ĐỂ HIỂU ĐẠO CHÚA HƠN
+ GIÁO HỘI HỮU HÌNH VÀ VÔ HÌNH (tiếp theo)
Đến đây, tôi xin mời các bạn chúng ta tiếp tục cùng nhau quay lại với bình diện lịch sử tư tưởng của nhân loại, và tìm hiểu xem việc truyền giáo đã đặt ra những vấn đề gì. Việc truyền giáo khắp năm châu bốn biển, tiếp xúc với những nền văn hóa khác hẳn nền văn hóa Âu Tây vốn thoát thai từ một xã hội Kitô chế, đặt ra cho Giáo hội Công giáo nhiều vấn đề. Vấn đề thứ nhất, một mặt là làm thế nào vẫn giữ được cốt lõi của đức tin, nhưng một mặt khác cũng phải làm thế nào thích ứng được với những nền văn hóa của các dân tộc mà các vị thừa sai và các tín hữu bản địa gặp phải, để tiếng nói loan báo Tin vui của mình được chấp nhận và việc Tin vui thâm nhập vào đất nước, dân tộc, văn hóa của mình góp phần phục vụ xây dựng về tất cả mọi mặt, kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo đức luân lý, mối giềng xã hội cho đến sự cứu rỗi muôn đời của các linh hồn. Và như chúng ta đã thấy, giai đoạn đầu, một mặt là thoát thai từ văn hóa bản địa, nhưng đồng thời cũng còn e ngại, sợ đi vào những con đường lạc giáo, cho nên hàng giáo phẩm, trong giai đoạn đầu, thường là những người thuộc các nước ở Âu Tây mà từ ngôn ngữ cho đến phụng tự vẫn còn rập khuôn các nước phát xuất phong trào truyền giáo. Nhưng đồng thời cũng có một nỗ lực muốn thoát khỏi tình trạng tạm thời đó để Giáo hội Công giáo, sau một thời gian đã vững chắc tại từng địa phương, có thể tự mình phát triển, tự tìm lấy những quy chế, những biểu tượng, những sinh hoạt phù hợp với mỗi một văn hóa, mỗi một dân tộc. Cụ thể ở nước Việt Nam ta, sau hơn bốn trăm năm truyền giáo, thì hiện nay, tất cả các vị Giám mục, linh mục đều là người Việt Nam và ngôn ngữ phụng tự bây giờ hoàn toàn dùng tiếng Việt, và cũng đã có một phần đóng góp như: những bức tranh của họa sĩ Lê Văn Đệ [(1906-1966) Thủ khoa khóa I trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1930 và cũng là Giám đốc đầu tiên của trường Quôc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn (Wikipedia)] , những bài thơ của thi sĩ Hàn Mạc Tử... Là những con người sống trong vòng thời gian tối đa là 100 năm, thì cái nhịp độ của chúng ta có lẽ thấy rằng quá chậm. Tuy nhiên, như tôi đã nói, dưới cái nhìn vĩnh cửu, một vài trăm năm cũng chỉ như trong chốc lát, thì sự thận trọng, dè dặt của giáo quyền có phần nào đáng tiếc, nhưng cũng có phần nào là cần thiết, bởi vì công việc là công việc muôn đời. Nhưng chúng ta hy vọng rằng, với nhịp độ gia tốc lịch sử hiện nay, công trình thích ứng, hòa nhập với các dân tộc, các nền văn hóa, với các xã hội khác với xã hội Âu Tây sẽ được phát triển theo một nhịp độ nhanh chóng hơn; và nếu nhìn lại quá khứ, thì tình trạng của Giáo hội Công giáo ở các xứ truyền giáo, mà hầu hết ngày nay đều đã có hàng giáo phẩm bản quốc, tương tự như thời truyền giáo đầu tiên, lúc mà nhóm môn đệ tiên khởi thoát khỏi nền văn hóa Do Thái giáo cũ, tiếp xúc với nền văn hóa La - Hy, tức là Rôma và Hy Lạp, của đế quốc Rôma, cũng phải đợi đến thế kỷ IV rồi sang thế kỷ VIII, sang thế kỷ XII, mãi cho đến thế kỷ XIII, XIV mới thật sự nhuần nhuyễn trong xã hội ven bờ Địa Trung Hải; và ở thời đại chúng ta, một thời đại mà ai cũng biết, không riêng gì dân tộc Việt Nam, mà toàn thể nhân loại cả hai thế giới là tư bản và xã hội chủ nghĩa, hầu như đứng trước một khúc quanh vô cùng quan trọng, Giáo hội Công giáo cũng thông dự vào thân phận của một dân tộc, cũng như thân phận toàn thể nhân loại, chưa biết tương lai sẽ ra sao. Chỉ có một điều, một mặt, cố gắng thực hiện tinh thần khiêm nhường, hiền lành, ý thức được thân phận hèn kém, yếu đuối của chính mình, mặt khác vẫn cậy trông vào sự phù trự của Thiên Chúa và hy vọng cuối cùng mọi sự sẽ được tốt lành. Đương nhiên là phải qua nhiều gian nan thử thách, qua nhiều thanh lọc, qua nhiều tu chỉnh, cải thiện, cùng với sự phấn đấu của mỗi người, mỗi cộng đoàn, đồng thời chờ mong, kêu gọi lòng thông cảm của tất cả những anh em trong lòng dân tộc cũng như trong cộng đồng quốc tế, với sự phù trợ của ơn trên. Cái tinh thần đó, cái nỗ lực đó đã được thể hiện qua công đồng Vaticanô II nhóm họp cách nay trên hai mươi năm, và hiện đang còn được đào sâu. phát triển dần dần bằng cách đưa ra áp dụng vào thực tế, với một mức độ khi nhanh khi chậm, nơi rộng nơi hẹp và tùy điều kiện về mọi mặt của từng địa phương; và cũng xin nhắc lại một điều là, dù phấn đấu đến đâu, nỗ lực đến đâu, dù được ơn phù trợ của Đấng toàn năng, nhưng mỗi một cá nhân Kitô hữu cũng như toàn thể Giáo hội Kitô giáo cũng vẫn chỉ là những con người, cũng vẫn chỉ là những tổ chức, cơ chế ở trần gian còn len bóng sự dữ, tội lỗi và đau thương này, cho nên sẽ vẫn còn, và còn mãi cho đến ngày Cánh chung, lẫn lộn sáng tối, trắng đen, hay dở, tốt xấu, vả chăng đó cũng là một cách thông dự trong thân phận làm người, dù là con người đi theo dưới bất kỳ ngọn cờ lý tưởng nào; vì bản chất Kitô giáo không phải là đi tìm sự siêu thoát ở một cõi trời không tưởng nào đó, nhưng là lặn sâu xuống đáy vực thẳm của trần gian tội lụy đau thương bằng chính bản thân mình, cố gắng tự nâng lên và nâng lên trong mức độ tối đa có thể, chắc hẳn không làm sao có thể tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót, thậm chí những phản bội, những sa ngã của cá nhân, dù ở cấp bậc nào, từ Giáo hoàng cho đến một giáo dân bình thường, cũng như ở bình diện toàn thể cộng đoàn dân Thiên Chúa; chỉ có đến ngày Cánh chung, khi mà tấm thảm thời gian cuốn lại, và e có lẽ phải qua một sự thanh lọc khá nghiêm trong, mới tìm được những nét toàn bích của Thành Thành Giêrusalem từ trời mà xuống, trang điểm như một tân nương chào đón tân lang. Bao giờ vẫn còn trong cuộc lữ thứ trần gian này, vốn là một trần gian có bóng dáng sự dữ, mà nhiều khi sự dữ hình như chiến thắng, chẳng những ở bên ngoài, mà ngay cả trong lòng Giáo hội, thì vấn đề vẫn là tranh tối tranh sáng, vẫn là khi đục khi trong, khi cao khi thấp, khi tốt khi xấu, khi hay khi dở, vả chăng đó cũng là quy luật muôn đời của lịch sử loài người và nói chung, của lịch sử vũ trụ khi mà tội lỗi đã len vào.
(Còn tiếp)
- "Để Hiểu Đạo Chúa Hơn" - Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương.


0 nhận xét:
Đăng nhận xét