Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2024

Thần học thiêng liêng (tiếp theo)

 


Tiến Trình Ðức Lý

Nên thánh và đức hạnh, đó là chính con người tôi nên thánh và sống đức hạnh. Tôi chỉ nên thánh và sống đức hạnh bằng hành vi và khuynh hướng của mình. Nói đến hành vi, phải nói đến ý thức và quyết định. Còn khuynh hướng đây là tập quán tốt hay đức tính chúng làm nên căn bản đức lý của con người tôi.

Quả thật, một hành vi thực sự nhân linh luôn diễn ra với ý thức đầy đủ về lý do, sự việc, với quyết định dứt khoát trên căn bản của ý thức ấy. Do đó, quyết định biệt định hành vi thành tốt hay xấu, tốt ít hay tốt nhiều. Và qua hành vi, nó biệt định con người, biến tôi thành xứng hay bất xứng đáng bởi việc làm của tôi, do đó cũng vạch trên căn cước vĩnh cửu của tôi một dấu ấn nào đó.

Quyết định không thể y hệt nhau từ hành vi trước đến hành vi sau, và dấu vết để lại trên nhân cách cũng nông sâu khác nhau theo thời gian. Bởi lý do còn tác động của kinh nghiệm và tập quán, Kinh nghiệm giúp ta tập dượt, để bề rộng và bề dầy các hoàn cảnh khiến cho hành vi ngày thêm tinh tế, dẻo dai. Còn tập quán lại gia tăng độ nghiêng khuynh hướng và độ vững của nền, khiến quyết định thêm trơn, lanh, dễ, mạnh, chắc. Lý do là vì các khuynh hướng đối nghịch suy yếu dần và các chỗ gồ ghề tâm lý được mài trơn, khiến bộ máy làm việc tốt hẳn sau giai đoạn chạy rà (rodage).

Thế nhưng ngược lại, nếu do quen (việc) mà không phải chống chọi hay cố gắng gian khổ nữa, thì ý thức có kém đi, quyết định có mờ nhạt, do đó hành vi bớt nhân linh hay không?

Ðể trả lời câu hỏi, trước hết nên phân biệt ở hành động cái xác của nó là then máy tâm - sinh lý, và cái hồn là ý hướng, động cơ, tâm tình. Khi hành động nghiêng về xác, thì cái "quen" có giảm đi ý thức và quyết định thật. Còn khi nó mạnh về hồn, thì tập quán thành đức tính chỉ nói lên độ trơn nhạy của tinh thần và độ thuần hóa của "xác thịt" nó không còn là sức trì, mà đã thành lực đẩy cho tinh thần bay dễ hơn, khiến hành động như lướt êm trên đệm từ, không một rung chuyển của va chạm, nên cũng không còn cảm nhận của vượt cản, thế thôi. Mà như thế là hoàn thiện, chứ đâu phải khuyết điểm. Tự nguyện không còn nghịch với tự nhiên, vì tự nguyện đã nên tự phát (spontaniété) rồi. Tự phát chính là chỗ hoàn tất của đạo đức vậy (Xem thêm A. Louf, Std, tr.54).

Tự phát dù đã đạt, vẫn còn tiến không ngưng. Nó tiến về cả độ bén nhạy, trơn lanh, cả về nội lực và bề sâu nữa. Và như thế, có sự vượt trội của tiến bộ (proficiens) đối với khởi đầu, dù ngay lúc khởi đầu, anh đã có một tình yêu bốc lửa, một quyết định như búa giáng trên đe. Có điều sức mạnh của khởi đầu sẽ thành một trớn tốt, để do gia tốc mà tiến độ ngày càng lớn thêm. Vâng, sức mạnh khởi phát tác động vào bước tiến dài lâu, nhưng cơn sóng bề mặt mà chị thấy thường khác với dòng chảy bề sâu mà chị không thấy. Thế mà chính độ sâu bản thân (profondeur personnelle) mới là quan trọng (Xem thêm K. Rahner, Eléments de théologie spirituele, tr. 27-31). Ðộ sâu bản thân này vừa làm thành độ sâu đức lý, vừa quyết định phần lớn độ sâu của quyết định trong hành động của anh.

Ðó mới chỉ là đạo đức thủ đắc (vertu acquise), tự phát thủ đắc, độ sâu thủ đắc. Dù trơn lanh, bén nhạy và sâu xa tới đâu, hành vi trong đạo đức thủ đắc vẫn còn nhiều nông cạn, và tự phát của nó không thể là hoàn toàn. Bởi lẽ các đức thiên phú, con đẻ của ân sủng, từ bề sâu vô thức chưa bắt tay chặt chẽ được với sinh hoạt đạo đức mặt ngoài. Thần khí rồi phải vào cuộc trực tiếp, với những thử thách "đêm tối", sẽ triệt hạ mọi rào cản và nối mạch giữa trong với ngoài, giữa siêu nhiên với tự nhiên. Hậu quả là một cuộc sống hoàn toàn mới, với một thánh thiện hoàn toàn khác. Ðạo đức đã thành thiên phú cả ở bề mặt của hành động chúng ta. Hay nói cho đúng hơn, đạo đức thiên phú từ sâu thẳm vô thức đã tràn tới bề mặt ý thức và hoạt động ở đó. Giống như bước chuyển từ chiêm tự mình sang chiêm do Chúa (tức thiên phú) vậy. Theo tôi nghĩ, việc chuyển biến ấy thường diễn ra cùng lúc trên hai địa hạt chiêm hành. Vì sự sống thiêng liêng là một mà. Là một bằng cả hai mặt ấy, khiến cho khi Thánh Thần vào cuộc trực tiếp, thì Ngài vừa khiến tôi sáng lên bên trong, vừa dìu tôi đi trong hành động.

Hội nhất trong đức Ái

Sự hoàn thiện cũng là sự hoàn tất nhân cách đức lý con người, dù trên bình diện thiêng liêng cũng thế. Nghĩa là tôi không thánh với từng mảnh đức tính rời rạc, nhưng với những khuynh hướng tốt đã thành cơ cấu với nhau để làm nên chỉ Một con người đức lý thôi. Sự hội nhất đức lý ấy là do Nhân trên bình diện tự nhiên, còn trên bình diện siêu nhiên thì do Ái (Xem lại chương 6).

Bước tiến thiêng liêng quả là hướng về sự hội nhất trong đức Ái. Càng đào tới bề sâu tôi, đức Ái càng dung hợp các đức. Bước đầu của nó là xoi thủng lớp vỏ để làm hiện rõ vết nhơ do nết xấu và tội. Ðức Ái sẽ thúc tôi ăn năn và hoán cải, đồng thời sắp đặt nội tâm và cuộc sống cho ngăn nắp. Yoan Thánh giá ví đức Ái với mặt trời chiếu qua cửa kính (Leo núi Các men, q.2, ch.4). Ánh sáng đức Ái vừa giúp nhìn ra vết bẩn trên kính, vừa tẩy rửa để lọt qua kính vô phòng, khiến tôi thấy rõ nội tâm, khiến kết hợp được trong đó những sức lực và khuynh hướng để tạo nên một nhân cách vững vàng.

Sự hội nhất cứ thế tiến mãi vào chiều sâu, về phía những gì nền tảng nhất. Mỗi tầng khi được quét dọn và sắp đặt rồi, lại giúp ánh sáng xuyên vô tầng trong để đức Ái tiếp tục công việc. Tới một độ sâu nào đó, nó sẽ chạm phải những sức cản lớn nhất: về đức lý, đó là cái Tôi và tầng ngầm của tự ái; về tâm lý, đó là phản xạ chống đỡ tự nhiên của trí năng và cảm năng vốn chưa quen với môi trường phi trọng lực, với những làn sóng siêu ngắn của Thánh Thần. Sức cản còn có thể là những trói buộc vô thức có tính tâm bệnh, khiến tôi khó chấp nhận cho mình (assumer) một số hoàn cảnh (situations) hay biến cố (événements). Với những trở ngại trước, thì đêm tối Chúa gửi sẽ san bằng dần. Còn với trở ngại tâm bệnh, thường phải nhờ đến phòng mạch phân tâm. Theo một số chuyên gia tu đức học, thì những khoảng tối tâm lý này, khi chưa tước đoạt hết tự do, sẽ không ngăn trở việc lướt sóng nên thánh, dù con tàu có thể chấn động do va chạm mạnh. Theo tôi nghĩ, và nhiều thần học gia hôm nay cũng vậy, thì tuy với ơn Chúa, tôi vẫn có thể vượt qua, nhờ đó thánh siêu nhiều mặt, nhưng sự hội nhất không thể toàn vẹn, cũng như thương tích không sao tránh khỏi.

* * *

Chẳng những hội nhất các đức là do đức Ái, mà các hành vi đức Ái cũng cần được hội nhất bằng một thái độ căn bản (attitude de fond).

Khi còn nông trong đức Ái, với cầu nguyện tôi nhiều ý nhiều lời, cũng như đếm số lần đi lễ, lần hạt, hành hương. Riêng hành động thì vẫn tản mát với những việc mục vụ này, việc xã hội kia. Kịp khi đức Ái do lâu ngày tập mà thành thái độ căn bản, tôi chỉ còn thiết tha với một mình Chúa dù trong công việc hay trong suy chiêm, đồng thời nhìn thấy Chúa nơi tất cả những người mà tôi đang phục vụ. Ðây là lúc mà đức Ái không những hội nhất bản thân tôi, mà còn mở tôi sang thế giới, để sự hội nhất thành hội nhất Thiên-Thế-Ngã. Lúc cầu nguyện, tôi không chỉ nhìn Chúa, mà còn với Chúa nhìn sang hoàn vũ: "quan thế âm", để đức Ái được suy chiêm nung nấu cũng thúc tôi tạm rời suy chiêm lên đường phục vụ. Rời suy chiêm, nhưng tôi đâu có từ giã Chúa, khi mà tôi vào cuộc là để yêu Chúa hơn, để với Chúa truân chuyên đường trường cứu độ. Ban đầu, tôi còn phải từng lúc ngưng tay để hâm nóng tình yêu. Ban đầu, tôi còn vất vả tay chống tay chèo để khỏi sa lầy trong công việc bằng cách luôn nhớ lại mục tiêu Vì Chúa. Nhưng rồi sau những đêm tối thanh tẩy, tôi chỉ còn biết sống cho Chúa dù trong hành hay chiêm, vì không còn khoảng cách giữa hai bên nữa.

Sự hội nhất không những diễn ra giữa hành và chiêm, mà còn diễn ra giữa hai mặt yêu Chúa và yêu người. Ban đầu, người ta tưởng như yêu Chúa trong nguyện cầu và yêu người trong phục vụ. Nhưng sao lại không thể yêu Chúa trong phục vụ khi mà vì Chúa tôi đang phục vụ anh em nhỉ? Và sao lại không thể yêu anh em khi nguyện cầu nếu trong nguyện cầu tôi đang hướng về họ trong Chúa? Chính vì yêu người đã thành một với yêu Chúa, mà thánh Yoan có thể quả quyết: "Kẻ không yêu (anh chị em) thì không biết (hiểu) Chúa" (1Yo. 4. 8), và: "Nói mình yêu Chúa mà ghét anh chị em là nói ngoa" (1Yo. 4. 20).

* * *

(Còn tiếp)
- Trích từ tác phẩm "Thần Học Thiêng Liêng" của Lm. Hoành Sơn - Hoàng Sỹ Quý, SJ.


0 nhận xét: