- Hoàn hiệp (union
pleine)
Trong giai đoạn trước, lý trí,
trí nhớ và trí tưởng còn hoạt động được. Ðôi phen, một trong ba bị hút, nhưng
chỉ giây lát thôi. Hoàn hiệp bắt đầu khi các khiếu năng ngủ hết, mà ngủ không
hoàn toàn. Hoàn hiệp chỉ diễn ra chừng nửa giờ chi đó, nhưng đã ở trên đường
dẫn tới Ðính hôn (xuất thần), rồi Hôn nhân thiêng liêng.
Nói ngủ (sommeil des puissances)
như Tiên sa, cốt là để chỉ thứ tĩnh lặng của các khiếu năng đang bị hút vào
Chúa, ở bề sâu của hồn. Chúng như ngưng hoạt động, không để ý đến đời phía
ngoài và mình phía trong. Lý trí đôi khi cựa quậy, tìm xem cái gì đang diễn ra
mà kỳ diệu thế, nhưng rồi chẳng hiểu, nó lại nằm im. Có thể xem như yêu đấy, mà
chẳng rõ yêu gì và yêu cách nào. Vâng, khiếu năng gần như im lặng với tất cả,
trừ Chúa. Xác do đó bị ảnh hưởng: chân tay không cử động và đời sống thực vật
chậm lại, dù chưa có xuất thần.
Tuy hoàn hiệp diễn ra chừng nửa
giờ, nhưng tỉnh lại thì dường như mới bắt đầu thôi, bởi ý thức thời gian đã
mất. Tỉnh rồi thì biết rõ mình vừa ở nơi Chúa. Cảm nhận tuy không rõ nét, nhưng
ấn tượng rất sâu, đến nỗi không thể mờ phai theo chiều dài năm tháng.
Ðây là sức hút rất mạnh của Chúa
từ bên trong, mạnh hơn ở giai đoạn trước rất nhiều, nên vị ngọt cũng ngọt lịm
khác xa trong An tĩnh. Cả niềm xác tín về Hiện diện cũng thật lớn lao. Sự kết
hợp với Chúa gần như đã trọn vẹn, với kèm theo một an định sâu xa.
Con người luân lý vì thế đổi lốt
hoàn toàn, tới mức kỳ diệu. Lửa Ái nung nấu khiến anh phải gào lên trong tán
tụng bằng những lời bi bô, không thứ tự nào cả (Có gì giống như lời chúc tụng
bằng ơn dị ngữ trong buổi họp Thánh Linh), trong khi lòng cũng khát mong cho
mọi người tán tụng theo như thế. Yêu Chúa, anh rất quảng đại trong hy sinh, sẵn
sàng chịu điêu đứng vì Chúa, dù cái chết hay hỏa ngục, sẵn sàng làm những gì
khó nhất để tôn vinh Chúa, dù phải đảo lộn thế giới này. Nghĩ đến tội lỗi người
đời, anh như đứt từng khúc ruột và muốn xả thân cứu vớt.
Trong hoàn hiệp, trí năng như ngủ
hoàn toàn. Tuy chẳng hiểu gì, nhưng hành giả lại hiểu rất nhiều chỉ trong tích
tắc bằng thứ trực giác đầy bề sâu nó mang đến một cái biết "không chính
xác rõ ràng" kiểu Descartes, nhưng lại vượt xa mọi thứ biết trước đây. Do
trực giác, cũng là nghiệm giác ấy, những chân lý trừu tượng quen thuộc như
"Có Thiên Chúa", "Chúa có khắp chốn", "Tôi đến từ hư
không" nay bỗng thành hiển nhiên, cụ thể vô cùng.
Ở giai đoạn An tĩnh, chiêm hành
vẫn còn phân cách. Sau Hoàn hiệp, chị bắt đầu hành động với sự có mặt cảm thấy
của Chúa. Dẫu sao, hơi hướm Chúa từ chiêm ra đã mờ nhạt phần nào. Cả yêu người
cũng chưa thành một hẳn với yêu Chúa đâu. Trong hành động, Chúa vẫn còn khoảng
cách nào đó như vậy, khiến cho Satan vẫn quanh quẩn đâu đây, và sự cảnh giác cần
được duy trì. Trong giai đoạn này, Satan thường xuất hiện dưới lốt thần lành để
đưa anh xa dần ý Chúa và gần lại ý anh. Vậy thái độ cần cho anh là luôn trông
chờ "cho ý Cha thực hiện" !
- Xuất thần hay Ðính
hôn
Sức hút có thể tăng cường độ đến
nỗi các khiếu năng bị xâm chiếm hết, rồi cảm giác cũng cuốn theo. Ðây là trời
mưa, nên xảy ra vào lúc tôi không ngờ, mà cũng không cưỡng lại nổi.
Hồi đầu, chỉ có xuất thần sau lâu
giờ cầu nguyện. Sau này, chỉ cần một ý tưởng thôi, là đủ bốc thần lên khỏi xác.
Hồi đầu, xuất thần diễn ra từng đợt ngắn liên tiếp. Về sau, nó có thể kéo dài
một hơi suốt cả ngày.
Cũng hồi đầu, khiếu năng đôi lúc
còn cựa quậy; chứ sau đó, chúng an giấc hẳn, cả giác quan cũng thế luôn. Nhìn
từ ngoài, xem như đương sự ngất xỉu. Có điều nếu ngất xỉu, thì khiếu năng tắt
mạch, mà giác quan cũng ngưng tiếp xúc với thế giới. Chứ đằng này, tất cả chỉ
bị hút mạnh về phía trong, đến nỗi quên hết thảy. Một đôi khi, như trong trường
hợp Phan Sinh nghèo và Catarina Siena, đương sự có thể xướng lên mạc khải để
người ngoài ghi chép.
Trong Tự truyện, dù
nói đến ba chữ Xuất thần, Ðoạt thần và Phi thần, Tiên sa cho rằng chỉ có một
hiện tượng (dưới ba danh hiệu ấy) thôi. Nhưng theo diễn tả trong Lâu
đài, thì có vẻ đây là ba tiểu cấp khác nhau của Xuất thần, mà bước một là
Xuất thần đơn.
Với Xuất thần đơn (extase
simple), việc "lịm đi" diễn ra từ từ, với cảm nhận đau khổ vô song,
mà cũng sung sướng vô ngần. Trong giai đoạn này, huyền ngôn (paroles
surnaturelles) và mạc khải dễ xảy ra.
Việc xâm chiếm sẽ mạnh như gió
cuốn, đại bàng xớt mồi, khi tới cấp Ðoạt thần (rapt, ravissement). Cảm giác như
ngưng tắt khi ấy, bởi nếu cảm giác còn hoạt động bình thường, thì ắt xác chết
mất do không chịu nổi.
Khi Ðoạt thần quá mạnh, đến nỗi
thấy như hồn lìa khỏi xác, đất sụt dưới chân, thì đó là Phi thần (vol
d'esprit). Trong Phi thần, xác thường được nâng lên khỏi đất.
Trong Ðoạt thần hay Phi thần,
tình yêu có thể phụt lên thành tên lửa xuyên suốt, chỉ
trong nháy mắt thôi, mà đau không gì sánh nổi, sướng không sao tả được.
Nói chung, thì ở giai đoạn Xuất
thần, tình yêu không có vị ngọt thuần túy. Sướng khổ được cảm nhận đồng thời,
hòa lẫn với nhau. Thấy Chúa thật đáng yêu, mà khoảng cách lại còn đó, thì sướng
đấy cũng là rất khổ vậy. Chính vì yêu khát và khát yêu như lửa dễ bốc, nên hơi
tí là xuất thần ngay.
Dẫu sao, vàng vẫn chưa thuần
thành, nên luyện lọc còn phải tiếp, nhất là khi rời bỏ cung sáu sang Hôn nhân
thiêng liêng. Ðêm tối mà Chúa gửi lúc này thường là đêm tối tinh thần, nó cạo
rửa tới đáy sâu, nền tảng nhất, nên cũng rát đau kinh khủng, như địa ngục vậy.
Một trong những đêm tối như thế là cảm giác bị Chúa ruồng bỏ. Phải chăng đây có
gì giống với kinh nghiệm của Chúa Yêsu: "Cha ơi, sao nỡ bỏ con"?
Gần Chúa quá rồi, không thể vấn
vương gì với thụ tạo nữa. Yêu Chúa vì Chúa thực tình rồi, hồn chẳng muốn sướng
riêng cho mình, mà muốn mọi người cùng hưởng với mình. Vì Chúa, hồn có thể làm
những gì thật táo bạo.
Trong cung sáu nói trên, hồn gặp
nhiều huyền kiến, cả hình tưởng lẫn tuệ trí, nhờ đó đi sâu vào những mầu nhiệm
cao cả. Chỉ như một tia chớp lóe lên, và hồn nắm được ngay cả mớ chân lý, mà dù
một đời học hỏi cũng không có được, xét cả về khối lượng lẫn chiều sâu.
- Hôn nhân thiêng
liêng, hay Hóa hiệp (union transformante)
Ở đây, cùng với giác quan và thân
xác, các khiếu năng vẫn sinh hoạt bình thường. Chiêm không còn tách khỏi cuộc
sống, và giữa chiêm hành cũng chẳng có chi khác biệt. Chúa có mặt không từng
lúc như trước đây, mà thường hằng trong cảm nhận của anh, có mặt mà không làm
gián đoạn công việc nữa. Nghĩa là khi bận bịu, anh vẫn cảm nhận Chúa có đó một
cách phảng phất, như hai vợ chồng yêu nhau cùng làm bên nhau trong một gian
phòng. Kịp đến lúc rảnh rang, chỉ cần nghĩ tới, là anh lại "đối diện"
ngay với Chúa, thật sung sướng biết bao. Dù cường độ của "gặp gỡ" gia
tăng, nhưng bão táp thì chẳng còn. Yêu thật nhiều đấy, mà thuyền vẫn đằm, chứ
không đong đưa trên đầu ngọn sóng. Nghĩa là dù lửa lớn bên trong, dù cuồng
phong bên ngoài, một bình an sâu xa vẫn ngự trị và tỏa bóng tới ngoại diện con
người hành giả.
Từ đây, Chúa và hồn "tuy hai
mà một" khi mà nước mưa đã hòa với nước sông, và nước sông tới biển đã hòa
trong nước biển. Chúa và hồn như cũng trao đổi với nhau những quan tâm của đôi
bên. Chúa thì lo đến sự an toàn và lợi ích của hồn, khiến hồn thâm tín không
bao giờ bị Chúa bỏ, bị Chúa rút lại sự có mặt thường hằng của Ngài. Còn hồn thì
không còn thiết sống hay chết, địa ngục hay thiên đường, mà chỉ lo đến vinh
quang của Chúa và hạnh phúc của anh em.
Tình yêu Chúa quả không còn
khoảng cách với tình yêu anh em nữa. Hễ thấy ai khổ, là hồn khổ lây trong Chúa
nỗi đau khổ của họ. Hồn sẵn sàng dấn thân dù vào địa ngục để cứu nếu còn có thể
cứu. Lại dù yêu ai đến đâu, hồn không thể yêu ngoài Chúa, mà yêu vì hạnh phúc
của họ trong đức Yêsu Kytô.
Không bị treo nữa, nên các khiếu
năng dự vào những gì mà thần (noũs, esprit) đang hưởng. Trí năng có thể hiểu
đôi chút, bằng cách siêu thường, về những gì mà thần đang nghiệm tri. Có thể
nói cuộc sống trở nên một huyền nghiệm kéo dài. Và huyền kiến trong giai đoạn
này thường là huyền kiến tuệ trí về Ba Ngôi. Với hồn, Ba Ngôi có mặt khi thì
dưới dạng phân biệt (từng ngôi), lúc lại dưới dạng đồng nhất (một vinh quang,
một thể). Có thể có biểu tượng đi kèm: ngọn lửa hay đám mây sáng theo kinh
nghiệm Tiên sa Avila, hình tròn trắng hay trái cầu trắng trong kinh nghiệm
I-nhã.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét