Huyền Nghiệm Hành Ðộng
và Tiến Trình Ðức Ái
Như chúng ta thấy (ở chương 29),
huyền nghiệm mang tới một thanh lọc tận căn, đi đôi với sự nấu sôi đức Ái đến
độ chót. Sở dĩ được thế, là vì năng đức thiên phú tiến thẳng vào cuộc sống,
thay vì thấm vào từng giọt qua cố gắng tu thân của ta. Nhất là với tự ái và sức
nặng thể xác, chỉ có đêm tối mới nạo vét được tới đáy cái Tôi, chỉ có đức Ái
Chúa mới nâng cao tới sự nhẹ nhàng của tinh thần. Như thế, xem ra không thể nên
thánh nếu không qua mái trường huyền nghiệm.
Thế nhưng một tông đồ, ngày đêm
bù đầu với công việc làm sao có nhiều thì giờ và sự rảnh rang để chuyên chiêm,
hầu đạt tới ánh sáng chan hòa của huyền thức? Như chúng ta đã thấy (ở chương
29), để tới đỉnh cao là Hôn nhân thiêng liêng, phải trải qua những giai đoạn
"tập sự" và thanh luyện kéo dài ở An tĩnh, Hoàn hiệp, Xuất thần,
chúng gần như không cho phép làm gì, nói chi đến làm nhiều.
Thế thì phải chăng để nên thánh,
cần bớt việc tối đa, hầu có thể cầu nguyện rất dài, rất lâu? Quả thật, rất
nhiều thánh mục tử, như cha sở Ars, phải dành cả đêm để cầu nguyện, ngủ thì hầu
như không còn, mà ăn chỉ tí ti.
Có điều đâu phải mọi thánh đều
huyền tri, hay ít là huyền tri ở mức cao? Lắm vị, dù cầu nhiều đấy, mà chẳng
huyền nghiệm chi đáng kể, như trường hợp Vinh Sơn Phaolô, Phan Sinh Xavier,
Tiên Sa Lisieux, vv... Nghĩa là người ta vẫn thánh mà không xuất thần chi hết.
Vì thánh là ở đức hạnh, nhất là đức Ái, thế mà đức Ái cũng như mọi đức đều phát
triển bằng cả hành lẫn chiêm, với một bên nổi bật. Nghĩa là dù chiêm nhân cũng
phải phục vụ phần nào, dù hành nhân cũng có lúc phải tâm sự sâu xa với Chúa.
Quả thật, con người chỉ đáng người khi có đời sống nội tâm phong phú và đời sống
đạo đức sâu xa. Và có như thế, thì hành động của họ mới có một hướng đi thiêng
liêng thật.
Thế nhưng, để đức Ái phát huy hết
sức mạnh, nó phải vọt thẳng từ trong ra, từ Trời xuống, để thiên phú thay thế
dần đắc thủ. Khi thiên phú nhập cuộc để trực tiếp lèo lái cuộc đời anh như thế,
thì dù không sáng rõ một huyền thức, cũng phải chắc có một huyền nghiệm nào
rồi, và đây là huyền nghiệm hành động, nó nghiêng về sống nghiệm hơn là về
nghiệm tri (do đó khó hiển lộ ra).
Vì tính cách lờ mờ, sơ thoảng của
thứ huyền nghiệm này, cũng như vì hành nhân thiếu sự rảnh rang để quan sát nội
tâm, nên chẳng thấy ai ghi lại sự kiện, cũng như chẳng ai dựa vào để phân tích
cả.
Bởi đây là điều cần biết, lại
chưa có người khai phá, nên chúng ta đành mò mẫm vậy. Vì phải mò, nên dễ sai,
lại không có gì nhiều để nói. Bởi thế, phải xin lỗi bạn đọc trước khi múa
dìu...
Ðể tìm hiểu huyền nghiệm hành
động vốn chưa có người khai lối, có lẽ tốt nhất nên dựa vào những gì nghiệm
chiêm có thể cung cấp, mà bắt đầu là Hôn nhân thiêng liêng nó chẳng những là
tột điểm của huyền chiêm, mà tột điểm của huyền hành nữa. Vâng, ở Hôn nhân
thiêng liêng, không hề còn khoảng cách, thậm chí phân biệt giữa chiêm với hành.
Bởi lẽ ở đây người ta sống và nghiệm Chúa từ trong ra đến ngoài, từ trên xuống
đến dưới, từ tri thức sang hành động. Vâng, Hôn nhân thiêng liêng đúng là đỉnh
cao và điểm hẹn của cả hai con đường hành và chiêm.
Thấy huyền nghiệm hành động ở chỗ
hoàn tất của nó rồi, chúng ta có thể từ đấy, ngược dòng bằng suy tưởng về điểm
khởi phát để dựng nên những mốc đánh dấu bước tiến.
Hôn nhân thiêng liêng vừa là điểm
cực sáng của tri thức, vừa là điểm cực nóng của tình yêu, mà bước tiếp theo hẳn
là vĩnh phúc rồi. Kẻ theo đường chiêm, khi tới Hôn Nhân thiêng liêng, sẽ được
thôi thúc hành động cho "Nước Cha mở đến", khi mà hành động ấy không
còn ngăn trở anh chiêm hưởng Chúa. Kẻ theo con đường hành, lúc tới Hôn nhân
thiêng liêng rồi, cũng chiêm hưởng Chúa bằng chính công việc của mình. Ðúng như
các sứ đồ xưa, khi gặp Chúa (hiện ra) cũng là lúc được sai đi dạy dỗ và làm
phép Rửa.
"Hỡi
chị em, hồn mà Chúa chọn làm nơi ở đặc biệt, hồn ấy không còn biết đến nghỉ
ngơi, cũng chẳng màng danh lợi, không thiết được chuộng quý. Hồn luôn cận kề
bên Chúa, nên hồn chẳng nghĩ chi đến mình. Mối bận tâm duy nhất của hồn là làm
sao để làm vui lòng Chúa, là làm cách nào để biểu lộ tình yêu với Chúa đây. Mục
đích cầu nguyện là thế đấy, chị em ạ. Hôn nhân thiêng liêng luôn thúc ta làm
hết việc này đến việc khác, và đấy là dấu hiệu ơn Chúa".
Có điều hẳn bạn thắc mắc: Nếu Hôn
nhân thiêng liêng là kết quả của nhiều năm tháng nghỉ ngơi trong An tĩnh, Hoàn
hiệp và Xuất thần như thế, thì sao có thể đạt tới đấy kẻ trên đường phục vụ
luôn phải truân chuyên?
Xin thưa: Như Yoan Thánh Giá cho
thấy, huyền nghiệm không những là ánh sáng, mà còn sức nóng nữa. Nếu
Tín-Vọng-Ái ở chiêm nhân nghiêng về nghiệm trí, thì nơi hành nhân, chúng ắt
nghiêng về nghiệm cảm muốn, do đó các khiếu năng và quan năng chẳng cần ngưng
nghỉ, mà chỉ cảm tính vào cuộc thôi. Sự thanh luyện và tăng cường cho đức Ái
chỉ nhờ vào độ nóng của đức Ái ấy. Còn ánh sáng của Tri thì thoảng qua đôi lúc
cũng đủ.
Nếu trong chiêm, ánh sáng từ
trong hừng lên những độ sâu khác nhau, thì cũng ở những độ sâu khác nhau ấy mà
đức Ái bốc nóng cho hành nhân cảm nhận. Sự phân cấp huyền nghiệm, trong hành
cũng như trong chiêm, tùy vào những độ sâu nói trên. Nếu những độ sâu trong
nghiệm tri giúp xác định các giai đoạn An tĩnh, Hoàn hiệp, Xuất thần..., thì
trong cảm nhận của hành nhân, ắt cũng có gì vừa tương đương (xét theo độ nóng
êm của đức Ái, độ trơn tru của Thuận Thiên), vừa tương phản (như Ðộng đối
nghịch Tĩnh) với những hiện tượng ấy.
Trong chiêm, mỗi khi xuất hiện
một thứ ánh sáng mới, sẽ có một đêm tối chuẩn bị, thì trong hành, mỗi khi xuất
hiện một thứ lửa mới, cũng có những pha chuẩn bị, bằng cảm nhận đơn côi, vắng
lạnh, chắc thế, chúng phù hợp hơn với danh xưng "hoang mạc" (désert)
mà huyền nghiệm học Ðức dùng thay chữ Ðêm tối trên kia. Vậy, để đối lập với đêm
tối của chiêm, ta tạm dùng chữ Ðơn lạnh vậy.
Ðơn lạnh cấp một có thể là cảm
giác chán chường và vô vọng trong hành tác, mà không thấy nguyên nhân (tương
ứng với Ðêm tối giác cảm). Ðơn lạnh cấp hai sẽ là cảm giác tuyệt vọng, thấy như
Chúa bỏ ta và công việc ta làm, trao mặc nó cho ma quỷ. Vâng, Ðơn lạnh trong
Hành chắc tập trung vào đức Vọng, trong khi đêm tối tinh thần của chiêm nhân
thường tập trung ở đức Tin.
Cũng như Ðêm tối, sự Ðơn lạnh ấy
không thể không diễn ra khi đang từ sinh hoạt đức hạnh đắc thủ chuyển sang sinh
hoạt đức hạnh thiên phú. Có đơn lạnh, vì khiếu năng hành động chưa quen được
với những khách mới tới, do đó có vô cảm, trục trặc hay đất sụt lở dưới chân.
Có đơn lạnh khi vét nạo tới đáy để thanh lọc ý chí, tâm hồn, để thuần hóa con
ngựa bất kham là các khiếu năng tâm sinh lý cho một cuộc sống và hành động khác
trước.
Cốt lõi của nên thánh và hiệu quả
của tông vụ nằm ở Thuận Thiên: Thuận Thiên vì yêu. Sự Thuận Thiên phải đổi
chiều từ cố gắng của tôi làm theo ý Chúa, sang sáng kiến của Chúa hoạt động
thẳng trong ý muốn và hành động của tôi. Sức hút của ý Chúa ấy bắt đầu xâm nhập
ý chí tôi, để rồi từ ý chí lan sang các khiếu năng, khuynh hướng và năng lượng
tâm sinh mọi mặt, từ thẳm sâu ra tới cuộc sống, làm sao để cuối cùng, không còn
một đề kháng dù đức lý hay tâm lý, không còn một ma sát dù ở bề mặt hay bề sâu.
Ở điểm hoàn tất này, chúng ta có Hôn nhân thiêng liêng qua ngã đường hành động.
Trong Hành, giống như trong
Chiêm, trước huyền nghiệm sẽ trải dài một thời gian chuẩn bị, cả bằng tập đức
lẫn sửa thói xấu, nhất là vét rỗng tâm bằng những từ bỏ và thử thách nhiều mặt.
Ðây là Ðêm (chủ động) của giai đoạn Khởi và Tiến. Có điều đây là Khởi và Tiến
trong hướng tiến về Thành ở huyền nghiệm hành động, chứ không phải ở huyền
nghiệm chiêm hưởng.
Cũng như trong Chiêm, kẻ thực sự
ở trên tiến trình là kẻ ước muốn nên thánh, tận tâm tận lực vì Nước Trời. Kẻ
thực sự có ước muốn mạnh như thế dĩ nhiên là kẻ đang sốt sắng, nên làm việc
cũng hăng, mà nguyện cầu cũng hết sức.
Có điều cũng như trong Chiêm, kẻ
đang minh minh đức (via illuminativa) thường tàng giấu nhiều tự cao, tự ái, ỷ
mình và ưa tích lũy thiêng liêng, nghĩa là coi nên thánh như một cách làm giầu.
Thế rồi, trong khi mải mê công việc, họ có thể quên dần mục đích và ý nghĩa
siêu nhiên của nó, đến nỗi sinh "ghiền việc", lại muốn gắn nhãn hiệu
của mình trên công việc.
Khi ấy, những thử thách Chúa gửi
đến, những chống đối và trở lực gặp phải, sẽ giúp họ nhìn ra sự yếu đuối và bất
lực của mình. Trong tông vụ, họ chỉ là công cụ và "đầy tớ vô ích" khi
mà hiệu quả siêu nhiên chỉ có thể do một nguyên nhân siêu nhiên. Chỉ khi nào họ
hết hám danh, vụ lợi và tự ái, chỉ khi nào họ hết nương cậy vào sức mình mà chỉ
trông chờ ở Chúa thôi, Chúa mới vào cuộc hoàn toàn, để việc của họ nay trở
thành việc của Chúa.
Sự vét rỗng và thuần hóa bằng Ðêm
ấy ắt không thể đạt tới căn gốc con người. Ðể đạt tới căn gốc này, phải có sức
nóng thiên phú, do đó đêm tối hành động, tức Ðơn lạnh. Thấy đơn côi đấy, mà
thật ra có Chúa cận kề. Thấy lạnh lẽo đấy, mà thật ra nóng quá: tại chưa quen
sức nóng mới, nên vô cảm.
Ðức Ái thiên phú, cùng với bầu
đoàn thê tử các đức thiên phú khác đã nhập cuộc thẳng rồi. Chúng đến thế chân
các đức thủ đắc vốn quá yếu để hoàn tất việc tinh chế những "con người của
Chúa" (homme de Dieu), nhờ đó chuyển công việc của người thành công việc
của Trời. Vâng, huyền nghiệm hành động chẳng qua là hoạt động của các đức thiên
phú. Các đức ấy hiển lên nơi con người hành động bằng cái mà thần học kinh viện
gọi bằng tên Ðặc Huệ Thánh Thần (dons du Saint-Esprit). Qua đặc huệ và đặc
sủng, Thánh Thần nhảy vào dẫn dắt anh trực tiếp, để tự hành động trong công
việc của anh nay cũng thành công việc chính hiệu của Ngài.
Các đức thiên phú nói trên, bắt
đầu làm câm lặng cảm tính để thanh lọc, tinh chế và thuần hóa nó, cùng với các khuynh
hướng kèm theo, cho một phong cách hành động hoàn toàn mới. Việc của hành nhân
từ nay không còn là tự ý lèo lái công việc, mà buông mình theo tác động Thần
Khí để làm theo và làm với Thần Khí.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét