Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2024

Đời sống thần bí Kitô giáo (Phần 3)



Giá trị người ki-tô hữu hệ tại điều được ban cho. Làm con Thiên Chúa, được tham dự vào sự sống thần linh là bản chất người ki-tô hữu. Như vậy, tự căn tính đời sống người ki-tô hữu là ơn gọi thần bí. Nhận biết và sống thần bí chính là sống niềm vui và hạnh phúc của ơn làm con. Để sống ân huệ đó, cảm nghiệm của những người được ơn đặc biệt về sự hiện diện của Thiên Chúa là sự chỉ dẫn hữu hiệu giúp người ta có thể vượt qua ranh giới của sự hiểu biết, lòng đạo đức, vươn tới kết hợp với Ngài.

I. ƠN GỌI KI-TÔ HỮU VÀ ĐỜI SỐNG THẦN BÍ

1. Tự bản chất ơn gọi ki-tô hữu mang tính thần bí

Mọi người tín hữu đều được kết hợp nên một với Đức Ki-tô nhờ lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy. Đó là hồng ân làm con Thiên Chúa, được nên giống Thiên Chúa, trở nên“đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô”(Rm 8,29).

Bí tích Thánh Tẩy vừa thanh luyện con người khỏi mọi tì ố của tội, vừa in vào linh hồn dấu ấn không thể tẩy xóa là hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ đây đời sống mới đã khởi đầu trong sự kết hợp với Thiên Chúa. Quan hệ làm con đã được gieo vào tâm hồn người ki-tô hữu dưới dạng ân sủng. Tuy nhiên, đó mới là “mầm giống” của đời sống thần bí.[1] Mầm giống thần linh đã được ban cho nhưng chưa kiện toàn. Các tân tòng sau khi đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy trong đêm vọng Phục sinh bắt đầu bước vào một giai đoạn gọi là truyền bí pháp,để dẫn vào sống các mầu nhiệm Ki-tô giáo. Vì thế trong suốt cuộc đời mình, người ki-tô hữu cần phải sống cách có ý thức hơn bản tính thần bí trong mình, bằng cách phát triển mầm giống thần linh nhờ đời sống đức hạnh.

Cuộc đời người ki-tô hữu là tiến trình “đi lên” như ông Môsê lên núi để gặp Thiên Chúa.[2] Hành trình ấy chắc chắn sẽ gặp nhiều gian lao vất vả, nhưng niềm hy vọng không bao giờ lay chuyển là có Thiên Chúa ở khởi đầu và đích cùng của hành trình. Như đã trình bày, hành trình “đi lên” ấy cũng được thánh Têrêsa Avila và thánh Gioan Thánh Giá ghi lại rất tỉ mỉ và sống động qua bẩy tầng của Lâu đài nội tâm và cầu thang tình yêu mười bậc. Người ki-tô hữu có thể men theo hành trình đó mà tiến bước, để nhờ Thiên Chúa giúp có thể hoàn thành điều Ngài muốn trong phẩm giá cao cả mà ơn làm con mang lại.

2. Ơn gọi thần bí

Ơn gọi thần bí được hiểu theo hai nghĩa: tự bản chất Ki-tô giáo là mầu nhiệm Đức Ki-tô, là kế hoạch Thiên Chúa thực hiện nơi Người, nhờ cái chết và sự phục sinh của Người mà nhân loại được thần hóa. Thiên Chúa thực hiện kế hoạch ấy nơi Đức Ki-tô ngang qua các bí tích, cho nên đời sống người ki-tô hữu gắn liền với các bí tích, nhất là bí tích Thánh Tẩy và Thánh Thể. Các bí tích ban ân sủng gắn kết người tín hữu với Chúa Ki-tô và nhờ Người họ liên kết với Thiên Chúa Ba Ngôi.

Như vậy ơn gọi thần bí đồng nghĩa với ơn gọi làm con Thiên Chúa. Do đó, tất cả các ki-tô hữu được mời gọi và có bổn phận tiến đến sự thánh thiện do kết hợp với Thiên Chúa. Thánh Êlisabét Chúa Ba Ngôi sau khi đọc tác phẩm của thánh Gioan Thánh Giá đã tóm tắt mục đích ơn gọi ki-tô hữu của mình :“Uớc mơ của tôi là trở thành Chúa Giêsu, để Ngài lặp lại ở nơi tôi tất cả mầu nhiệm của Ngài”.[3] Vì mỗi tín hữu đều tiềm tàng là một nhà thần nhiệm, khi được tiếp xúc với những tâm hồn tao nhã đều cảm thấy nỗi đói khát Thiên Chúa nơi mình dâng cao.[4] Đó là ơn gọi thần bí của mọi ki-tô hữu.

Tuy nhiên, khi hiểu thần bí như một ơn sủng đặc biệt biểu hiện qua các hiện tượng thần bí như thị kiến, xuất thần, hay ơn chiêm niệm thiên phú thì đó lại là đặc ân Thiên Chúa ban cho một số người. Tất nhiên những hiện tượng này không phải là bản chất của kết hợp thần bí. Thánh Têrêsa Avila và thánh Gioan Thánh Giá là chứng nhân đặc biệt của những ân huệ đó. Cảm nghiệm thần hiệp của các ngài minh chứng kết hiệp thần bí là ơn sủng đặc biệt. Có điều những cảm nghiệm đó không làm lu mờ ơn gọi thần bí của mọi ki-tô hữu mà trái lại, như giáo huấn của Hội Thánh khẳng định : “Những dấu chỉ ngoại thường của đời sống thần bí chỉ được ban cho một số người, để biểu lộ hồng ân nhưng không được ban cho mọi người”.[5] Quả vậy, những kinh nghiệm thần bí của các ngài sẽ giúp ích cho hành trình thăng tiến tâm linh của các ki-tô hữu. Đó phải chăng cũng là cách Thiên Chúa lôi kéo con người vươn lên đỉnh cao hoàn thiện.

Trong thực tế, khi phong thánh cho một tín hữu Hội Thánh không đòi hỏi người ấy phải có những hiện tượng xuất thần, ngất trí hay đã đạt đến sự chiêm niệm thiên phú mà chỉ dựa vào tính cách anh hùng của việc thực hành các nhân đức theo gương Chúa Giêsu.[6] Như thế, thánh nhân là người đã thực thi các nhân đức cách phi thường. Họ là những người để cho Chúa Thánh Thần dẫn dắt trên đường hoàn thiện, và như vậy họ là những nhà thần bí đích thực. Họ làm sáng lên chân lý quan trọng của đời sống tâm linh Ki-tô giáo : Chúa Thánh Thần có muôn vàn cách dẫn người ta đến đỉnh cao sự trọn lành. Thời nào thánh đó, vì“gió muốn thổi đâu thì thổi” (Ga 3, 8).

Các tu sĩ là những người ki-tô hữu đặc biệt. Họ khát khao sự trọn lành và quyết tâm đạt được bằng cách bước theo sát Đức Ki-tô qua việc thực hiện các lời khuyên Phúc Âm. Theo nghĩa đó, các tu sĩ cũng là những “nhà thần bí”, bởi sự tự do chọn lựa yêu và tự hiến cho Đức Ki-tô, Đấng là tất cả của đời mình. Cuộc sống của người tu sĩ hôm nay loan báo hạnh phúc nước trời mai sau. Họ là các Ái phi và các Trung thần của Đức Ki-tô, họ yêu và làm chứng cho Ngài trong cuộc sống mỗi ngày.

3. Chức linh mục và thần bí

Linh mục nhờ sự thánh hiến đã lãnh nhận qua bí tích Truyền Chức Thánh, được sai đi bởi Chúa Cha, nhờ Đức Kitô, và một cách đặc biệt được nên đồng hình đồng dạng với Ngài, Đấng là Đầu và Mục Tử, để sống và hoạt động, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, nhằm phục vụ Hội Thánh và cứu độ thế giới.[7]

Đặc sủng của linh mục thúc đẩy người linh mục sống kinh nghiệm kết hiệp với Thiên Chúa cách thật sâu xa. Linh mục thi hành sứ mạng của Chúa Giêsu trong vai trò là Đầu và Mục Tử, linh mục là trung gian và cầu nối dân với Thiên Chúa. Qua linh mục, Chúa Giêsu tiếp tục đi giữa thế gian để giảng dạy, tha thứ, yên ủi, hầu nối lại mối dây tình yêu kết hợp lòng Thiên Chúa với trái tim con người. Qua đức ái mục tử, linh mục phản chiếu dung nhan thánh thiện của Chúa Giêsu, Đấng đến để phục vụ và hiến thân làm của lễ, đó cũng là con đường nên thánh của linh mục.

Người ta khó có thể dung hòa sứ mạng của linh mục với một đời sống linh mục thiếu sự kết hợp với Thiên Chúa. Linh mục làm sao có thể thi hành sứ mạng cứu độ của Chúa Giêsu nếu chính mình chưa đắm chìm trong Đấng Cứu Độ; linh mục làm sao có thể dâng lễ tế thánh thiện là Mình và Máu Chúa Ki-tô lên Thiên Chúa Cha nếu linh mục chưa dâng hiến sự trong trắng của con tim mình; linh mục làm thế nào để dẫn đoàn chiên đến Nguồn Suối nếu mình chưa đón nhận dòng nước mát từ Nguồn Suối ấy. Và linh mục làm sao có thể ban lời tha tội khi mình chưa nghiệm được hồng ân thứ tha.

Thánh Gioan Thánh Giá trước khi nhận được đặc sủng kết hợp thần bí với Thiên Chúa đã sống đặc sủng đời linh mục. Những cảm nghiệm thần bí được ban cho ngài trong khi thi hành sứ vụ mục tử. Sự thánh thiêng của đời sống linh mục chiếu tỏa sự thánh thiêng của sứ vụ lãnh nhận. Sự thánh thiện của người linh mục phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa, đó là đời sống thần bí đúng nghĩa mà kết quả nó mang lại là sự nên thánh của người giáo dân, những người mang trong mình giòng máu thần linh được linh mục chăm sóc.

Ngày nay, hơn lúc nào hết sự thánh thiêng của đời sống và sứ vụ linh mục đang gặp thách đố mạnh mẽ bởi trào lưu thế tục, nếp sống buông thả vô luân. Người linh mục có thể bị cuốn theo đà danh vọng, quyền lợi và lạc thú, quên đi sự thánh thiện cần phải có của đời linh mục. Tuy nhiên, nó cũng có thể là cơ hội để ơn Chúa và sự cộng tác của người linh mục cho thấy rằng chỉ có Tình Yêu, sự Thánh Thiện và Vẻ Đẹp của Thiên Chúa mới làm no thỏa cơn khát vĩnh cửu của lòng người.

(Còn tiếp)
- Trích trong tác phẩm "Đời sống thần bí Ki-tô giáo qua cảm nghiệm của thánh Têrêsa Avila và thánh Gioan Thánh Giá" của Phêrô Tạ Văn Tuân.

0 nhận xét: