GIỚI THIỆU
Ai từng một lần chạm đến Vô Biên chắc cả ngàn năm sau cũng chẳng quên được giây phút hạnh phúc ngất ngây ấy. Dường như trong thời khắc đó người ấy không còn sống trong thân xác, bởi toàn thân đang hợp nhất với Cõi Thiêng. Hệ quả giác quan cảm nhận được là toàn thân nóng và sáng lên; con tim đập mạnh hơn, trí óc không sao kiểm soát được. Người ấy như chết lặng vì được Đấng Vô Biên yêu thương quá sức. Hạnh phúc quá đỗi! Người ấy như vừa “từ trời xuống”. Một cách đơn sơ, người ta gọi cái chạm nhẹ ấy là cảm nghiệm thần bí.
Người ta sẽ khát khao tìm kiếm cái hạnh phúc ngất ngây ấy nếu nó là thực tại có thể chiếm hữu được. Tuy nhiên, thật sai lầm cho người dám đem thân hữu hạn chiếm đoạt cõi vô biên, bởi chính khát vọng vĩnh cửu ấy cũng đến từ Đấng Vĩnh Cửu, và hạnh phúc vĩnh cửu chỉ được ban cho người biết đón nhận và kết hợp với Ngài trong tình yêu. Vậy nên, người khát khao vĩnh cửu là người biết đón nhận cuộc sống này trong niềm vui vĩnh cửu.
Người ki-tô hữu ý thức sự cao cả của mình trong hướng đích kết hợp với Thiên Chúa, hay được thần hóa. Họ sống ở trần gian mà cõi lòng chạm tới trời cao, vì được chính Đấng là Thiên đàng yêu thương quá đỗi, ngay trong những nhọc nhằn và gai góc của phận người. Người ki-tô hữu trong thế giới tục hóa hôm nay càng cần được khích lệ để biết đi vào với sự huyền nhiệm nơi Thiên Chúa.
Có hai con người, một nam một nữ. Họ đã sống cuộc đời rất bình dị trong không gian chật hẹp của đan viện Cát-minh Tây Ban Nha, thế mà tâm hồn họ lại thường xuyên vượt không gian đến tận cõi vô biên. Trong cõi huyền nhiệm ấy, Thiên Chúa thông truyền cho họ chính Ngài và kết hợp đặc biệt với họ trong tình yêu. Vì được kết hợp với Thiên Chúa, họ cũng hòa hợp với nhau cách hoàn hảo về cả đời sống, công việc, giáo thuyết. Hai con người vĩ đại của lịch sử Ki-tô giáo thế kỉ XVI ấy là Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá. Cảm nghiệm thần bí mà các ngài để lại đã làm cho các ngài được nhìn nhận là những vị thánh thần bí của Hội Thánh Công Giáo.
Linh mục tự căn tính nhờ hiệu quả của bí tích Truyền Chức Thánh được trở nên một Alter Christus – Chúa Ki-tô khác – được nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô mục tử. Linh mục thi hành chính sứ vụ của Chúa Ki-tô là kết hiệp muôn dân với Thiên Chúa Cha. Hơn bất cứ người nào, linh mục mang trong mình sự thánh thiêng của Thiên Chúa, ngài phải nỗ lực sống và làm lan tỏa tình yêu thánh thiêng ấy. Nếu đức ái mục tử là nguyên lý thống nhất đời sống và sứ vụ linh mục,[1] và do đó là con đường nên thánh của linh mục, thì điều quyết định là sự kết hợp giữa linh mục và Đức Ki-tô, và qua Đức Ki-tô linh mục kết hợp với Thiên Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần. Kết hợp như vậy là “thần bí” trong nghĩa rộng nhất và dễ tiếp cận nhất của từ này.
TỔNG QUAN VỀ THẦN BÍ KI-TÔ GIÁO
Trong thế kỷ XX, có nhiều cuộc tranh luận thần học về thần bí Ki-tô giáo xoay quanh hai vấn đề chính : Ki-tô giáo có phải là đạo thần bí không? Và phải chăng tất cả các ki-tô hữu đều đạt đến trình độ thần bí?[2] Thiết tưởng, trước khi tìm hiểu sự kết hợp huyền nhiệm giữa con người và Thiên Chúa, cần phải nhận rõ nền tảng, bản chất và đặc trưng của thần bí Ki-tô giáo. Tiếp đến, việc phân tích hành trình thần bí sẽ giúp khám phá ra cách thức Thiên Chúa ban ơn để kết hợp con người với Ngài. Cuối cùng, mối quan hệ giữa thần bí và hoàn thiện Ki-tô giáo là chủ đề đáng quan tâm hơn cả.
I. NỀN TẢNG VÀ BẢN CHẤT THẦN BÍ KI-TÔ GIÁO
Để hiểu bản chất thần bí Ki-tô giáo, cần truy tìm nguyên ngữ của từ thần bí. Rồi từ đó tìm hiểu những hiện tượng thần bí như xuất thần, ngất trí…. Ở đây việc khám phá nền tảng Thánh Kinh về thần bí có tầm quan trọng, vì nhờ đó mới có thể hiểu đặc trưng của thần bí Ki-tô giáo.
1. Khái niệm thần bí
1.1. Từ ngữ
Thần bí (hay huyền bí, huyền nhiệm) được dịch bởi từ mystica trong tiếng Latinh, tiếng Anh là mysticism, tiếng Pháp là mysticisme. Danh từ mystica không xuất hiện trong Thánh Kinh.[3] Hiểu như tính từ thì mystica bắt nguồn bởi động từ myo (che, bịt, giấu), hoặc bởi danh từ mysterium (huyền bí, mầu nhiệm).
Trong Thánh Kinh, thánh Phaolô có dùng từ mysterium để nói về chương trình cứu độ nơi Đức Ki-tô, nhưng không nói đến cảm nghiệm huyền bí khi bàn về sự kết hợp với Ngài. Như vậy có thể nói mặc khải Ki-tô giáo không biết tới thần bí và chiều kích huyền bí chủ yếu là yếu tố ngoại lai du nhập vào Ki-tô giáo. Tuy nhiên, về thực chất thần bí là sự kết hợp giữa Thiên Chúa và con người, điều này được diễn tả mức tột đỉnh nơi Đức Giêsu Ki-tô, theo nghĩa này thì thần bí nằm ở trung tâm của mặc khải Thánh Kinh.
Trong lịch sử Ki-tô giáo, từ thần bí cũng được áp dụng vào nhiều thực tại khác nhau. Thời các Giáo phụ, thực tại thần bí được gắn liền với mầu nhiệm căn bản là Đức Ki-tô. Đến thời cận đại, thần bí được hiểu về một cảm nghiệm hiệp nhất với Thiên Chúa. Cảm nghiệm thường được diễn ra trong khung cảnh cầu nguyện, đưa đến xuất thần.[4] Sang thời hiện đại, thực tại thần bí được đồng hóa với các hiện tượng thần bí, người ta thường chú ý đến những người được thị kiến hoặc được in dấu thánh (stigmata).
Ngày nay, giới nghiên cứu thường chia các nhà thần bí thành ba loại: thần bí tâm cảm, tiêu biểu là thánh Phanxicô Átsisi; thần bí trí năng, với đại diện là thánh Gioan Thánh Giá và Têrêsa Avila; và thần bí định hướng tông đồ với thánh Phaolô và thánh Inhaxiô Lôyôla là đại diện.[5]
Trong luận văn này, từ “thần bí” được dùng hoặc theo nghĩa hẹp hoặc theo nghĩa rộng. Nghĩa hẹp là sự kết hợp đặc biệt giữa Thiên Chúa và con người nơi Đức Giêsu Ki-tô, thường gắn liền với những hiện tượng ngoại thường. Nghĩa rộng là sự kết hợp giữa Thiên Chúa và con người hiểu như là bản chất đời sống tâm linh của mọi ki-tô hữu, và bất cứ ki-tô hữu nào cũng được mời gọi đào sâu và vun xới sự kết hợp này.
1.2. Kinh nghiệm, cảm nghiệm và đời sống thần bí
1.2.1. Kinh nghiệm thần bí
Xét như một thực tại tâm linh, kinh nghiệm thần bí là một nhận thức về hoạt động Thiên Chúa trong linh hồn. Kinh nghiệm thần bí là một kinh nghiệm thụ động, vì chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể tạo ra kinh nghiệm này trong người ta bằng sự hoạt động các ân huệ của Ngài.[6] Những kinh nghiệm này có khi được ghi lại có khi không. Những kinh nghiệm thần bí được ghi lại sẽ trở thành cảm nghiệm thần bí được chia sẻ của người đó, và họ được gọi là những nhà thần bí.
Người ta không đồng hóa nhà thần bí với tác giả thần bí. Nhà thần bí sống kinh nghiệm kết hợp với Thiên Chúa, nhiều khi họ giữ kín mối tình thân mật này chứ không quảng cáo rầm rộ. Lý do của sự kín đáo đó không chỉ do đức khiêm nhường thúc đẩy nhưng còn do chính bản chất của sự kết hợp thần bí. [7] Các tuyệt phẩm thần bí của Têrêsa Avila đều ra đời từ đức vâng lời của ngài với các cha giải tội. Cũng thế, các tuyệt tác thần bí của Gioan Thánh Giá chỉ được hoàn thành do sự khẩn nài của môn sinh và con cái thiêng liêng của ngài. Họ thực là các nhà thần bí trứ danh. Trong khi đó, nhiều tác giả thần bí có thể chẳng có tí kinh nghiệm thần bí nào cả. Họ nghiên cứu các tác phẩm của các nhà thần bí, phân tích và đối chiếu các cảm nghiệm, rút ra nhận xét dùng cho việc giảng huấn.
Như vậy, kinh nghiệm thần bí cần được xác nhận bởi cảm nghiệm về Thiên Chúa và cách thức truyền đạt cảm nghiệm đó cho người khác.
1.2.2. Cảm nghiệm thần bí
Không chỉ trong Ki-tô giáo mà ngay cả nơi các tôn giáo khác, các nhà thần bí đều đồng ý rằng đặc điểm căn bản của cảm nghiệm thần bí là tính khôn tả. Cảm nghiệm thần bí khác xa với các cảm nghiệm thường nhật, nên không thể dùng ngôn ngữ thông thường mà diễn tả.[8] Hơn nữa, cảm nghiệm thần bí thuộc về thế giới siêu việt, thuộc về tâm tình hơn là ý tưởng. Có khi nhà thần bí nhận được cảm nghiệm cách bất chợt, mà không giải thích nổi nguồn gốc của nó. Thánh Phaolô cũng ngập ngừng khi thuật lại cảm nghiệm thần bí của mình.[9]
Thực vậy, có nhiều người sống kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, mà chẳng thổ lộ cho ai biết hoặc không thể thổ lộ. Như vậy, có thể nói rằng người ta sẽ chẳng biết gì về thần bí nếu không có cảm nghiệm, hoặc những người đã cảm nghiệm không chia sẻ cảm nghiệm đó của mình. Thánh Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá thuộc vào số những người vừa có cảm nghiệm thần bí, vừa kể lại những cảm nghiệm ấy bằng ngôn ngữ thần học qua việc mô tả hình ảnh và tiến trình đã trải qua. Thánh Têrêsa gọi đó là ân ban đặc biệt của Thiên Chúa.[10]
Nói tắt, cảm nghiệm thần bí là ân huệ Thiên Chúa ban, để con người nhận biết sự kết hợp với Ngài đồng thời có thể lưu lại cảm nghiệm ấy cho người khác.
1.2.3. Đời sống thần bí
Nếu hiểu thần bí là sự kết hợp với Thiên Chúa, thì mọi ki-tô hữu đều được gọi vào đời sống thần bí. Đó là sự kết hợp thần bí nhờ thông dự vào mầu nhiệm Chúa Ki-tô qua các bí tích, và trong Người tham dự vào mầu nhiệm Ba Ngôi Chí Thánh.[11]
Đời sống thần bí là kết quả của cảm nghiệm thần bí. Chính những cảm nghiệm thần bí biến đổi đời sống con người, không những làm cho họ thuộc trọn về Chúa mà còn trở nên giống Chúa. Người đó làm mọi việc trong tình yêu Chúa. Cho nên, đời sống thần bí là đời sống trong Chúa, thuộc về Chúa vì được nên một với Ngài.
Ngoài ra, nhiều sách tu đức còn đề cập đến hành vi thần bí và tình trạng thần bí. Hành vi thần bí là một hoạt động ít nhiều mạnh mẽ của một ân huệ Chúa Thánh Thần. Có thể ví như một trận mưa. Còn tình trạng thần bí là hoạt động của các ân huệ Chúa Thánh Thần theo cách thức thần linh. Hoạt động đó trong tình trạng ổn định vững chắc, thường xuyên và đều đặn, được biểu hiện cách trổi vượt và rõ rệt hơn việc thực hành các nhân đức phú bẩm theo cách thức con người. Tình trạng thần bí được ví như cả mùa mưa.[12]
1.3. Các hiện tượng thần bí [13]
Các hiện tượng thần bí là các hiện tượng vật lý khác thường, gặp thấy nơi các thánh nhân, hoặc những người được Chúa tác động cách đặc biệt. Các hiện tượng này được phân chia theo ba quan năng của con người là tri trức, tình cảm và thân xác.
Trước hết, những hiện tượng thuộc loại tri thức bao gồm: Thị kiến, siêu ngôn, mặc khải, phân định tinh thần và thiên cảm. Thị kiến là hiện tượng nhìn thấy một đối tượng mà mắt thường không thể nhận thức được, như nhìn thấy Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria, các thánh hay các thiên thần. Thánh Têrêsa Avila phân biệt thị kiến tri thức và thị kiến tưởng tượng: Thị kiến tri thức là hiện tượng thấy rõ Chúa Ki-tô ở gần mình dầu không thể thấy Người dưới con mắt xác thịt hay linh hồn. Thị kiến kéo dài nhiều ngày, linh hồn nghe được tiếng Chúa nói mà không thấy hay tả được Thiên Chúa như thế nào. Còn thị kiến tưởng tượng là hiện tượng Thiên Chúa tỏ mình ra cho linh hồn theo cách mà linh hồn không thấy (có hình ảnh mà không nhìn thấy) về chính Nhân Tính Thánh thiện của Chúa Giêsu. Hình ảnh đó khắc ghi rất sâu vào trí tưởng tượng, không gì có thể xóa nhòa được.[14]
Siêu ngôn là hiện tượng nghe thấy một tiếng nói, một sứ điệp. Tiếng nói đó có thể phát ra từ bên ngoài người nghe hoặc được phán từ nội tâm. Mặc khải: thị kiến là thấy, siêu ngôn là nghe. Có hiện tượng vừa nghe và thấy thực tại thần linh gọi là mặc khải. Tuy nhiên, hai hiện tượng có thể tách rời nhau, như chỉ thấy một hình ảnh hay chỉ nghe một tiếng nói. Thần học đặt tên cho hiện tượng này là “mặc khải tư” để phân biệt với “mặc khải công” đã trọn vẹn nơi Đức Giêsu. Phân định tinh thần là ơn ban giúp phân biệt điều tốt điều xấu và ơn đọc được tư tưởng của người khác dù họ muốn giấu kín. Thánh Gioan Vianney và thánh Pio Pietrelcina khi ngồi tòa giải tội đã nhắc nhở hối nhân khi họ chủ tâm không xưng thú. Linh giác là khả năng nhìn thấy tính cách linh thiêng của một đối vật, như biết tấm bánh đã được truyền phép hay không.
Thứ đến là những hiện tượng thần bí trong lãnh vực cảm xúc có xuất thần và lửa mến. Xuất thần nghĩa là ra khỏi mình. Đây là hiện tượng đương sự bị thu hút bởi đối tượng chiêm ngắm, đến nỗi mất hết tương quan với thế giới hiện tại. Xuất thần là hiện tượng thần bí được nói nhiều hơn hết trong cảm nghiệm thần bí. Hiện tượng này có thể xảy ra chớp nhoáng hay kéo dài, tiệm tiến hay đột ngột. Khi xuất thần đương nhiên xẩy ra tình trạng ngất trí.
Theo thánh Têrêsa Avila, ngất trí là hiện tượng ân huệ Thiên Chúa tác động mạnh mẽ trên linh hồn, làm cho các giác quan ngừng hoạt động, tay và thân thể cứng lạnh, có khi thở có khi không. Hiện tượng chỉ kéo dài trong khoảnh khắc. Hậu quả của hiện tượng là ý chí hoàn toàn bị Thiên Chúa thu hút, trí thức hoàn toàn được biến đổi. Thánh nhân cũng cho rằng có một loại ngất trí khác gọi là phóng tâm – linh hồn nhận thấy một tác động mạnh mau lẹ đến nỗi tâm linh dường như đem vụt đi. Linh hồn cảm thấy mình ở trong một thế giới khác. Trong giây lát linh hồn biết được nhiều điều mà trí tưởng tượng và suy luận mất nhiều năm cũng không hiểu được một phần nghìn điều đó. Đó là cách Chúa thông đạt cho linh hồn không qua lời. Ở trong cơn ngất trí này, Têrêsa cũng không chắc linh hồn có còn ở trong thân xác nữa không[15]. Hậu quả của hiện tượng làm ý chí hoàn toàn bị Thiên Chúa thu hút, trí thức hoàn toàn được biến đổi. Lửa mến là hiện tượng ám chỉ ngọn lửa tình yêu bừng cháy trong con tim và tùy theo nồng độ lan tỏa ra môi trường.
Cuối cùng là những hiện tượng thần bí ảnh hưởng đến thân xác. Hiện tượng này thường gây ấn tượng với người xung quanh, dễ quan sát. Nó bao gồm: dấu ấn thánh, khinh hóa và các hiện tượng phát quang. Dấu ấn thánh là hiện tượng đương sự mang trên mình những thương tích của Chúa Giêsu. Chúng ta thấy chứng tích đầu tiên nơi thánh Phanxicô Átsisi, ngày 17 tháng 9 năm 1224. Rồi nơi thánh Anne-Catherine Emmerick (1774-1824), thánh Gemma Galgali (1878 – 1903), thánh Piô Năm Dấu (1887 – 1968). Nổi tiếng hơn cả là thánh Catarina thành Siena. Khinh hóa là tình trạng thân thể được nhấc bổng lên khỏi mặt đất, có khỉ chỉ vài gang tay, có khi cao hẳn như bay bổng. Trường hợp nổi tiếng nhất là thánh Giuse Copertino (1603-1663), thánh nhân không những “bay cao” vượt nóc nhà thờ mà còn xẩy ra khoảng 70 lần trong suốt cuộc đời, có lần trước sự chứng kiến của Đức Giáo hoàng Urbanô VIII. Cũng có những hiện tượng tương tự như di chuyển nhanh như bay, hoặc hiện diện một lúc ở hai nơi. Sau hết là các hiện tượng phát quang hoặc phát hương, nghĩa là sau khi chết cơ thể phát ra một luồng sáng hay hương thơm đặc biệt. Hiện tượng này xẩy ra nơi rất nhiều người chứ không duy chỉ các vị thánh đã được tuyên phong.
Điều quan trọng đáng lưu tâm không phải cứ người có hiện tượng thần bí là người ấy được ơn cảm nghiệm thần bí. Hiện tượng thần bí không thuộc về bản chất của thần bí, cũng không đồng nhất với việc kết hợp với Thiên Chúa. Có người chẳng có dấu hiệu gì về hiện tượng thần bí, nhưng lại tiến rất xa trên đường trọn lành, và luôn sống trong sự kết hợp với Thiên Chúa.
Nền tảng thần bí Ki-tô giáo
1.4. Thánh Kinh
Như đã nói, dù Thánh Kinh không dùng từ thần bí để chỉ sự kết hiệp với Thiên Chúa, nhưng thực chất của thần bí là sự kết hiệp với Thiên Chúa nơi Đức Giêsu lại là trọng tâm của mặc khải Thánh Kinh. Vì thế, muốn hiểu nền tảng thần bí Ki-tô giáo chúng ta không thể không tìm về nguồn gốc của sự kết hợp này trong Thánh Kinh.
Tân Ước trình bầy cho chúng ta một khuôn mẫu vô song về sự kết hợp nên một với Thiên Chúa là Đức Giêsu. Sự kết hợp trên cả bình diện hữu thể và tâm thức.[16] Được mời gọi tiến sâu trong sự kết hợp này, thánh Gioan và thánh Phaolô Tông Đồ giúp ta hiểu giá trị sự hiệp nhất đó trongtầm tay của con người.
Thánh Phaolô, qua các thư của mình đã đặt nền tảng đạo lý cho thần bí Ki-tô giáo khi nói đến sự kết hợp giữa các tín hữu với Đức Ki-tô.[17] Chính thánh nhân kể lại cảm nghiệm thần bí như hiện tượng xuất thần dù không hứng thú :
Phải tự hào ư? Nào có ích gì! Dù thế, tôi cũng xin nói về những thị kiến và mặc khải Chúa đã ban cho tôi.Tôi biết có một người môn đệ Đức Ki-tô, trước đây mười bốn năm đã được nhắc lên tới tầng trời thứ ba – có ở trong thân xác hay không, tôi không biết, có ở ngoài thân xác hay không, tôi cũng không biết, chỉ có Thiên Chúa biết. Tôi biết rằng người ấy đã được nhắc lên tận thiên đàng – trong thân xác hay ngoài thân xác, tôi không biết, chỉ có Thiên Chúa biết – và người ấy đã được nghe những lời khôn tả mà loài người không được phép nói lại (2Cr 12, 1-5).
Tuy nhiên, biến cố Đa–mát được coi như“tiếng sét tình ái”là mặc khải với đầy đủ ý nghĩa của hiện tượng thần bí, được thánh Phaolô kể lại với cả tấm lòng thành tri ân. Biến cố này đã ghi sâu và tâm khảm Phaolô, nên hễ có dịp là thánh nhân kể lại cho người khácnhư hồng ân.[18] Kể từ ngày đó, mối tương quan sống động mạnh mẽ và thân tình giữa Phaolô và Đức Ki-tô được thiết lập. Để rồi theo thời gian, mối tương quan đó trở thành sự hiệp thông nên một, đến nỗi Phaolôkhông ngại ngùng tuyên bố:“Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi”(Gl 2,20).
Thánh Gioan, người đặt nền tảng cho sự kết hợp thần bí Ki-tô giáo khi khẳng định Thiên Chúa đã đến gặp con người nơi Đức Ki-tô:“Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta”(Ga 1,14). Dù không dùng từ thần bí để chỉ sự kết hợp giữa Thiên Chúa và con người, nhưng thực chất thánh nhân đã mô tả sự kết hợp như cuộc gặp gỡ trong ý thức và yêu mến.[19]
Thánh nhân nói về sự kết hợp với Thiên Chúa nơi Đức Giêsu như cành nho với thân nho, và việc ở lại trong Chúa sẽ làm cho người môn đệ sinh nhiều hoa trái. [20] Việc kết hợp với Đức Giêsu cũng đồng nghĩa với việc đón nhận Ngài, nhờ đó mà được ở lại trong Chúa:“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy.” (Ga 6,56). Khi người ta tiếp nhận Đức Giêsu bằng việc “ăn thịt và uống máu Người” thì một cuộc trao đổi kỳ diệu đã xẩy ra: không những người ta được ở lại trong Người, mà chính Người chuyển ban sự sống thần linh cho ta:“như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,57). Với thánh Gioan, việc ở lại trong Chúa được thực hiện không chỉ nhờ việc đón nhận Ngài, nó còn được biểu lộ qua lòng yêu mến :“Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người.” (Ga 15, 9-10).
Cao điểm của sự hợp nhất được thánh Gioan đặt trong lời nguyện hiến tế, khi Đức Giêsu cầu xin cho môn đệ được nên một với Thiên Chúa Cha:“Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một.” (Ga 17,23). Như thế, sự kết hợp giữa con người với Thiên Chúa rõ ràng được thánh Gioan khẳng định là nhờ Đức Giêsu.
Ngoài ra, khi nói đến các nhà thần bí Tân ước, không thể không nói về Đức Maria và thánh Giuse. Về sự kết hợp với Thiên Chúa, chắc không ai có thể vượt qua được Đức Maria. Thử hỏi có ai đã gần Chúa Giêsu hơn Mẹ; ai hiểu Đức Giêsu hơn Mẹ, cũng chẳng có ai đã yêu mến Chúa Giêsu bằng Mẹ Maria; và ai đã thi hành ý muốn Thiên Chúa như Mẹ Maria. Nhưng cũng chưa có ai đã trải qua đêm tối tâm linh mạnh mẽ và quyết liệt như Đức Maria. Các nhà chú giải Thánh Kinh cho rằng Mẹ Maria bước vào đêm tối tâm linh ngay sau khi sứ thần từ biệt Mẹ ra đi trong ngày Truyền tin, nó kéo dài đến khi Mẹ đứng dưới chân thánh giá.
Với thánh Giuse, sự kết hợp với Thiên Chúa được biểu lộ qua sự vâng phục thánh ý Ngài trong thinh lặng và hành động của đức tin. Có thể nói ngoài Đức Maria chẳng ai đã đồng hành với Chúa Giêsu sát cho bằng thánh Giuse, nhưng cũng chẳng có ai bước đi trong đêm tối của đức tin mạnh mẽ và quyết liệt cho bằng thánh nhân. Nếu đêm tối thanh luyện giác quan và tâm linh người ta bằng sự vắng lặng và ẩn giấu của Thiên Chúa, thì đêm tối ấy lại thanh tẩy tâm hồn thánh Giuse bằng sự hiện diện gần sát của Ngôi Lời Con Thiên Chúa nơi Đức Giêsu “người con” hợp pháp của thánh nhân. Sự thanh luyện này mới thực là khủng khiếp, và trong cuộc thanh luyện ấy Thiên Chúa chỉ cho thánh Giuse thấy ánh sáng của Ngài trong mơ.[21]
1.5. Giáo Phụ
Nếu Thánh Kinh Tân Ước, cụ thể là nơi thánh Gioan và thánh Phaolô nhấn mạnh sự kết hợp với Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Ki-tô, thì sang thời các Giáo phụ đề tài kết hợp với Thiên Chúa được đặc biệt quan tâm.
Trước hết, điều này được ghi nhân nơi các tông phụ, đại diện là thánh Inhaxio thành Antiokia và thánh Polycarpo. Tư tưởng của các ngài vọng lại giáo huấn của các tông đồ: ki-tô hữu là người chia sẻ sự chết và sống lại của Đức Ki- tô. Thánh Inhaxio coi tử đạo là biểu hiện cao nhất của việc kết hợp với Đức Ki- tô. Vì sự tử đạo liên kết người tín hữu với Đức Ki-tô qua việc họa lại gương hy sinh trao hiến của Người. Đó cũng là tâm tình của thánh Polycarpo khi bị thiêu sống :“Con xin chúc tụng Chúa đã khứng ban cho con hôm nay và trong giờ này, được nhập vào số các vị tử đạo mà dự phần chén của Đức Ki-tô để được hưởng ơn phục sinh, và ơn không hề hư nát nhờ Thánh Thần mà sống đời vĩnh cửu”.[22]
Một bậc thày khác viết về thần bí Ki-tô giáo là Origen.[23] Origen mời gọi các tín hữu hãy tìm hiểu mầu nhiệm cao siêu của Thiên Chúa bằng cách suy gẫm Thánh Kinh. Tuy nhiên, phải đọc Thánh Kinh trong tâm tình cầu nguyện, nhờ đó khám phá ra nghĩa thần bí, ẩn sau nghĩa văn chương. Ý nghĩa ba chặng đường của hành trình thần bí được Origen giải thích khi đối chiếu với ba tác phẩm thi phú của Thánh Kinh : sách Châm Ngôn dạy luân lý và cách thực hành nhân đức, ứng với giai đoạn thanh luyện; sách Giảng Viên dạy cách chiêm ngắm Thiên Chúa đó là giai đoạn chiếu sáng; và sách Diễm Ca dạy cách kết hợp với Thiên Chúa trong giai đoạn kết hợp. Khi chú giải sách Diễm ca, Origen đã để lại cho hậu thế hình ảnh kết hợp với Thiên Chúa được ví như cuộc kết hôn nhiệm lạ giữa linh hồn và Đức Ki-tô.[24]
Hầu hết trường phái linh đạo Ki-tô giáo thời Trung cổ, ngay cả cảm nghiệm thần bí của Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá đều mang âm hưởng quan niệm này. Và cũng từ cảm nhận của Origen các giáo phụ dần dần phát triển các học thuyết khác nhau về sự kết hợp với Thiên Chúa.
Tiếp đến, vị giáo phụ đại diện tiêu biểu cho thần học thần bí Tây phương là thánh Augustinô. Đặc trưng của đạo lý thánh Augustinô về con đường lên tới Thiên Chúa là trở về với nội tâm. Nhờ sự hồi tâm con người nhận thức sự hiện diện của Thiên Chúa. Người ki-tô hữu nhờ Lời Chúa mà trở về với lòng mình, để gặp gỡ và đàm đạo với Thánh Linh, Đấng ngự trong linh hồn và là thầy dạy nội tâm.
Theo thánh Augustinô khi nhận thức được sự hiện diện Thiên Chúa trong mình, linh hồn cảm thấy an vui dịu ngọt, và dần dần được Chúa cho nếm hưởng cảm giác như hạnh phúc Thiên đàng. Để có được cảm nghiệm ấy con người cần luôn mong mỏi được vào nhà Chúa, khao khát được nhìn ngắm dung nhan Ngài, mặc dù chính Chúa khơi lên niềm khao khát ấy. Từ cảm nhận này, thánh nhân đã để lại lời cầu nguyện bất hủ:“Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa, và tâm hồn chúng con không được yên nghỉ cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa”.[25]
Thánh Augustinô mô tả hành trình lên đến Thiên Chúa có tính cách tiệm tiến, bao hàm nhiều cấp độ. Trong tác phẩm De vera religione, hành trình đó được so sánh với bảy lứa tuổi trong đời người; còn trong quyển De sermone Domini in monte, bảy cấp độ ấy được đối chiếu với các chân phúc và bảy ơn Chúa Thánh Thần.[26]
Như vậy có thể nói, cao điểm của đời sống nội tâm là trở về cô tịch lòng mình để kết hợp với Thiên Chúa, đó là tư tưởng tu đức của thánh Augustinô khi mới trở lại đạo. Với thời gian, tư tưởng ấy thay đổi, bởi thánh nhân đã cảm nhận được giá trị của việc tìm kiếm Chúa trong cộng đoàn, vì cộng đoàn mới là nơi ta thực hiện đức ái, cốt yếu của sự kết hợp với Thiên Chúa. Điều tuyệt vời nhất là thánh nhân đã đề cao vai trò của ân sủng Thiên Chúa tác động trên con người trong hành trình kết hợp này.
Cuối cùng, với các giáo phụ bên Đông, truyền thống nhấn mạnh nội tại siêu hình, điển hình là Grêgôriô Nyssa và Điônysius Areopagita. Hai tác giả theo khuynh hướng thần bí đêm tối. Hành trình tâm linh được ví như tiến trình từ hữu hình đến vô hình.
Grêgôriô Nyssa đã trình bày hành trình đi lên Thiên Chúa không chỉ từ “tối đến sáng”, mà còn “từ sáng đến tối”. Quả vậy, trong giai đoạn đầu của hành trình tâm linh, con người phải đi từ tăm tối của tội lỗi đến ánh sáng của đức tin. Ánh sáng đức tin giúp con người hiểu biết Thiên Chúa. Nhưng muốn biết hơn, con người lại phải hành trình từ ánh sáng đến đêm tối. Vì càng muốn biết thêm về Thiên Chúa con người lại càng thấy bất lực, không tài nào hiểu được sự cao siêu của Ngài. Đứng trước mầu nhiệm khôn dò của Thiên Chúa, trí tuệ con người như rơi vào tối tăm mù mịt.[27]
Người được nhắc tới nhiều trong thần bí Ki-tô giáo là Điônysius Arêôpagita, bởi tác phẩm văn chương Ki-tô giáo đầu tiên là Thần học thần bí được gán cho ông.[28] Ảnh hưởng của ông tới thần học thần bí rất sâu đậm. Theo Điônysius, Thiên Chúa được nhận biết qua thế giới hữu hình, qua thụ tạo. Chính mặc khải của Thiên Chúa cũng được diễn tả bằng ngôn ngữ loài người. Vì thế nó mang dấu tích của sự bất toàn. Ông đề nghị một cách thức nhận biết Thiên Chúa không bắt đầu từ thụ tạo mà bằng nẻo đường của tối tăm thinh lặng. Bởi Thiên Chúa là Đấng Siêu Việt tuyệt đối, cho nên trí tuệ loài người không thể biết được Ngài. Cách duy nhất để “biết” Thiên Chúa là “không biết”. Có điều, sự “không biết” ở đây không phải là ngu dốt u mê, nhưng là một cấp độ cao của sự “biết” Chúa : “biết” qua cảm nghiệm thần bí.[29] Cho nên, hành trình tiến đến sự kết hợp với Thiên Chúa được ví như đi vào tăm tối, bởi chính sự tăm tối linh diệu đó mang lại ánh sáng. Điều mà Điônysius gọi là “tia sáng của tối tăm”.
Có sử gia cho rằng thần học thần bí Ki-tô giáo bắt đầu từ Điônysius. Có ý kiến khác : thần bí Ki-tô giáo bắt nguồn từ Tân Ước, nhưng đến Điônysius mới được phân tích bằng phạm trù “thần bí”. Có điều, tác phẩm của Điônysius ảnh hưởng lớn đến thần học kinh viện Tây phương, và có lẽ cả nơi thánh Gioan Thánh Giá với tác phẩm Đêm tối của ngài.[30]
1.6. Giáo huấn Hội Thánh
Giáo huấn của Hội Thánh không trực tiếp nói về thần bí, nhưng Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Lumen Gentium đã khẳng định:“tất cả các Ki-tô hữu theo bất cứ bậc sống hay địa vị nào, đều được kêu gọi tiến tới sự viên mãn của đời sống Ki-tô giáo và đến sự trọn lành của đức ái”.[31] Nên thánh là kết hợp với Thiên Chúa và trở nên giống Ngài, là sống tương quan sống động và thân tình với Ngài, và đó là thần bí.
Để đạt được sự trọn lành ấy, Công đồng khuyến dụ:“phải sử dụng những sức lực của Chúa Ki-tô đã ban nhiều ít tùy ý Người để trở nên giống Người khi theo vết chân Người, và thực hành thánh ý Chúa Cha trong tất cả mọi sự, họ sẽ hết lòng làm vinh danh Thiên Chúa và phục vụ tha nhân”.[32] Công đồng xác quyết mọi ki-tô hữu đều được kêu mời và có bổn phận nên thánh, nên trọn lành theo bậc sống của mình. Tự bản chất việc nên thánh là một, dù đường lối nên thánh thì nhiều. Mỗi người tùy theo ơn Chúa ban, theo ơn gọi, môi trường sống mà đạt được mục đích này.[33]
Theo đường hướng ấy, sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo khẳng định rõ ràng khi viết: “Thiên Chúa kêu gọi tất cả chúng ta đến sự kết hiệp mật thiết với Ngài, mặc dù những ân sủng đặc biệt và những dấu chỉ ngoại thường của đời sống thần bí chỉ được ban cho một số người, để biểu lộ hồng ân nhưng không được ban cho mọi người”.[34] Như vậy, giáo huấn của Hội Thánh đã dung hòa hai quan niệm cho rằng: tất cả ki-tô hữu đều được được kêu gọi vào đời sống thần bí, và ơn gọi thần bí là một đặc ân chỉ dành riêng cho rất ít linh hồn ưu tuyển.
(Còn tiếp)
- Trích trong tác phẩm "Đời sống thần bí Ki-tô giáo qua cảm nghiệm của thánh Têrêsa Avila và thánh Gioan Thánh Giá" của Phêrô Tạ Văn Tuân.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét