ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN
+ 16 THẾ KỶ ĐẦU CỦA KITÔ GIÁO
6. Hội thánh thâm nhập vào đời sống xã hội
Tới cuối thế kỷ thứ III, Tin mừng đã lan rộng khắp Đế quốc Rôma. Đế quốc này bao quanh vùng Địa Trung Hải. Nhờ có quân đội hùng mạnh giữ an ninh, các xứ thuộc địa đều phát triển. Đường giao thông thuận lợi, việc qua lại giữa các thành phố lớn được dễ dàng, nên các Kitô hữu (người buôn bán, binh lính, nhà giáo, du khách) cũng theo đó mà đưa Tin mừng của Đức Giêsu đi khắp nơi.
Người Rôma thờ nhiều thần và thờ lạy cả hoàng đế. Họ có nhiều nô lệ. Luật của họ chho người chủ có quyền giết nô lệ của mình hoặc bắt nô lệ của mình hoặc bắt nô lệ thi đấu với sư tử, với hổ, để mua vui cho công chúng. Riêng những ai đã thành Kitô hữu thì chỉ thờ phượng một Thiên Chúa chân thật duy nhất mà thôi. Họ coi mọi người đều là anh em, kể cả các nô lệ và những người bị kết án tử hình.
Cách sống của các Kitô hữu có vẻ khác lạ như vậy cho nên họ thường bị bách hại. Cũng có những Kitô hữu bị khủng bố đã từ bỏ đức tin, nhưng đa số họ đều bằng lòng chịu đau khổ và chịu chết vì Danh Chúa Giêsu: Ta gọi họ là các vị tử đạo hoặc các chứng nhân đức tin. Khởi từ một nhóm nhỏ những người đánh cá vùng Biển hố Galilê, các môn đệ Chúa Giêsu đã lan tràn khắp đế quốc Rôma. Thực tế ấy thật đúng với lời dụ ngôn Chúa đã báo trước:
"Nước Trời tựa như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Tuy nó là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất; nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được."(Mt 13,31-32).
Năm 285, hoàng đế Diocletian chia đế quốc thành hai nửa là đế quốc Rôma phía Tây và đế quốc Rôma phía Đông. Phía Đông nói tiếng Hy Lạp, phía Tây nói tiếng Latinh. Đế quốc Tây Rôma sụp đổ vào năm 476, còn đế quốc Đông Rôma tiếp tục tồn tại trong thời Trung cổ và chỉ bị tiêu diệt vào năm 1453 khi Medhed II của đế quốc Ottoman chinh phục thành Constantinople.
Năm 311 hoàng đế Constantinô của đế quốc Rôma gia nhập Kitô giáo. Hội thánh được hưởng thái bình. Nhiều nhà thờ huy hoàng lộng lẫy được thiết lập từ thời ẫy vẫn còn cho tới ngày nay, như đền thờ thánh Phaolô ở ngoại thành Rôma, đền thờ Đức Bà, vương cung thánh đường Giêrusalem… là những chúng tích của nền kiến trúc Kitô giáo thời ấy.
Kinh thánh lúc đầu được viết bằng tiếng Hípri và Hy Lạp, nay được thánh Giêrônimô dịch sang tiếng Latinh, vì lúc đó rất nhiều nước nói tiếng Latinh.
Nhiều bộ óc vĩ đại trình bày sứ điệp Kitô giáo trong những tác phẩm bất hủ. Ta gọi các ngài là những thánh giáo phụ. Các ngài vừa là những nhà tư tưởng vừa là những người lãnh đạo các giáo đoàn.
Tinh thần Tin mừng đã thấm vào xã hội, đem lại một não trạng về công bằng và bác ái. Hội thánh đã thực sự là điều Chúa báo trước: "Nước Trời cũng giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men" (Mt 13,33).
Trong thời này, Hội thánh phải đối đầu với những nhóm ly khai và lạc thuyết. Nhóm ly khai trầm trọng nhất, rộng rãi nhất và kéo dài nhất là lạc thuyết Arianô, do linh mục Ariô khởi xướng. Nhiều công đồng đã được triệu tập để giải quyết các vấn đề hệ trọng. Năm 325, các giám mục họp công đồng Nikêa ở Tiểu Á, long trọng công bố đức tin của Hội thánh. Từ đó ta có các kinh Tin Kính.
Theo gương thánh Antôn, có những Kitô hữu đã quyết tận hiến đời mình cho Thiên Chúa. Họ sống cô tịch trong sa mạc. Nhiều người khác theo chân thánh Baxiliô ở phương Đông và thánh Biển Đức ở phương Tây, sống thành cộng đoàn, cùng nhau cầu nguyện, làm việc và sống thinh lặng: đó là các đan sĩ.
(Còn tiếp)
- "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.


0 nhận xét:
Đăng nhận xét