Thứ Năm, 26 tháng 10, 2017

Hành Trình Tâm Linh: Chương 7 - Các linh đạo khác nhau


Chương 7: CÁC LINH ĐẠO KHÁC NHAU

Tiếng Chúa gọi mỗi người thường kèm theo một tiếng gọi khác: tiếng gọi để sống trong một gia đình thiêng liêng đặc thù. Trong Hội thánh có khá nhiều “linh đạo” khác nhau. Sự việc không giống nhau khi ta là một tu sỹ dòng Cát Minh hoặc dòng Biển Đức, hay đối với một giáo dân, khi thuộc về các nhóm Mân Côi hoặc Canh tân Đoàn sủng. Tại sao vậy?

Tại sao có những linh đạo đặc thù?

Rất đơn giản. Mỗi một linh đạo diễn tả một khía cạnh đặc thù của mầu nhiệm Thiên Chúa và giúp cho người ta sống linh đạo ấy. Giống như nó biểu thị một mặt đặc thù của một viên kim cương vậy. Nhưng không linh đạo nào là chính viên kim cương này cả. Hoặc thêm một thí dụ nữa, mỗi một linh đạo giống như một cánh cửa đặc thù dẫn vào thế giới của Thiên Chúa. Mỗi cửa đều khác nhau, nhưng mục đích thì giống nhau. Như vậy Hội thánh tựa như một bó hoa xinh đẹp bởi sự đa dạng và tính duy nhất nền tảng của nó.

Mỗi linh đạo đặc thù tập trung vào những yếu tố sống được xem như quan trọng nhất, vào những chủ đề huy động, động cơ, để từ đó phát xuất ra tất cả những điều còn lại. Một số linh đạo đặt nền tảng trên khát vọng về ơn cứu độ con người, một số khác về Thánh giá Chúa Kitô, số khác nữa về lòng tín thác và Mẹ Maria, về sự cấp bách của việc đại kết, về hoạt động của Chúa Thánh Thần, về việc dấn thân trong mầu nhiệm Hội thánh, v.v... Thông thường, tất cả các yếu tố này phải có một liều lượng khác nhau nơi mọi linh đạo. Nhưng, như trong các món cocktail, chính liều lượng là cái tạo ra sự khác biệt. Thí dụ: Đức Maria sẽ có vai trò ưu tiên trong các linh đạo liên kết với thánh Louis-Marie Grignion de Montfort hoặc chân phước Cha Chaminade, nhưng Mẹ sẽ có một vai trò khác trong một linh đạo đại kết.

Những linh đạo khác nhau này thì quan trọng đối với chúng ta. Quả thật, việc chúng ta thuộc về một gia đình hiểu và nâng đỡ chúng ta là một điều rất tốt. Nhìn thấy những người khác sống cùng một điều chúng ta đang sống, có cùng sở thích thiêng liêng như chúng ta, chúng ta được khích lệ, chúng ta cảm thấy mình được hiểu và khuyên bảo tốt hơn. Cũng có đôi khi, đang có một đường hướng thiêng liêng chủ đạo, chúng ta có thể đón nhận một điều gì đó mạnh mẽ từ một hình thức thiêng liêng khác. Chắc hẳn, không nên lẫn lộn các linh đạo, cũng đừng hành động một chiều theo lối “hoặc... hoặc...”. Thường thường, Chúa tiến hành theo lối “và... và...”. Ngài khiến các yếu tố khác nhau xuất hiện để đem chúng lại gần nhau và quy chúng về một mối nếu điều ấy có ích cho dự phóng của Ngài.

Đây không phải là nơi bàn về tất cả các linh đạo. Việc này cần cả một bài khảo luận lịch sử đầy đủ. Trái lại, như một thí dụ, có thể nên nói về một hai linh đạo. Việc này giúp chúng ta xác định vị trí và tìm kiếm linh đạo của mình, hoặc đúng hơn, giúp chúng ta cầu xin Chúa chỉ dẫn hoặc xác định cho mình. Hãy lưu ý rằng không một linh đạo nào tự nó là tốt hơn một linh đạo khác. Đối với người có bổn phận sống một linh đạo, thì mọi linh đạo đã được Hội thánh chuẩn nhận đều dẫn đến sự thánh thiện. Điều cốt yếu là tôi biết được linh đạo nào mà Chúa muốn tôi theo. Các vụ đấu khẩu giữa các linh đạo là chẳng thú vị gì. Đó là những chuyện trẻ con và đôi khi chúng còn gây ra những hậu quả làm phương hại nặng nề đến sự hợp nhất của Hội thánh nữa.

Linh đạo của Trường phái Pháp

Thí dụ đầu tiên mà tôi muốn đưa ra là thí dụ của phong trào được gọi một cách không thích đáng là “Trường phái Pháp”, xuất phát từ thế kỷ XVII. Quả thật, những nghiên cứu lịch sử về linh đạo chỉ ra rằng nó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến đâu trong Hội thánh, đặc biệt qua các linh mục và rất nhiều hội như hội Nhà Tiệc ly của thánh nữ Thérèse Couderc hoặc hội Thánh gia của Cha Noailles. Cha sở họ Ars, trong số những cha khác, là người từng thấm nhuần linh đạo này. Nhưng có nhiều giáo dân trước đây cũng đã được nó tác động và hiện nay nó cũng đang tác động như thế, thường là một cách gián tiếp. Nó thực sự là một phương thế sâu xa để sống với Chúa.

Trường phái Pháp bắt nguồn từ Pierre de Bérulle (1575-1629), một trong những nhân vật tôn giáo thâm trầm nhất của lịch sử nước Pháp, là vị sáng lập hội Giảng thuyết Pháp và là người giới thiệu dòng Cát Minh Teresa vào nước này. Có những người làm thay đổi thế giới quanh họ. Bérulle là một trong số những người đó. Bourgoing, là môn sinh của ngài, nói rằng: “Người ta đã đánh giá ngài như một vị tuyên sấm , dường như thần khí của Chúa đã nói qua miệng ngài.”

Sự vĩ đại của Thiên Chúa và sự nhỏ bé của con người

Trong phần đầu của hành trình cá nhân, Bérulle bị đánh động bởi sự kiện đơn giản rằng Chúa là Chúa và con người chẳng là gì cả - hoặc đúng hơn con người tự mình chẳng là gì cả, nó chỉ là gì trong sự tham chiếu với Chúa và lệ thuộc vào Ngài. Như vậy Bérulle có một cái nhìn hướng rất thẳng lên Chúa, gợi lại một chút điều mà Chúa Giêsu từng nói với thánh nữ Catarina Sienna: “Con ơi, con hãy biết rằng Ta là Đấng tự hữu, và con là kẻ chẳng tự hữu.”. Gần chúng ta hơn, Maurice Clavel đã khám ra điều tương tự khi đọc Bérulle và ghi lại điều này trong nhan đề của một cuốn sách: Chúa là Chúa, tôn danh Chúa!

Bérulle cũng yêu cầu con người làm một cuộc cách mạng Copernic được tóm tắt trong lời nói đơn giản này: “Phải nhìn Chúa trước tiên chứ đừng nhìn vào chính mình.” Quả thật, chúng ta đang tự xây dựng cuộc đời cho chính mình trước hết. Nhưng chúng ta quên rằng mình chỉ là những thụ tạo, rằng chúng ta không tự sáng tạo chính mình, rằng chúng ta chỉ tồn tại qua mọi giây phút chỉ vì Chúa muốn thế, và rằng một ngày kia chúng ta sẽ trở về với Chúa. Đời sống của chúng ta, chính là Chúa. Nhận biết điều này, chính là đảo lộn trật tự của con người về các sự vật và trở về với “nhân đức tôn giáo”, nghĩa là trở về với việc nhìn cuộc đời một cách đúng đắn, bằng cách đặt Chúa ở khởi điểm và ở trung tâm mọi sự. Để làm điều đó, chúng ta phải có một con tim nhận biết thực tế nền tảng này. Bourgoing từng nói: “Điều mà Cha rất khả kính của chúng ta đã canh tân trong Hội thánh, cũng như phương tiện mà Chúa đã ban cho ngài để thực hiện nó, chính là tinh thần tôn giáo, là việc phụng tự tối cao bằng sự tôn thờ và lòng kính sợ.” Qua việc tôn thờ, ta phải nhận biết Chúa là Chúa tể và là Đấng Sáng tạo vũ hoàn, kết hợp với lời ca tụng về mọi điều mà Ngài đã ban cho chúng ta.

Như vậy trước hết con người là một kẻ tôn thờ. Chúng ta hiện diện trên mặt đất này chỉ là để tôn thờ, không những qua hành vi mà thôi, nhưng bởi chính bản chất, bởi tình trạng là người, với tất cả con người chúng ta. Chúng ta tôn thờ Chúa nhân danh cuộc sáng tạo mà trong đó chúng ta là các linh mục, nhân danh mọi người, và chúng ta liên lỉ cám ơn Chúa về những sự tốt lành và về tình yêu của Ngài đối với chúng ta. Đó chính là mục đích thứ nhất của cuộc đời con người. Quả thật, tự mình, chúng ta chẳng là gì cả, nhưng khi chúng ta bước vào trong ơn gọi đích thực của chúng ta, là ơn gọi tôn thờ Thiên Chúa, chúng ta đạt tới một sự vĩ đại không thể sánh ví ngay trên trần gian này.

Sứ mạng của Ngôi Lời nhập thể

Nhưng vấn đề là chúng ta thật sự không có khả năng yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa cho xứng hợp. Thiên Chúa thì vô cùng, và chúng ta thì rất đỗi bé nhỏ và chẳng có khả năng! Nên Chúa Cha đã sai phái Chúa Con xuống trần gian. Qua việc giáng trần và qua cái chết của Ngài, Ngài đã tôn vinh Chúa Cha theo cách mà rõ ràng không một ai có thể làm được. Chúa Giêsu cũng là Đấng tôn thờ đầu tiên. Từ đó mọi việc tôn thờ của chúng ta đều thông qua Ngài. Chúng ta như được bao gồm trong Ngài với mọi kinh nguyện của chúng ta:

              “Từ thuở đời đời, đã có một Thiên Chúa đáng tôn thờ vô cùng, nhưng vẫn chưa có một người tôn thờ vô cùng [...] Ôi Giêsu, giờ đây Ngài là Đấng tôn thờ ấy, là con người ấy, là tôi tớ vô cùng có quyền năng, có tư cách, có phẩm giá, để chu toàn phận vụ đó và để dâng lên lời tôn vinh Thiên Chúa.”

              “Chúa Giêsu đã được sai phái đến thế gian để tôn vinh bản thể thần linh, và sự tôn vinh xứng đáng với Thiên Chúa chỉ có thể được thực hiện bởi Thiên Chúa, vì mọi sự tôn vinh của các thụ tạo đều thiển cận và có giới hạn nên không xứng đáng với Thiên Chúa và vô cùng cách xa với sự tuyệt hảo của Ngài.”

Xuyên qua một ngôn ngữ khác với ngôn ngữ của chúng ta, và chúng ta phải cẩn thận đừng đánh giá nó, ta hiểu rằng cuộc đời của tất cả mọi người đều liên kết với cuộc đời của Chúa Giêsu. Bérulle đã “gặp gỡ cá nhân” với Chúa Giêsu một cách cao siêu. Cha đã suy xét lại trọn cuộc đời mình, trọn mối tương quan của ngài với Thiên Chúa, xuyên qua cuộc gặp gỡ này. Chính vì thế mà Đức giáo hoàng Urbanô VIII đã có thể gọi cha là “vị tông đồ của Ngôi Lời nhập thể”.

Cũng thế, trọn cuộc đời của chúng ta phải là một sự hợp nhất, hoặc, nói theo từ ngữ của Bérulle, một sự “kết chặt” với Chúa Giêsu. Chúng ta phải sống lại nơi bản thân mọi điều mà Chúa Giêsu đã sống, phải trải qua trong linh hồn ta các giai đoạn chính yếu của con đường Chúa đã đi, sống lại điều này nơi bản thân chúng ta hết mức có thể. Cha viết:

              Chúng ta phải không ngừng hợp nhất đời ta với cuộc đời của Chúa, các việc lao tác của ta với các việc lao tác của Ngài, và phải lấp đầy tư tưởng của ta bằng Ngài và bằng cuộc sống thần linh của Ngài, bằng các việc lao tác của Ngài và bằng mọi điều Ngài đã làm và đã gánh chịu, ở nội tâm cũng như ở ngoại giới, để chúng ta không còn chút thời gian cũng chẳng còn tâm trí nào mà nghĩ đến chính mình cũng như những khổ đau phiền muộn của chúng ta nữa.

Hy lễ của Đức Kitô và chức vụ tư tế

Chúa Giêsu đã biểu lộ tình yêu của Ngài với Chúa Cha, đã “tôn vinh” Cha theo cách thức trang trọng nhất bằng hy lễ của Ngài trên Thánh giá và bằng sự phục sinh của Ngài. Cho nên đỉnh cao của lời tụng ca và sự tôn thờ là Mình Thánh Chúa. Nơi đó gồm tóm mọi sự cao trọng và mỹ miều trên địa cầu:

              Thiên Chúa chỉ có thể được tôn kính cách xứng hợp bằng lễ vật thần linh này, vì trong lễ vật ấy bao gồm mọi tôn giáo và mọi sự thờ phượng Thiên Chúa. Không có lời ca tụng nào, sự kính trọng và tôn vinh nào mà chẳng được lễ vật ấy gồm tóm lấy, cũng không có điều gì trong Hội thánh mà chẳng từ đó phát sinh.

Đó là để nói đến tầm quan trọng của thánh lễ, là việc tưởng niệm cuộc Khổ nạn và sự phục sinh của Đức Kitô. Thánh Gioan Eudes, vị tiền hô của Vatican II, giải thích rằng, bởi phép thánh tẩy, mỗi Kitô hữu là một linh mục nhân danh hoàn vũ mà ca ngợi Thiên Chúa. Nhưng chức vụ tư tế thừa tác của các linh mục thì hẳn nhiên là khác biệt, và thánh nhân đã hợp nhất các vị này với Đức Kitô theo một kiểu chuyên biệt. Từ đó có một cái nhìn rất đẹp và cũng rất đòi hỏi về linh mục và về thánh lễ, mà trọn cả một phần trong đó vẫn còn giá trị một khi ta đã giải thích lại ngôn từ của nó.


Như vậy Trường phái Pháp là một hình thức linh đạo ít được biết đến so với linh đạo Biển Đức, Đa Minh, Phan Sinh, Cát Minh hoặc I Nhã chẳng hạn. Nhưng nó vẫn giữ nguyên hiệu lực. Hình thức tuy cũ rồi, nhưng điều sâu xa chính yếu vẫn luôn mời gọi.

(Còn tiếp)

0 nhận xét: