Linh
đạo của phong trào Focolare
Linh
đạo của các thành viên Focolare thì hoàn toàn khác biệt. Được khai sinh ở tỉnh
Trento nước Ý, trong thời đệ nhị thế chiến, hiện nay phong trào Focolare được
truyển bá trên khắp thế giới và tác động, dưới nhiều hình thức, hàng triệu người
ở những cấp độ dấn thân rất đa dạng. Phong trào bắt nguồn từ một nhân vật mà hiện
nay danh tánh đã được rất nhiều người biết đến: Chiara Lubich. Người ta đã sống
linh đạo của bà rất lâu trước khi linh đạo này được đem ra phân tích. Ta có thể
tóm tắt nó xoay quanh một số chủ đề chính.
Chúa
Giêsu ở giữa chúng ta
Các
thành viên Focolare ưu tiên dành một mối ràng buộc quan trọng với sự hiện diện
thiết thực và gần gũi của Chúa Giêsu trong thế giới loài người: Gèsu in mezzo,
như cách nói của người Ý. Không có gì xa cách với suy nghĩ của họ hơn là tin rằng
Ngài vắng mặt khỏi thế giới mà Ngài đã tạo dựng nên và khỏi lịch sử mà Ngài là
chủ tể. Chúa là và vẫn là vị Chúa gần gũi, hôm qua cũng như hôm nay. Và “nơi”
mà Ngài mạc khải sự hiện diện của mình một cách đặc biệt hơn hết là bí tích
Thánh Thể. Phong trào và vị sáng lập ra nó cũng rất yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể.
Nếu các thành viên không rước lễ hằng ngày, hoặc ít nữa là rước lễ thường
xuyên, thì phong trào sẽ chẳng là gì cả; vì việc rước lễ tạo ra một sự biến đổi
tâm linh không thể diễn tả nơi người Kitô khi họ hợp nhất với Đức Chúa của
mình:
Thánh Thể [...] tạo nên một sự hợp
nhất của người tín hữu với Thiên Chúa, vượt xa sự hợp nhất của bí tích Thánh tẩy:
nó dẫn đến việc đồng hóa về mặt bản thể [assimilation substantielle]. Dĩ nhiên
phải hiểu điều này với sự tôn trọng khoảng cách giữa Đấng Tạo Hóa với kẻ được tạo
thành. Không có sự trộn lẫn thể lý giữa người rước lễ và Đức Kitô, nhưng có sự
đồng hóa huyền nhiệm, tuy thiêng liêng mà có thực, cho phép ta nói rằng có sự đồng
hóa “thân thể”.
Nhưng
Chúa Giêsu không chỉ hiện diện trong Thánh Thể mà thôi: Ngài cũng còn hiện diện
trong người anh em, với người anh em: “Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân
danh Thầy, thì có Thầy ở đó, giữa họ” (Mt 18,20). Một trong những điểm mạnh của
phong trào là ở chỗ dựa vào sự tái khám phá tình yêu của Thiên Chúa hiện diện
giữa những người tụ họp nhân danh Ngài. Là hệ quả của điều này, tình yêu thương
huynh đệ như cũng được tái khám phá và giữ những chiều kích mới. Như vậy đoàn sủng
tình yêu thương huynh đệ là một trong các dữ kiện nền tảng của các thành viên
Focolare: “Tình yêu thương anh em của chúng ta là điều răn căn bản. Bất cứ hành
vi nào nếu được thực hiện bởi tình yêu thì đều có giá trị. Không có tình yêu
thương với anh em của chúng ta, mọi sự chúng ta làm đều rỗng tuếch.”
Sự
hợp nhất
Hơn nữa,
như có một huyền nhiệm ở trong tình yêu huynh đệ này. Thật vậy, không nên bám
vào những mối quan hệ hời hợt bên ngoài, nhưng hãy đạt tới vùng sâu thẳm của
người đang ở trước mặt tôi. Nói cách khác, cần phải “tạo sự hợp nhất” với người
ấy. Ở đó chúng ta chạm đến một ân sủng nền tảng của phong trào: sự hợp nhất.
Chiara Lubich hoàn toàn rõ ràng về điểm này:
Ơn gọi đặc thù của chúng ta là hợp
nhất; đó chính là đặc trưng của phong trào Focolare. Những khái niệm khác, những
cách nói khác có thể diễn tả theo một lối khác, chỉ trong một từ, rất thần
thiêng và tráng lệ, những cách thức khác nhau để đến với Thiên Chúa... Nhưng đối
với chúng ta, hợp nhất là lời tóm tắt linh đạo của chúng ta. Lời này chứa đựng
nơi mình mọi thực tế siêu nhiên khác, mọi điều răn khác, mọi thực hành và mọi
thái độ tôn giáo khác.
Sự hợp
nhất này, trước hết và rất hiển nhiên, là sự hợp nhất với Đức Kitô vốn đang được
cụ thể hóa trong bí tích Thánh Thể. Nhưng đó cũng còn là sự hợp nhất với người
anh em, trong sự hợp nhất này sự hiện diện của Đức Kitô sắp được tỏ lộ:
Nếu chúng ta được kêu gọi để đi
đến sự hợp nhất, thì đối với chúng ta, con đường dẫn đến Thiên Chúa là ngang
qua người anh em. Chính bằng lối đi này, đôi khi cũng âm u và tối tăm như một
đường hầm, mà ta đạt tới ánh sáng. Thiên Chúa yêu cầu chúng ta trải qua con đường
huyền nhiệm này để đến với Ngài.
Như vậy
người theo linh đạo Focolare được mời gọi vét rỗng bản thân, theo một cách nhất
định, khỏi chính mình, khỏi nền văn hóa, lối suy nghĩ, thế giới nội tâm của
mình, để nên “một” với người mà mình đối thoại. Đó là một sự khổ chế triền
miên, nhưng ta có thể làm được, vì qua sự lột trần này, chính Chúa Giêsu lớn
lên trong con tim mỗi người:
Đó là thập giá mà chúng ta phải
chọn hằng ngày, thập giá tuyệt vời nhất. Nó là sự sống dành cho chúng ta và những
người mà chúng ta yêu thương. Nếu được chia sẻ, nó trở nên sự sống ở giữa chúng
ta, là Chúa Giêsu.
Chúa
Giêsu bị bỏ rơi
Khi đòi
hỏi chúng ta từ bỏ bản thân, Đức Kitô đòi hỏi nhiều lắm, nhưng Ngài có thể đòi
hỏi như thế vì chính Ngài là người đầu tiên cảm nghiệm điều này. Trực giác về
“Chúa Giêsu bị bỏ rơi” là một điểm khác – trong một phần lớn chưa được xuất bản
– của linh đạo và hiện nay là của thần học về phong trào. Đó là một sự lập lại
và đào sâu về thần học Thập giá và các hệ quả của nó.
Quả
thật, đối với Chiara Lubich, khi Đức Kitô nói, trên Thánh giá: “Lạy Cha, lạy
Cha, sao Cha bỏ con?” (Mt 27,46), Ngài chạm tới đáy sâu của sự cô quạnh ở một mức
độ khó tưởng:
Chúa Giêsu bị bỏ rơi là mẫu
gương của người nghèo về mặt tinh thần. Sự nghèo khó của Chúa Con, có thể nói,
là sự nghèo khó đến độ thiếu vắng Thiên Chúa; Chúa Giêsu không còn nhận thấy sự
hiện diện của Thiên Chúa nữa. Chúa Giêsu bị bỏ rơi là mẫu gương của sự từ bỏ và
khổ hạnh. Sự đau khổ của Ngài không chỉ ở mặt thể lý – là khổ hình thập giá -,
mà linh hồn Ngài cũng sống con đường núi Sọ, vì Ngài phải từ bỏ thực tế thân
thương nhất này: sự hợp nhất với Thiên Chúa. Đối với Chúa Giêsu, nó đề cập đích
xác tới một sự từ bỏ hoàn toàn Ngôi vị Chúa-Người của Ngài.
Như
ta thấy, đoạn văn này, vốn chỉ là một giữa rất nhiều đoạn khác, sẽ còn cần được
chú giải dài dòng. Nó đi rất xa. Như vậy, chính vì Chúa Giêsu bị bỏ rơi hợp nhất
với con người nơi bí tích Thánh Thể nên Ngài có thể yêu cầu các anh em của mình
sống trong tình trạng bị bỏ rơi dẫn đến hợp nhất này.
Tất cả
điều này hẳn nhiên đã có những hệ quả, và theo dòng thời gian, phong trào đã cải
biến chúng dưới hàng ngàn hoạt động hướng về đại kết, về một “kế hoạch hiệp
thông”, v.v. Các hoạt động này đã thay đổi cuộc đời của hàng ngàn người và đã
có những hệ quả trên toàn thể Hội thánh, những hệ quả mà các thế hệ tương lai sẽ
được hưởng ích lợi.
(Còn tiếp)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét