Thứ Tư, 22 tháng 10, 2025

Để Hiểu Đạo Chúa Hơn - 16 thế kỷ đầu của Kitô giáo - Từ năm 900 đến năm 1000: thời kỳ đen tối



ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN

+ 16 THẾ KỶ ĐẦU CỦA KITÔ GIÁO

8. Từ năm 900 đến năm 1000: thời kỳ đen tối

Thế kỷ X là thời kỳ đen tối của Hội thánh: Tây phương bị quân Mông cổ xâm lấn, việc chọn Giáo hoàng bị rơi vào tay mấy gia đình quý tộc tham lam, đã tạo nên những vị đại diện hết sức bất xứng giữa một Âu châu hoàn toàn suy đồi. Lịch sử Hội thánh ở những trang này thật bi thảm, đến nỗi giờ đây đọc lại, đôi khi đức tin ta tưởng chừng bị dao động, ta rùng mình tự hỏi: Hội thánh của Chúa mà như thế sao?

Quả thật, lịch sử Hội thánh (hay nói cách khác, Hội thánh Chúa trong lịch sử] có thể là một nâng đỡ đặc biệt mà cũng có thể là thử thách lớn lao nhất cho tấm lòng muốn nghe của con người. Người ta đến để nghe biết Thiên Chúa và yêu mến Ngài nhưng lại gặp một Hội thánh với tất cả thân phận yếu đuối của người phàm. Thực tại này có thể khiến người ta ngập ngừng nghi ngại, nhưng ngược lại, cũng có thể làm cho người ta càng nhận ra được tình thương và quyền năng của Thiên Chúa đối với Hội thánh: Nếu Hội thánh chỉ là một công cuộc thuần túy nhân loại, thì những cảnh tồi tệ ấy đã khai tử Hội thánh từ lâu, thế nhưng không, sau những đợt suy trầm, Hội thánh lại trỗi dậy. Nhờ đâu Hội thánh lại trỗi dậy, nếu không phải nhờ một sự can thiệp vượt trên các thế kỷ lịch sử, tức là sự can thiệp của Thánh Thần Thiên Chúa! Ước gì mỗi người sẽ đặt mình đối diện với Chúa Giêsu, để cùng rung động với Ngài trước những vết thương lịch sử và để Ngài giúp cho ta nhận ra được sự hiện diện của Ngài ngay giữa khi thuyền Phêrô bị vùi dập trong sương mù và giông bão (X. Mt 14,22-33).

9. Ơn gọi nên thánh

Nhìn lại những vết thương lịch sử cũng là lúc để ta nhớ lại ơn gọi nên thánh của mọi Kitô hữu.

Nên thánh trước hết có nghĩa là được tách riêng ra cho Thiên Chúa, hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Khi đáp lại lời Thiên Chúa mời gọi, người Kitô hữu được công chính hóa trong Đức Kitô nhờ đức tin và phép rửa tội, không phải vì công trạng riêng nhưng vì ý định ơn phúc của Thiên Chúa. Do sự kiện ấy, người tín hữu được trở nên thánh thiện trong chân lý. Tự bản chất và căn nguyên, họ thực sự trở nên con cái Thiên Chúa, được thông phần vào bản tính Ngài, nghĩa là họ được thuộc về Thiên Chúa. Do đó, mọi tín hữu, từ giáo phẩm tới giáo dân, đều có nhiệm vụ sống xứng đáng với sự thánh thiện ấy.

Tới đây ta có nghĩa thứ hai của sự thánh thiện, là "nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành" (Mt 5,48). Theo ý nghĩa này, thánh Phaolô khuyên chúng ta cố xứng đáng là những vị thánh (Ep 5,3). Trước hết, cần ra sức thoát khỏi mọi tội lỗi, xin Thiên Chúa thứ tha và gìn giữ. Rồi, "theo tư cách là thánh được Thiên Chúa chọn, hãy mặc lấy lòng lân mẫn biết chạnh thương, đức nhân hậu, khiêm nhu, hiền từ, đại lượng, (Cl 5,12), và dùng hoa trái của Chúa Thánh Thần để thánh hóa mình (GI 5,22).

Nên thánh là sống như Chúa Kitô, nên giống Ngài trong mọi sự, ra sức thực hiện ý muốn của Chúa Cha trong mọi sự, hết lòng lo tìm vinh danh Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.

Tất cả mọi thành phân Dân Chúa, từ giám mục, linh mục, đến mỗi một giáo dân đều được mời gọi nên thánh, gia tăng tình yêu Thiên Chúa và tha nhân bằng việc thi hành nhiệm vụ hằng ngày và bước theo con đường hẹp của Chúa Giêsu.

Đã có lúc người ta tưởng đâu như việc nên thánh chỉ dành cho tu sĩ, nhưng công đồng Vatican II nhấn mạnh nên thánh là nghĩa vụ của mọi người, không trừ ai. Mỗi một người, trong chức phận mình, đều được Thiên Chúa ban đầy đủ ơn lành và tạo cho điều kiện để nên thánh. Là cha mẹ, người ta phải nên những vị thánh phụ huynh, là thanh niên, nên thánh thanh niên, là thiếu niên nhi đồng, nên thánh thiếu niên nhi đồng. Mỗi người, nhờ công ăn việc làm của mình, nhờ những khổ đau và thử thách mình phải chịu, nếu biết tin tưởng đón nhận tất cả từ tay Cha trên trời và biết cộng tác với thánh ý Ngài, phục vụ trần thế để làm cho mọi người nhận biết tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, tất cả đều có thể nên thánh và là những vị thánh lớn.

Cũng chính nhờ ý chí nên thánh của nhiều Kitô hữu ngay giữa cơn khủng hoảng mà rồi những thử thách đã qua đi. Từ năm 909 tại miền tây nước Pháp có một tu viện Bênêđictô được thiết lập tại Cluny. Nét đặc biệt của tu viện này là ý chí muốn thoát ly khỏi mọi can thiệp của thế quyền trong lãnh vực thiêng liêng. Tu viện tự đặt mình dưới sự che chở trực tiếp của Đức Giáo hoàng. Sự thoát ly này đáp ứng được nhu cầu của đời sống Kitô hữu, nên dần dần nhiều tu viện khác được thiết lập, và chẳng bao lâu "dòng Cluny” đã lan rộng khắp Châu Âu. Sự phát triển tinh thần của dòng này đã có một ảnh hưởng lớn, tạo nên một thức tỉnh trong giới lãnh đạo và người ta thấy cần phải tìm cách phân chia thật rõ ràng giữa quyền bính thế tục và quyền bính của Hội thánh.

Kết quả đầu tiên của phong trào này là loại bỏ được ảnh hưởng của các hoàng đế và các quý tộc trong việc chọn Giáo hoàng cũng như trong việc chọn và bổ nhiệm các Giám mục.

(Còn tiếp)

- "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.

0 nhận xét: