nhiều nhà giảng thuyết đã lẫn lộn giáo lý về ơn cứu rỗi với giáo lý về thưởng phạt. Theo giáo lý Công giáo, Chúa Giêsu Kitô là Đấng cứu chuộc duy nhất và chúng ta được cứu rỗi là do sự chết và sự sống lại của Ngài mà thôi chứ không cần thêm công trạng nào của bất cứ ai khác. Người ta chỉ cần tin Chúa là được cứu rỗi tuy nhiên đức tin phải có việc làm kèm theo (x. Gc 2,17) và Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm (x. Mt 16,27). Thế nhưng các nhà giảng thuyết kia đã gây cảm tưởng là người ta có thể mua sắm ơn cứu rỗi bằng những nỗ lực cá nhân trong đó có việc hy sinh đóng góp xây dựng thánh đường. Thậm chí người ta đi tới chỗ gọi những biên nhận đóng góp là phiếu ân xá và có những nơi đã trở thành như việc buôn bán ơn Chúa.

Chính những bài giảng và những lạm dụng như thế đã gây nên phản ứng quyết liệt của phong trào Tin Lành, bắt đầu với linh mục Martin Luther, một tu sĩ có tâm tình tôn giáo sâu xa và có tài hùng biện. Năm 1517, ông đã phát khởi tại Đức một phong trào cải tổ tách rời khỏi lòng Hội thánh toàn cầu.

Có nhiều người nối gót ông, với những quan điểm hơn kém đôi chút. Những nhân vật chính là Zwingii (Uyn-li) người Thụy Sĩ và Calvin (Can-vanh) người Pháp, một con người rất nghiêm khắc và làm việc có phương pháp, thấm nhuần sâu xa lòng tôn kính uy quyền tuyệt đối của Thiên Chúa.

Cũng trong thế kỷ XVI, tại nước Anh, vì không có con nối dòng, vua Henry VIII xin phép Đức Giáo hoàng hủy bỏ hôn thú với bà Catherine để cưới một người vợ trẻ đẹp hơn tên là bà Anne Boleyn. Đức Giáo hoàng không chấp thuận. Vua Henry phẫn uất, quyết định cắt đứt liên hệ giữa Kitô giáo nước Anh với Đức Giáo hoàng. Quốc hội nước Anh phê chuẩn cuộc ly khai và tôn nhận vua Henry là thủ lãnh Kitô giáo tại Anh, tức là Anh Giáo. Sau đó vua Henry ly dị bà Catherine rồi cưới bà Anne Boleyn.

Trở lại với cuộc cải cách Tin Lành. Điều đáng tiếc là người ta đã phản ứng bằng cách thoát ly khỏi Hội thánh, trong khi vẫn có thể thực hiện việc cải tổ ngay trong lòng Hội thánh như những bậc khôn ngoan và nhiều vị thánh của thời này (kể cả nhiều vị thánh giáo dân) đã cổ võ: Erasmô là một linh mục đầy nhiệt huyết đã sáng suốt đứng ra truyền bá một con đường sống chừng mực, khôn ngoan và nhân ái, thánh Y Nhã Loyôla, một hiệp sĩ người Tây Ban Nha, đề xướng một con đường tích cực và hữu hiệu.

Trước nhu cầu cấp bách phải cải cách, Hội thánh đã triệu tập công đồng ở Trentô từ năm 1545 đến 1563. Tránh mọi hình thức cuồng nhiệt có tính cách bút chiến, công đồng đã trình bày rõ giáo lý Công giáo, xác định lại môt cách phiêm chỉnh các điều do phong trào cải cách Tin Lành gây ra. Đồng thời, công đồng bài trừ một số lạm dụng trong Hội thánh, chỉnh đốn lại việc đào tạo giáo sĩ và đặt tất cả vào khuôn phép.

(Còn tiếp)

- "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.

Thứ Hai, 27 tháng 10, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - 16 thế kỷ đầu của Kitô giáo - Năm 1300 -1500: tiếp tục thời kỳ Trung cổ

 


ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN

+ 16 THẾ KỶ ĐẦU CỦA KITÔ GIÁO

16. Năm 1300 -1500: tiếp tục thời kỳ Trung cổ

Vào thế kỷ XIV và XV, châu Âu trải qua nhiều khó khăn: chiến tranh 100 năm giữa Anh và Pháp, trận Dịch hạch Đen tàn sát hết một nửa dân số ở nhiều nơi.

Thời kỳ này, uy tín và quyền hành của Đức Giáo hoàng được các nước Kitô giáo cực kỳ tôn trọng. Từ năm 1309 đến 1376, vì Rôma xuống dốc và hỗn loạn, Đức Giáo hoàng dời giáo triều về Avignon trên đất Pháp, rồi vì những hoàn cảnh đáng tiếc, Giáo hội đứng trước thực trạng cùng một lúc có hai rồi ba Giáo hoàng thật và giả lẫn lộn, gây hoang mang cho các tín hữu. Hội thánh bị chia rẽ suốt 40 năm (1378 – 1417) với hai Giáo hoàng: một ở Avignon và một ở Rôma. gọi là cuộc ly khai phương Tây.

Đây cũng là thời của nhiều nhà tu đức và của nhiều vị đại thánh, trong các dòng tu, cuộc sống thật đơn giản và nghiêm khắc.

Về mặt xã hội, sau những thời kỳ biến động, cuối thế kỷ XV và đầu thế kỷ XVI, châu Âu lại thức tỉnh và được phục hưng với nhiều khám phá. Dân số tăng nhanh và bắt đầu có những điều kiện sống tốt hơn.
Nhờ khám phá ra la bàn và bánh lái, người ta có thể cho tàu thủy ra khơi thật xa bờ. ông Christopher Columbus khám phá ra châu Mỹ năm 1492 và ông Vasco da Gama tìm ra đường biển đi từ châu Âu sang Ấn Độ năm 1497. Các vị thừa sai cũng dùng đường thủy đi truyền giáo ở châu Mỹ Latinh và Viễn Đông.

Nhờ Gutenberg phát minh ra máy in, người ta có thể phổ biến rộng các tài liệu quan trọng, nâng cao sự hiểu biết của dân chúng. Người ta cũng tìm lại được các kho tàng văn chương cổ của Hy Lạp và Latinh. Các họa sĩ và các nhà điêu khắc đua nhau diễn lại vẻ đẹp của thiên nhiên, đặc biệt là các ông Raphael và Michelangelo.

Nhiều vị lãnh đạo trong Hội thánh cũng góp phần vào trào lưu này. Một số vị đi tới chỗ sống theo kiểu những ông hoàng, tham vật chất và quyền hành, và vì thế, họ rời xa những bận tâm của dân chúng đang lo sợ đủ thứ: chiến tranh, bệnh tật, chết chóc...

Hội thánh cảm thấy nhu cầu cấp bách phải cải tổ. Nhiều Kitô hữu đã lên tiếng nhắc nhở các Kitô hữu khác và cả các vị lãnh đạo Hội thánh nhớ lại các đòi hỏi của Tin mừng.

(Còn tiếp)

- "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.

Chủ Nhật, 26 tháng 10, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - 16 thế kỷ đầu của Kitô giáo - Lời xin lỗi không thể thiếu



ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN

+ 16 THẾ KỶ ĐẦU CỦA KITÔ GIÁO

14. Lời xin lỗi không thể thiếu

Về những lỗi lầm của giới Công giáo trong quá khứ, trước đây người Công giáo ngại nhắc đến, và nếu nhắc đến thì thường kèm theo nhiều lý lẽ biện minh. Thế nhưng Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã có thái độ hoàn toàn mới. Ngài cho lập ra những tiểu ban để nghiên cứu lại các vấn đề một cách khách quan. Suốt 27 năm làm Giáo hoàng (1978 - 2005), Ngài đã hơn 100 lần công khai lên tiếng xin lỗi về những lỗi lầm của các con cái Chúa trong lịch sử. Chẳng hạn như xin lỗi về vụ án Galilêô (1992), xin lỗi những phụ nữ bị xâm hại tình dục (1995), xin lỗi những người Do Thái đã bị các Kitô hữu ngược đãi (2000), xin lỗi những nạn nhân của Tòa Điều tra (2000), xin lỗi những người Hồi giáo bị sát hại do các cuộc Thập tự chinh (2000)... Nói chung, ngài đã thẳng thắn ngỏ lời xin lỗi đến hầu hết những ai đã phải chịu đau khổ do các Kitô hữu xuyên qua các thế kỷ lịch sử.

Cùng với Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, người Kitô hữu ngày nay cần thẳng thắn nhìn nhận những lầm lỗi quá khứ để khiêm nhường nhận rõ hơn sứ mạng phải làm chứng cho một Đức Kitô hiền lành và khiêm nhường trong lòng.

15. Cuộc cải cách bên trong

Tuy nhiên bên cạnh những điều đáng tiếc, các thế kỷ XII và XIII cũng được chứng kiến một sức sống mãnh liệt từ lòng Dân Chúa. Người ta kiến thiết những giáo đường lộng lẫy dâng kính Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Các hình chạm trố, kính màu, tranh tường là những bản tóm tắt về các đoạn Kinh thánh, các mầu nhiệm đức tin, các nhân đức... Đức tin của dân chúng bao trùm lên mọi sinh hoạt thường ngày. Các buổi lễ trở thành lễ hội của mọi người, với nhiều tập tục dân gian, cả đến kịch nghệ... Các tín hữu cũng bắt chước những cách thực hành đạo đức của các đan sĩ trong việc chay tịnh và cầu nguyện.

Song song, còn có cuộc cải cách từ bên trong. Đức Giáo hoàng Innôcentê III (1198 - 1216) triệu tập công đồng tại Latêranô (1215) quy tụ 1.200 giám mục và viện phụ, đẩy mạnh tông cuộc cải cách Hội thánh.

Thánh Bênađô (1090 - 1153) giúp phát triển dòng Xitô và góp phần rất lớn vào việc cải cách Hội thánh. Thánh Đa Minh (1170 - 1221) và thánh Phanxicô (1181 -1226) cổ võ nếp sống nghèo khó và đi khắp nơi giảng thuyết. Ngoài hai dòng Phan Sinh và Đa Minh, còn có dòng Cát Minh và Âu Tinh. Các tu sĩ đã tích cực ra đi truyền giáo và giảng dạy để đào tạo một lớp tín hữu mới.

Các vùng còn lại ở phía bắc châu Âu cũng đón nhận Tin mừng. Các tu sĩ Phan Sinh và Đa Minh tìm cách đối thoại với người Hồi giáo, và có một thời gian họ đã đem Tin mừng đến tận Trung Quốc.

Ở mỗi nước, Hội thánh thiết lập những trường học lớn gọi là trường Đại học. Các tu sĩ đảmnhận việc giảng dạy ở các Đại học. Thánh Tôma và thánh Bônaventura diễn tả mạc khải bằng những lập luận sâu sắc…

Các ngành nghệ thuật cũng lấy cảm hứng từ Kitô giáo, từ kịch nghệ, thủ công nghiệp cho đến kiến trúc... tạo nên một sự cân đối hài hòa cho thế kỷ XIII.

(Còn tiếp)

- "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.

Thứ Bảy, 25 tháng 10, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - 16 thế kỷ đầu của Kitô giáo - Thế kỷ XII và XIII: thời kỳ hồng phúc

 


ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN

+ 16 THẾ KỶ ĐẦU CỦA KITÔ GIÁO

12. Thế kỷ XII và XIII: thời kỳ hồng phúc

Vào thế kỷ XII và XIII, tại phía Tây, các vương quốc và thành phố không ngừng phát triển. Vượt qua các ranh giới, dân chúng châu Âu tất cả đều theo cùng một tôn giáo: Kitô giáo. Các dân tộc theo Kitô giáo có cảm tưởng được liên kết thành một khối: khối Kitô giáo (hoặc Nước Kitô). Toàn thể châu Âu nên như một đại gia đình con cùng Cha trên trời. Các Đức Giáo hoàng trở thành tôn sư trong toàn cõi Nước Kitô. Các vị ngày càng can thiệp vào mọi chuyện trong xã hội và trở thành trọng tài của các quốc gia.

Hội thánh ở phía Tây tiến triển mạnh với những tư tưởng mới, nhất là của nhà trí thức đầy nhân ái, thánh Alselmô ở Cantorbery vào khoảng năm 1100.

Nhiều tu viện và thánh đường nguy nga đầy nghệ thuật mọc lên khắp nơi. Hai vị thánh Bênađô và Phanxicô rất hiền lành và khiêm cung đã dẫn đạo cho nếp sống Tin mừng giản dị của thời đại. Thánh Tôma đã hoàn chỉnh một nền triết học Kitô giáo, ngài dùng chính lối suy tư của Aristote (mà người ta mới khám phá ra trong thời kỳ này) để trình bày sứ điệp Kitô giáo. Chế độ nô lệ đã giảm thiểu rất nhiều trong các thế kỷ vừa qua, nay hoàn toàn biến mất sau những cuộc chinh phục của các đạo quân thánh giá. Thật là một thế kỷ đầy hồng phúc, ngay trong hàng ngũ vua cũng có môt vị sống đời sống của một đấng thánh: vua Louis IX của nước Pháp.

Tuy nhiên, các cuộc thập tự chinh (đạo quân thánh giá) cũng có mặt trái. Khi người Thổ Nhĩ Kỳ theo Hồi giáo chiếm giữ đất thánh, không cho tín hữu đến hành hương, các giới chức Hội thánh đã tổ chức các cuộc viễn chinh mang danh nghĩa là "thập tự chinh" để giải thoát mồ Đức Kitô. Từ năm 1096 đến 1254 có 8 cuộc viễn chinh thập tự quân. Người ta đã khởi đầu với những ý định tốt lành, nhưng chiến tranh bao giờ cũng tàn khốc, gây nhiều thiệt hại đáng tiếc. Kết cuộc, mồ thánh vẫn không được giải thoát.

Một vết đen khác là ...

13. ...Thời kỳ điều tra

Cuối thế kỷ XI, Đức Giáo hoàng Grêgôriô VII (1073 - 1085) đẩy mạnh việc cải cách trong Hội Thánh, không để các vua quan can thiệp vào việc phong chức các giám mục và linh mục. Do ảnh hưởng cuộc cải cách ấy, xuất hiện nhiều nhóm tín hữu trở về nguồn Tin mừng, phản kháng lại sự giàu có xa hoa của nhiều vị trong hàng giáo sĩ thời bấy giờ. Thế nhưng, vì thiếu khả năng thần học và cư xử thiếu tế nhị, họ bị đẩy ra bên lề Hội thánh và tiến dần đến một phong trào tôn giáo quá khích. Đó là phong trào của những người Albigeois, chủ trương nhiều chuyện khắc khổ kỳ lạ và bài xích trật tự tôn giáo sẵn có. Toàn thể xã hội từ dân chúng đến quyền bính thế tục và cả các vị lãnh đạo Hội thánh đã nhất loạt chống lại phong trào đó.

Sau những tranh luận, các lạc giáo bị trấn áp bằng võ lực. Trước kia, với thánh Chrysostom (năm 400) và thánh Bênađô (năm 1150), Hội thánh đã không thể chấp nhận việc giết những người theo tà giáo, và đàng khác, Hội thánh chống lại án tử hình. Nhưng từ năm 1200, khi Hội thánh bị giáo phái Cathares đe dọa trầm trọng, thế quyền và giáo quyền đã cùng nhau liên kết chống lại tà giáo và dùng những phương tiện độc ác và bất công. Thế quyền chịu trách nhiệm kết án và hành hình, nhiều trường hợp người ta còn đốt nạn nhân trên một đống lửa. Thời kỳ Tòa Điều tra kéo dài 50 năm (1184 - 1233).

Ngày nay chúng ta tự hỏi: làm sao cộng đoàn Kitô hữu lại có thể xử với những kẻ khác ý kiến với mình như ngày xưa các hoàng đế Rôma đã đối xử với các tín hữu? Một lần nữa, chúng ta thấy rằng sự liên kết chặt chẽ trong thời đó giữa ích lợi của Hội thánh và ích lợi của xã hội thật tai hại, nó làm tổn thương rất nhiều đến những đòi hỏi bao dung và khiêm nhường của Tin mừng! Ngay các đạo binh Thánh giá, dưới nhiều khía cạnh, cũng như sự hiện diện của các nhóm hiệp sĩ tôn giáo, cũng khơi lên những lỗi lầm của xã hội Trung cổ. Tất cả những sự kiên ấy cho ta thấy Hội thánh vẫn còn là một nhân loại bất toàn, phải không ngừng lớn lên trong Thiên Chúa.

Bù lại, ngay trong thời kỳ đó, khắp nơi đã mọc lên những hiệp hội lo cho người ốm đau và nạn nhân chiến cuộc, để chống lại những hành vi hận thù gây nên bởi chiến tranh.

(Còn tiếp)

- "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.

Thứ Sáu, 24 tháng 10, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - 16 thế kỷ đầu của Kitô giáo - Năm 1054: đoạn giao giữa Hội thánh Đông phương và Hội thánh Tây phương



ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN

+ 16 THẾ KỶ ĐẦU CỦA KITÔ GIÁO

11. Năm 1054: đoạn giao giữa Hội thánh Đông phương và Hội thánh Tây phương

Trở lại với chặng đường lịch sử. chúng ta đã tới thế kỷ 11. Đế quốc Rôma phía Tây đã sụp đổ năm 476, nhưng sự cách biệt văn hóa giữa phương Đông và phương Tây vẫn còn đó.

Tiếng "phương Đông" nói đây nhằm nói đến vùng đất thuộc ảnh hưởng của đế quốc Rôma phía đông trước kia, tức là vùng Tiểu Á, với bốn (Syria), Giêrusalem (Do Thái) và Alexandria (Ai Cập).

Hoàn cảnh xã hội khác nhau cho nên nếp sống của Hội thánh phương Đông và phương Tây cũng có nhiều nét đặc biệt. Sự xa cách và hoàn cảnh chính trị và văn hóa cũng gây trở ngại cho việc truyền thông tư tưởng, nên cả trong việc xác định giáo lý lẫn việc thờ phượng thực hành (gọi là "phụng vụ") cũng như về vấn đề uy quyền Hội thánh (của Tòa thánh Rôma) mỗi bên có một số cách diễn tả khác nhau.

Khi Hội thánh được tự do khỏi thế quyền và quyền giáo hoàng được đề cao thì sự căng thẳng giữa hai bên Đông và Tây càng rõ rệt, và vào thế kỷ XI, sự đoạn giao bắt đầu. Năm 1054, tuy vẫn giữ nguyên vẹn giáo lý, Kitô giáo Đông Phương ly khai khỏi Tòa thánh Rôma, phủ nhận quyền tối thượng của Đức Giáo hoàng. Các Hội thánh Đông Phương ly khai này mang tên là Hội thánh Chính Thống Giáo, phát triển theo quốc gia với những tòa Thượng Phụ Giáo Chủ riêng, hiệp thông với vị Thượng Phụ đại kết tại Constantinople (nay là Istanbul). Đôi bên Công giáo và Chính Thống Giáo đã ra án tuyệt giao lẫn nhau.

Mãi chín thế kỷ sau, năm 1965, khi công đồng Vatican II kết thúc, lệnh tuyệt giao của đôi bên mới được tháo gỡ như dấu hiệu giải hòa để tiến đến hiệp nhất trở lại. Tòa Thánh Vatican nhiều năm tìm cách thắt chặt tình liên đới với Hội thánh Chính Thống Nga (gồm 165 triệu tín hữu trong tổng số 250 triệu tín hữu Chính Thống giáo) nhưng sự phản hồi từ phía này khá chậm. Năm 2009, Đức Tân Thượng phụ Kirill tại Nga quan tâm hơn tới việc hiệp nhất các Giáo Hội. Đồng thời giữa Đức Giáo hoàng Bênêđictô 16 và Đức Barthôlômêô, Thượng phụ Đại kết tại Istanbul, vốn có quan hệ mật thiết hơn, tiến trình hiệp nhất ngày càng khả quan hơn.

Giữa tháng 9/2010 đã có cuộc đàm phán quan trọng tại Vienna. Kết thúc, các thần học gia Công giáo và Chính Thống đều nói đến những bước tiến mới hứa hẹn sớm vượt qua cuộc chia cắt 1054 để đưa hai hệ phái Kitô giáo lớn nhất đến chỗ lại hiệp thông trọn vẹn với nhau. Các chuyên viên đồng ý rằng đôi bên trở thành những "Hội thánh Chị Em” nhìn nhận Đức Giáo hoàng Rôma là thủ lãnh danh dự tuy nhiên mỗi bên vẫn giữ lại những cấu trúc, phụng vụ và tục lệ đã phát triển riêng biệt hàng ngàn năm qua. Các vị trưởng phái đoàn nhấn mạnh rằng sự hiệp nhất vẫn còn xa tuy nhiên sự hợp tác đã tiến nhanh giữa Hội thánh Công giáo Rôma và các Hội thánh Chính Thống.

Sự kiện Hội thánh Chính Thống Giáo và Hội thánh Công giáo đang tiến gần tới hiệp nhất sau gần 1.000 năm chia cắt, cho thấy Hội thánh thật sự là công trình của Thiên Chúa và được Thiên Chúa trao cho những sứ mạng hết sức cao cả.

(Còn tiếp)

- "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.

Sơn Tinh Thủy Tinh

 








Mới đào cái ao ở vườn sau để nâng đất lên chưa được mấy tuần mà đã bị ngập rồi!

SƠN TINH THỦY TINH

Đất lên, thì nước cũng lên;
Song tinh Sơn Thủy hai bên tranh tài.
Rồi ra ai sẽ thắng ai?


Thứ Năm, 23 tháng 10, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - 16 thế kỷ đầu của Kitô giáo - Hội thánh và Quốc gia

 


ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN

+ 16 THẾ KỶ ĐẦU CỦA KITÔ GIÁO

10. Hội thánh và Quốc gia

Những tiêu cực trên đây của lịch sử cho thấy cần phải có sự phân biệt giữa thần quyền và thế quyền, về vấn đề này, Chúa Giêsu dạy: "Hãy trả của hoàng đế cho hoàng đế và của Thiên Chúa cho Thiên Chúa” (Mt 22.21). Dưới ánh sáng ấy của lời Chúa, ta thấy Hội thánh và Quốc gia độc lập với nhau. Trong lịch sử, đã có những vị lãnh đạo Hội thánh dây mình vào chính trị, nhưng lập trường cố hữu của Hội thánh là đứng ngoài những tranh chấp chính trị. Để thấy rõ điểm này, tôi xin trích lại những nguyên tắc mà công đồng Vatican II đã nêu ra trong hiến chế mục vụ "Hội thánh trong thế giới ngày nay” số 76: "Vì lý do chức vụ và thẩm quyền của mình, Hội thánh không thể bị đồng hóa với một cộng đồng chính trị, và cũng không hề cấu kết với bất cứ hệ thống chính trị nào, vì Hội thánh vừa là dấu chỉ vừa là đảm bảo cho tính cách siêu việt của con người.

Cộng đoàn chính trị và Hội thánh, mỗi bên với lãnh vực riêng của mình, đều độc lập và tự trị. Tuy nhiên, dầu dưới danh hiệu khác nhau, cả hai đều cùng phục vụ con người trong sứ mệnh cá nhân và xã hội. Tùy theo hoàn cảnh và địa phương, nếu cả hai càng duy trì được sự cộng tác lành mạnh, thì càng phục vụ lợi ích của con người một cách hữu hiệu hơn. Thật vậy, con người không phải chỉ thu hẹp trong nhãn giới trần gian. Tuy sống trong lịch sử nhân loại, con người vẫn mang một sứ mệnh vĩnh cửu. Được thiết lập trong tình yêu của Chúa Cứu Thế, Hội thánh có sứ mệnh làm cho công bằng và bác ái lan tràn trong mỗi dân tộc và giữa các dân tộc. Khi rao giảng chân lý phúc âm và lẩy giáo lý và chứng tích đời sống các Kitô hữu soi sáng mọi lãnh vực sinh hoạt con người, Hội thánh cũng tôn trọng và cổ võ tự do chính trị cũng như trách nhiệm của các công dân.

Tuy nhiên, ở bất cứ đâu và bất cứ thời nào, Hội thánh cũng phải được tự do rao giảng đức tin, truyền bá học thuyết xã hội của mình cũng như phải được dễ dàng chu toàn sứ mệnh của mình giữa loài người. Hội thánh cũng phải được quyền nói lên nhận định luân lý của mình về cả những vấn đề liên quan đến lãnh vực chính trị khi quyền lợi căn bản của con người hay phần rỗi các linh hồn đòi hỏi".

Cũng trong Hiến chế Mục vụ số 41, công đồng nhấn mạnh rằng: "Giữa các xã hội trần thế, điều Hội thánh nhắm đến là từng con người cụ thể, giúp cho phẩm giá và các quyền căn bản của họ được nhìn nhận, và giúp mỗi người đạt được cùng đích đời mình".

Tuy nhiên, nếu quyền bính của Nhà nước và Hội thánh phải được tách rời, thì ngược lại, đời sống công dân và đời sống tín hữu của người Công giáo lại không được tách rời. Chính là trong lòng dân tộc mình mà người tín hữu sống đức tin. Chính là với cương vị một người công dân mà người Công giáo thực hiện những đòi hỏi của Chúa. Vì thế, công đồng Vaticanô II nhắn nhủ:

"Người công dân phải nung nấu tinh thần ái quốc với lòng đại lượng và trung kiên chứ không hẹp hòi, nghĩa là làm sao để đồng thời vẫn quan tâm đến lợi ích của toàn thể gia đình nhân loại, một gia đình được liên kết lại bằng nhiều ràng buộc giữa các chủng tộc và quốc gia.

Tất cả các Kitô hữu phải ý thức về sứ mạng đặc biệt của mình trong cộng đoàn chính trị. Họ phải nêu gương sáng bằng cách phát huy ý thức trách nhiệm nơi chính mình và tận tâm phục vụ công ích" (Hiến chế mục vụ số 75).

Chính nhờ sự hiện diện của các tín hữu trong cộng đoàn chính trị cũng như trong mọi lãnh vực trần thế khác, mà trái tim của Hội thánh cùng rung một nhịp với những vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, để Hội thánh cùng đồng hành với toàn thể nhân loại trên con đường hoàn thiện thế giới, tiến về quê hương rạng ngời vinh quang Chúa.

(Còn tiếp)

- "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.

Thứ Tư, 22 tháng 10, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - 16 thế kỷ đầu của Kitô giáo - Từ năm 900 đến năm 1000: thời kỳ đen tối



ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN

+ 16 THẾ KỶ ĐẦU CỦA KITÔ GIÁO

8. Từ năm 900 đến năm 1000: thời kỳ đen tối

Thế kỷ X là thời kỳ đen tối của Hội thánh: Tây phương bị quân Mông cổ xâm lấn, việc chọn Giáo hoàng bị rơi vào tay mấy gia đình quý tộc tham lam, đã tạo nên những vị đại diện hết sức bất xứng giữa một Âu châu hoàn toàn suy đồi. Lịch sử Hội thánh ở những trang này thật bi thảm, đến nỗi giờ đây đọc lại, đôi khi đức tin ta tưởng chừng bị dao động, ta rùng mình tự hỏi: Hội thánh của Chúa mà như thế sao?

Quả thật, lịch sử Hội thánh (hay nói cách khác, Hội thánh Chúa trong lịch sử] có thể là một nâng đỡ đặc biệt mà cũng có thể là thử thách lớn lao nhất cho tấm lòng muốn nghe của con người. Người ta đến để nghe biết Thiên Chúa và yêu mến Ngài nhưng lại gặp một Hội thánh với tất cả thân phận yếu đuối của người phàm. Thực tại này có thể khiến người ta ngập ngừng nghi ngại, nhưng ngược lại, cũng có thể làm cho người ta càng nhận ra được tình thương và quyền năng của Thiên Chúa đối với Hội thánh: Nếu Hội thánh chỉ là một công cuộc thuần túy nhân loại, thì những cảnh tồi tệ ấy đã khai tử Hội thánh từ lâu, thế nhưng không, sau những đợt suy trầm, Hội thánh lại trỗi dậy. Nhờ đâu Hội thánh lại trỗi dậy, nếu không phải nhờ một sự can thiệp vượt trên các thế kỷ lịch sử, tức là sự can thiệp của Thánh Thần Thiên Chúa! Ước gì mỗi người sẽ đặt mình đối diện với Chúa Giêsu, để cùng rung động với Ngài trước những vết thương lịch sử và để Ngài giúp cho ta nhận ra được sự hiện diện của Ngài ngay giữa khi thuyền Phêrô bị vùi dập trong sương mù và giông bão (X. Mt 14,22-33).

9. Ơn gọi nên thánh

Nhìn lại những vết thương lịch sử cũng là lúc để ta nhớ lại ơn gọi nên thánh của mọi Kitô hữu.

Nên thánh trước hết có nghĩa là được tách riêng ra cho Thiên Chúa, hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Khi đáp lại lời Thiên Chúa mời gọi, người Kitô hữu được công chính hóa trong Đức Kitô nhờ đức tin và phép rửa tội, không phải vì công trạng riêng nhưng vì ý định ơn phúc của Thiên Chúa. Do sự kiện ấy, người tín hữu được trở nên thánh thiện trong chân lý. Tự bản chất và căn nguyên, họ thực sự trở nên con cái Thiên Chúa, được thông phần vào bản tính Ngài, nghĩa là họ được thuộc về Thiên Chúa. Do đó, mọi tín hữu, từ giáo phẩm tới giáo dân, đều có nhiệm vụ sống xứng đáng với sự thánh thiện ấy.

Tới đây ta có nghĩa thứ hai của sự thánh thiện, là "nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành" (Mt 5,48). Theo ý nghĩa này, thánh Phaolô khuyên chúng ta cố xứng đáng là những vị thánh (Ep 5,3). Trước hết, cần ra sức thoát khỏi mọi tội lỗi, xin Thiên Chúa thứ tha và gìn giữ. Rồi, "theo tư cách là thánh được Thiên Chúa chọn, hãy mặc lấy lòng lân mẫn biết chạnh thương, đức nhân hậu, khiêm nhu, hiền từ, đại lượng, (Cl 5,12), và dùng hoa trái của Chúa Thánh Thần để thánh hóa mình (GI 5,22).

Nên thánh là sống như Chúa Kitô, nên giống Ngài trong mọi sự, ra sức thực hiện ý muốn của Chúa Cha trong mọi sự, hết lòng lo tìm vinh danh Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.

Tất cả mọi thành phân Dân Chúa, từ giám mục, linh mục, đến mỗi một giáo dân đều được mời gọi nên thánh, gia tăng tình yêu Thiên Chúa và tha nhân bằng việc thi hành nhiệm vụ hằng ngày và bước theo con đường hẹp của Chúa Giêsu.

Đã có lúc người ta tưởng đâu như việc nên thánh chỉ dành cho tu sĩ, nhưng công đồng Vatican II nhấn mạnh nên thánh là nghĩa vụ của mọi người, không trừ ai. Mỗi một người, trong chức phận mình, đều được Thiên Chúa ban đầy đủ ơn lành và tạo cho điều kiện để nên thánh. Là cha mẹ, người ta phải nên những vị thánh phụ huynh, là thanh niên, nên thánh thanh niên, là thiếu niên nhi đồng, nên thánh thiếu niên nhi đồng. Mỗi người, nhờ công ăn việc làm của mình, nhờ những khổ đau và thử thách mình phải chịu, nếu biết tin tưởng đón nhận tất cả từ tay Cha trên trời và biết cộng tác với thánh ý Ngài, phục vụ trần thế để làm cho mọi người nhận biết tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, tất cả đều có thể nên thánh và là những vị thánh lớn.

Cũng chính nhờ ý chí nên thánh của nhiều Kitô hữu ngay giữa cơn khủng hoảng mà rồi những thử thách đã qua đi. Từ năm 909 tại miền tây nước Pháp có một tu viện Bênêđictô được thiết lập tại Cluny. Nét đặc biệt của tu viện này là ý chí muốn thoát ly khỏi mọi can thiệp của thế quyền trong lãnh vực thiêng liêng. Tu viện tự đặt mình dưới sự che chở trực tiếp của Đức Giáo hoàng. Sự thoát ly này đáp ứng được nhu cầu của đời sống Kitô hữu, nên dần dần nhiều tu viện khác được thiết lập, và chẳng bao lâu "dòng Cluny” đã lan rộng khắp Châu Âu. Sự phát triển tinh thần của dòng này đã có một ảnh hưởng lớn, tạo nên một thức tỉnh trong giới lãnh đạo và người ta thấy cần phải tìm cách phân chia thật rõ ràng giữa quyền bính thế tục và quyền bính của Hội thánh.

Kết quả đầu tiên của phong trào này là loại bỏ được ảnh hưởng của các hoàng đế và các quý tộc trong việc chọn Giáo hoàng cũng như trong việc chọn và bổ nhiệm các Giám mục.

(Còn tiếp)

- "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.

Thứ Ba, 21 tháng 10, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - 16 thế kỷ đầu của Kitô giáo - Trong thân phận lữ hành

 


ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN

+ 16 THẾ KỶ ĐẦU CỦA KITÔ GIÁO

7. Trong thân phận lữ hành

Thế rồi điều Chúa báo trước đã xảy đến.

"Nước Trời ví như chuyện người kia gieo giống tốt trong ruộng mình.25Khi mọi người đang ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào giữa lúa, rồi đi mất. 26Khi lúa mọc lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng xuất hiện. 27Đầy tớ mới đến thưa chủ nhà rằng: "Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy?" Ông đáp: "Kẻ thù đã làm đó!" Đầy tớ nói: "Vậy ông có muốn chúng tôi ra đi gom lại không?" 29Ông đáp: "Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. 30Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi." (Mt 13,24-30).

Cỏ lùng đã xuất hiện trong thửa ruộng lịch sử của Hội thánh. Người ta chạy theo lắm điều có vẻ tốt nhưng thật ra chỉ là những điều tốt chủ quan, có tác dụng phá hoại và làm hỏng công cuộc của Thiên Chúa.

Sự trợ lực của quyền bính chính trị thật nguy hiểm: các hoàng đế cũng xen mình vào việc cắt nghĩa sứ điệp Tin mừng, những người ngoài Kitô giáo bị bạc đãi, và lắm ông vua đã nhân danh Chúa Kitô mà thực hiện những cuộc chiến tranh chống các dân tộc khác. Hội thánh gặp nguy hiểm bị đồng hóa với một quyền hành thê tục riêng biệt nào đó và có thể làm mất đi vẻ đơn sơ và phổ quát của sứ điệp Tin mừng. Rất may là không khi nào con đường của Chúa Kitô hoàn toàn đồng hóa với trật tự chính trị. Nhờ đó, khi đế quốc Rôma phía Tây sụp đổ (năm 476), đức tin vẫn tiếp tục con đường của mình.

Nếu hiểu mùa thu của Hội thánh tương ứng với đám đất đầy gai trong dụ ngôn người gieo giống (x. Mt 13,3-8) thì mùa thu ấy đã bắt đầu rất sớm, từ năm 311 và kéo dài thật lâu. Đây là thời thử thách. Hội thánh không bị bách hại bằng gươm giáo nhưng được thanh lọc bằng bả phú quý vinh hoa (x. Mt 13,22).

a. Phương Tây

Tại phía Tây, sau khi chiến thắng quân Rôma, người Germani cũng đã đón nhận Tin mừng. Vua Clôvít của người Pháp được thánh Rêmi giám mục rửa tội năm 496 cùng với 3.000 quân nhân của ông.

Các vị vua về sau, nhất là Đại đế Carôlô (năm 800) đã cố gằng thiết lập những liên lạc vững chắc giữa Kitô giáo và quyền hành thế tục. Sự liên kết ấy, tuy có mang lại nhiều ích lợi dưới một vài khía cạnh, đã tạo nên những hậu quả đáng tiếc, nhất là những vụ cưỡng ép theo đạo. Tuy vậy, Hội thánh không đồng hóa với quyền hành thế tục nhưng đã vượt hẳn ranh giới đế quốc: các vùng Ái Nhĩ Lan, Anh Quốc, miền nam nước Ý, một phần Tây Ban Nha và toàn thể Hội thánh ở phương Đông không lệ thuộc đế quốc đó. Hơn nữa, tại đế quốc đó, ngay trong thời Đại đế Carôlô, Đức Giáo hoàng và các giám mục vẫn giữ được vai trò lãnh đạo Hội thánh.

Vào thế kỷ X, châu Âu đã nhận biết Tin mừng nhưng vẫn còn man dã, nghề canh nông còn thô sơ không đủ nuôi sống mọi người nên vẫn thường xảy ra nạn đói và bệnh dịch. Các vua chúa và các liên bang cũng không kiểm soát được lãnh thổ họ thật hữu hiệu. Các lãnh chúa địa phương thường gây chiến với nhau, tàn phá mùa màng. Thay vì bảo vệ dân chúng, họ lại làm cho dân bị nghèo đói.

Trong cảnh khốn khổ đó của châu Âu, Hội thánh phải làm việc để loan báo Tin mừng bình an. Nhiều đan sĩ, linh mục và giám mục đã đem hểt sức mình để cải thiện hoàn cảnh sống của dân chúng.

Các đan sĩ sống thành những cộng đoàn theo sát Tin mừng. Họ dành nhiều thời giờ mỗi ngày để ca tụng Thiên Chúa. Họ khai phá những vùng đất mới, cải thiện kỹ thuật canh tác và nhờ đó họ sản xuất được nhiều hơn dân quê.

Khi gặp nạn đói, họ tiếp cứu dân quê. Vì thế, dần dần dân quê tụ tập lại quanh các tu viện và học cách canh tác với các đan sĩ. Đối với họ, tu viện trở thành trường học, bệnh viện, dưỡng đường. Nhiều thành phố đã thành hình theo kiểu đó. Ngoài ra trong các tu viện ấy, các tu sĩ ra công sao chép lại các sách xưa, và nhờ đó, họ bảo tồn những kho tàng phong phú của văn hóa Hy Lạp và Latinh.

b. Phương Đông

Tại phía đông, đế quốc Rôma vẫn đứng vững và được gọi là Byzance (Bi-giăng-xơ, tên cũ của thành phố Constantinople, nay là Istanbul], thấm đậm văn hóa Hy Lạp, nhưng Hội thánh ở phương Đông bị chặn đứng trước làn sóng Hồi giáo.

Khoảng năm 610, ông Mahomet khởi xướng Hồi giáo, chủ trương thờ độc thần dưới một hình thức rất đơn sơ và cứng rắn. Sự bành trướng của đế quốc Hồi giáo đã kéo theo sự tàn phá Kitô giáo tại nhiều vùng rộng lớn, như tại Bắc Phi, quê hương của thánh Augustinô, không còn di tích một giáo đoàn nào. Dù người Hồi Giáo không nhìn nhận mầu nhiệm Thiên Chúa làm người nơi Đức Giêsu Kitô, họ vẫn là anh em với các Kitô hữu trong việc tôn thờ một Thiên Chúa độc nhất.

Sau thời gian tê liệt, khoảng năm 1000 Hội thánh ở Đông phương đã truyền bá đức tin lên miền bắc, tức Liên Xô ngày nay.

(Còn tiếp)

- "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.

Thứ Hai, 20 tháng 10, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - 16 thế kỷ đầu của Kitô giáo - Hội thánh thâm nhập vào đời sống xã hội

 


ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN

+ 16 THẾ KỶ ĐẦU CỦA KITÔ GIÁO

6. Hội thánh thâm nhập vào đời sống xã hội

Tới cuối thế kỷ thứ III, Tin mừng đã lan rộng khắp Đế quốc Rôma. Đế quốc này bao quanh vùng Địa Trung Hải. Nhờ có quân đội hùng mạnh giữ an ninh, các xứ thuộc địa đều phát triển. Đường giao thông thuận lợi, việc qua lại giữa các thành phố lớn được dễ dàng, nên các Kitô hữu (người buôn bán, binh lính, nhà giáo, du khách) cũng theo đó mà đưa Tin mừng của Đức Giêsu đi khắp nơi.

Người Rôma thờ nhiều thần và thờ lạy cả hoàng đế. Họ có nhiều nô lệ. Luật của họ chho người chủ có quyền giết nô lệ của mình hoặc bắt nô lệ của mình hoặc bắt nô lệ thi đấu với sư tử, với hổ, để mua vui cho công chúng. Riêng những ai đã thành Kitô hữu thì chỉ thờ phượng một Thiên Chúa chân thật duy nhất mà thôi. Họ coi mọi người đều là anh em, kể cả các nô lệ và những người bị kết án tử hình.

Cách sống của các Kitô hữu có vẻ khác lạ như vậy cho nên họ thường bị bách hại. Cũng có những Kitô hữu bị khủng bố đã từ bỏ đức tin, nhưng đa số họ đều bằng lòng chịu đau khổ và chịu chết vì Danh Chúa Giêsu: Ta gọi họ là các vị tử đạo hoặc các chứng nhân đức tin. Khởi từ một nhóm nhỏ những người đánh cá vùng Biển hố Galilê, các môn đệ Chúa Giêsu đã lan tràn khắp đế quốc Rôma. Thực tế ấy thật đúng với lời dụ ngôn Chúa đã báo trước:

"Nước Trời tựa như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Tuy nó là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất; nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được."(Mt 13,31-32).

Năm 285, hoàng đế Diocletian chia đế quốc thành hai nửa là đế quốc Rôma phía Tây và đế quốc Rôma phía Đông. Phía Đông nói tiếng Hy Lạp, phía Tây nói tiếng Latinh. Đế quốc Tây Rôma sụp đổ vào năm 476, còn đế quốc Đông Rôma tiếp tục tồn tại trong thời Trung cổ và chỉ bị tiêu diệt vào năm 1453 khi Medhed II của đế quốc Ottoman chinh phục thành Constantinople.

Năm 311 hoàng đế Constantinô của đế quốc Rôma gia nhập Kitô giáo. Hội thánh được hưởng thái bình. Nhiều nhà thờ huy hoàng lộng lẫy được thiết lập từ thời ẫy vẫn còn cho tới ngày nay, như đền thờ thánh Phaolô ở ngoại thành Rôma, đền thờ Đức Bà, vương cung thánh đường Giêrusalem… là những chúng tích của nền kiến trúc Kitô giáo thời ấy.

Kinh thánh lúc đầu được viết bằng tiếng Hípri và Hy Lạp, nay được thánh Giêrônimô dịch sang tiếng Latinh, vì lúc đó rất nhiều nước nói tiếng Latinh.

Nhiều bộ óc vĩ đại trình bày sứ điệp Kitô giáo trong những tác phẩm bất hủ. Ta gọi các ngài là những thánh giáo phụ. Các ngài vừa là những nhà tư tưởng vừa là những người lãnh đạo các giáo đoàn.

Tinh thần Tin mừng đã thấm vào xã hội, đem lại một não trạng về công bằng và bác ái. Hội thánh đã thực sự là điều Chúa báo trước: "Nước Trời cũng giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men" (Mt 13,33).

Trong thời này, Hội thánh phải đối đầu với những nhóm ly khai và lạc thuyết. Nhóm ly khai trầm trọng nhất, rộng rãi nhất và kéo dài nhất là lạc thuyết Arianô, do linh mục Ariô khởi xướng. Nhiều công đồng đã được triệu tập để giải quyết các vấn đề hệ trọng. Năm 325, các giám mục họp công đồng Nikêa ở Tiểu Á, long trọng công bố đức tin của Hội thánh. Từ đó ta có các kinh Tin Kính.

Theo gương thánh Antôn, có những Kitô hữu đã quyết tận hiến đời mình cho Thiên Chúa. Họ sống cô tịch trong sa mạc. Nhiều người khác theo chân thánh Baxiliô ở phương Đông và thánh Biển Đức ở phương Tây, sống thành cộng đoàn, cùng nhau cầu nguyện, làm việc và sống thinh lặng: đó là các đan sĩ.

(Còn tiếp)

- "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.